Danh sách câu hỏi
Có 4597 câu hỏi trên 92 trang
* Nội dung bài Người chăn dê và hàng xóm: Câu chuyện kể về 2 người hàng xóm sống gần nhau. Một người nuôi rất nhiều dê và một nguồi lại nuôi chó săn, những con chó săn luôn làm hại đến đàn dê nên người chăn dê đã kiện ra toà. Ở toà người chăn dê đã nghe được lời khuyên của thẩm phán và có cách xử lí rất thông minh
Người chăn dê và hàng xóm
Có một người nuôi rất nhiều dê. Hàng xóm của ông ta lại nuôi chó dữ. Mấy con chó thường nhảy qua hàng rào, tấn công những con dê đáng thương. Mấy lần, người chăn dê bảo người hàng xóm trông coi đàn chó của mình, nhưng người hàng xóm cứ mặc kệ, chỉ nhận lời miệng. Vài ngày sau, chó của ông ta lại nhảy qua hàng rào, cắn bị thương mấy con dê. Người chăn dê không thể chịu đựng hơn nữa, liền kiện lên quan toà.
Nghe lời buộc tội của người chăn dê, vị quan toà anh minh nói:
– Ta có thể trừng phạt người nuôi chó, cũng có thể ra lệnh nhốt chó của anh ta lại. Nhưng làm như vậy, anh sẽ mất một người bạn và có thêm một kẻ thù. Anh muốn hàng xóm của mình là kẻ thù hay muốn họ là bạn mình?
– Đương nhiên tôi muốn hàng xóm là bạn rồi.
– Vậy anh hãy nghĩ xem, lãm thế nào để có một người hàng xóm tốt và đàn dê của anh được an toàn?
Người chăn dê suy nghĩ hồi lâu, rồi vui vẻ ra về. Hôm sau, người chăn dê chọn ba con dê con đem tặng cho ba cậu con trai người hàng xóm. Nhìn thấy những con dê xinh xắn, hiền lãnh, ba cậu con trai vui sướng như bắt được vãng, hằng ngày tan học về đều ra sân chơi với ba con dê. Vì sợ ba con dê của con bị tấn công, người nuôi chỗ làm một chiếc lồng sắt to, nhốt lũ chó vào trong. Từ đó về sau, đàn dẽ của người chăn dê không bị tấn công nữa. Để cảm tạ ý tốt của người chăn dê, mỗi khi có món ăn ngon, người hàng xóm thường đem biểu ông. Dẫn dẫn, hai nhà trở thành hàng xóm tốt của nhau.
Luyện tập viết đoạn văn nêu ý kiến về một hiện tượng xã hội
(Viết mở đoạn, kết đoạn)
Viết câu mở đoạn và câu kết đoạn cho các đoạn văn sau:
Đoạn văn 1 trang 107 SGK Tiếng Việt 5 tập 1:
Mở đoạn:……
Thân đoạn:
Việc đeo khăn quàng đỏ là vinh dự và cũng là trách nhiệm của người đội viên, nhưng tại sao một số bạn lại ngại ngùng khi đeo khăn quàng đỏ? Có bạn nhất khăn quàng đỏ vào cặp hoặc túi quần, khi đến lớp mới vội vàng lôi cái khăn nhàu nhĩ từ trong cặp, trong túi ra. Như thế không hay chút nào.
Kết đoạn:………
Đoạn văn 2 trang 107 SGK Tiếng Việt 5 tập 1:
Mở đoạn:……….
Thân đoạn:
Các bạn nghĩ xem, nếu ai cũng mang đồ ăn sáng vào lớp thì kết quả thế nào? Thứ nhất, lớp học sẽ bữa bãi vì đồ ăn rơi vãi ra bàn ghế, sách vở. Thứ hai, khi bạn ăn sáng trong lớp, bạn sẽ khiến các bạn khác không tập trung học tập. Chưa kể, mùi thức ăn còn gây khó chịu cho mọi người xung quanh.
Kết đoạn:………
* Nội dung của bài Mồ côi xử kiện: Câu chuyện kể về một chàng Mồ Côi rất nhanh nhẹn công tâm và có tài xử án rất thông minh
Mồ côi xử kiện
Ngày xưa, ở một vùng quê nọ, có chàng Mồ Côi rất nhanh nhẹn, công tâm. nên được người dân tin tưởng giao cho việc xử kiện.
Một hôm, có người chủ quán đưa một bác nông dân đến công đường. Chủ quán thưa:
– Bác này vào quán của tôi hát mùi thơm lợn quay, gà luộc, vịt rán mà không trả tiền nên tồi kiện bác ấy. Mồ Côi hỏi bác nông dân. Bác trả lời:
– Tôi chỉ vào quán ngồi nhờ để ăn miếng cơm nắm chứ tôi không mua gì cả.
Mồ Côi bảo:
– Nhưng bác có hít hương thơm thức ăn trong quán không?
Bác nông dân đáp:
– Thưa có.
Mồ Côi nối.
– Nếu bác đã hít mùi thức ăn thì bác phải bồi thường. Chủ quán muốn bồi thường bao nhiêu?
– Hai mươi đồng.
– Bác đưa hai mươi đồng đây thì tôi phân xử cho! – Mồ Côi bảo.
Bác nông dân giãy nảy
– Tôi có đụng chạm gì đến thức ăn trong quán đầu mà phải trả tiền ?
– Bác cứ đưa tiền đây.
Bác nông dân ấm ức
– Nhưng tôi chỉ có hai đồng.
– Cũng được.
Mồ Côi thản nhiên cầm lấy hai đồng bạc bỏ vào một cái bát, rồi úp một cái bát khác lên, đưa cho bác nông dân, nói:
– Bác hãy xóc lên cho đủ mười lần. Còn ông chủ quán, ông hãy nghe nhé! Hai người tuy chưa hiểu gì nhưng cũng cứ làm theo. Khi đồng bạc trong bát úp kêu lạch cạch đến lần thứ mười, Mồ Côi phản:
– Bác này đã bồi thường cho chủ quán đủ số tiền. Một bên hít mùi thịt, một bên nghe tiếng bạc. Thế là công bằng.
Nói xong, Mồ Côi trả hai đồng bạc cho bác nông dân rồi tuyên bố kết thúc phiên xử. Bác nông dân thở phào nhẹ nhõm, còn ông chủ quán đành lẳng lặng ra về, không dám kêu ca gì.
Truyện dân gian dân tộc Nùng
Vì sao mồ côi được người dân tin tưởng giao cho việc xử kiện?
* Nội dung của bài Tiếng ru: Bài thơ là những lời ru của mẹ ru giấc ngủ cho bé, trong những lời ru ấy có lồng ghép những sự vật, hiện tượng sinh động. Quan trọng hơn cả, lời ru ấy cũng là lời nhắn nhủ, gửi gắm vào người con phải biết yêu thương trân trộng quê hương đất nước
Tiếng ru
Con ong làm một, yêu hoa
Con cá bơi, yêu nước; con chim ca, yêu trời
Con người muốn sống, con ơi
Phải yêu đồng chi, yêu người anh em.
Một ngôi sao, chẳng sáng đêm
Một thân lúa chín, chẳng nên mùa vàng.
Một người – đâu phải nhân gian?
Sống chăng, một đốm lửa tần mà thôi!
Núi cao bởi có đất bồi
Núi chẽ đất thấp, núi ngồi ở đâu?
Muôn dòng sông đổ biển sâu
Biển chẽ sông nhỏ, biển đầu nước còn?
Tre già yêu lấy măng non
Chắt chiu như mẹ yêu con thăng ngày.
Mai sau con lớn hơn thầy
Các con ôm cả hai tay đất tròn.
TỐ HỮU
Bài thơ là lời của ai, nói với ai, khi nào?
* Nội dung bài Cây phượng xóm Đông: Câu chuyện kể về cây Phượng già cổ thụ ở đầu làng xóm Đông nơi mà bọn trẻ con thường tụ tập vui chơi, nhưng lại có nguy cơ bị chặt để mở rộng đường làng, và sự hy sinh cao cả của ông Tạo để giữ lại cây Phượng già cho xóm
Cây phượng xóm Đông
Tối thứ Bảy, trăng sáng vằng vặc. Như thường lệ, lũ trẻ xóm Đông tụ tập ở gốc phượng đầu xóm để nô đùa. Bỗng, Hùng xuất hiện, giọng hớt hải: “Nguy rồi, các cậu ơi! Cây phượng này sẽ bị chặt để xã mở rộng đường. Chú Tâm nói với bố tớ như vậy!”
Cây phượng đã có từ rất lâu. Gốc phượng xù xì, cành lá xum xuê, rợp mất cả một vùng. Bọn con trai chơi chọi gà bằng hoa phượng, lũ con gái chơi chuyển, nhảy dãy, chơi ô ăn quan dưới gốc phượng. Tuổi thơ của chúng tôi thật êm đềm vì có cây phượng chở che, ấp ủ,....
Đối diện với cây phượng là ngôi nhà nhỏ – quản hàng của cụ Tạo. Đoạn
đường liên xóm đến đây bị thắt lại như cổ chai: một bên là cây phượng, một bên là quán hàng. Để mặt đường đạt chuẩn, chỉ có cách chặt cây phượng già hoặc dời quán của cụ Tạo. Cụ Tạo tuổi cao, không người thân thích, dồi quán thì cụ ở đâu? Thế nên chỉ còn cách hạ cây phượng.
Tối ấy, cụ Tạo rất ngạc nhiên vì trăng sáng mà lũ trẻ không nô đùa như mọi khi, chỉ túm tụm thầm thì. Cụ chậm rãi ra sau cây phượng và nghe hết cả. Cụ lặng lẽ về nhà, trằn trọc suy nghĩ. Mệt mỏi, cụ thiếp đi. Trong giấc mơ, cụ
thấy cây phượng đã bị chặt, chỉ còn một khoảng trời nắng chõi loá, nhức nhối. Cụ giật mình choàng dậy, bật đèn, tìm cây bút và tờ giấy trắng viết đơn xin hiến nhà để mở rộng mặt đường.
Hè năm ấy, cây phượng ra hoa nhiều lắm, màu hoa đỏ rực. Lũ trẻ rủ nhau hải một cảnh hoa phượng thật đẹp đi thăm cụ Tạo ở nhà dưỡng lão. Cụ Tạo run run nhận món quà giản dị nhưng đầy ý nghĩa từ tay bọn trẻ. Lòng cụ thanh thản vì đã làm được một việc có ích.
Theo PHẠM THỊ BÍCH HƯỞNG
Các bạn nhỏ xóm Đông lo lắng điều gì?