Câu hỏi:
11/07/2024 1,142Sách mới 2k7: 30 đề đánh giá năng lực DHQG Hà Nội, Tp. Hồ Chí Minh, BKHN 2025 mới nhất (600 trang - chỉ từ 140k).
Quảng cáo
Trả lời:
Dàn ý Thuyết trình về một địa chỉ văn hoá ở nơi em đang sống
1. Mở đầu:
- Giới thiệu khái quát về một địa chỉ văn hóa nơi em đang sống: thành Cổ Loa và lễ hội Cổ Loa.
2. Nội dung chính
a. Khái quát một vài nét về Thành Cổ Loa:
- Vị trí: xã Cổ Loa, huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội.
- Lịch sử: được xây dựng dưới thời An Dương Vương.
b. Trình bày những nét nổi bật, độc đáo của lễ hội:
- Thời gian tổ chức: từ sáng sớm mùng 6 tết đến hết ngày 18 tháng Giêng hàng năm.
- Địa điểm tổ chức: Đền Cổ Loa, xã Cổ Loa, huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội.
- Phần lễ:
+ Lễ rước kiệu vào đền An Dương Vương.
+ Lễ rước thần.
- Phần hội:
+ Hoạt động diễn xướng.
+ Trò chơi dân gian.
- Trình bày những ý nghĩa của lễ hội Cổ Loa với đời sống, con người:
+ Là nơi con người thể hiện lòng thành kính với những người có công với đất nước.
+ Giáo dục nhân dân về truyền thống "uống nước nhớ nguồn".
+ Là nơi lưu giữ các giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc.
+ Mang đến không khí nhộn nhịp, vui tươi cho người dân mỗi dịp Tết đến xuân về.
3. Kết bài:
- Khẳng định lại giá trị văn hóa của lễ hội Cổ Loa.
Thuyết trình về một địa chỉ văn hoá ở nơi em đang sống - mẫu 1
Với những ai đã từng đến thăm mảnh đất Hải Dương, không thể không biết đến di tích lịch sử Côn Sơn Kiếp Bạc, đây được coi là một trong số các di tích đặc biệt cấp quốc gia gắn liền với những sự kiện lịch sử đầy oai hùng của dân tộc Việt Nam ta.
Quần thể di tích Côn Sơn Kiếp Bạc tọa lạc tại xã Cộng Hòa, Chí Linh, tỉnh Hải Dương, gắn liền với các chiến công đánh thắng quân Nguyên Mông của dân tộc vào thế kỉ XIII, cuộc kháng chiến đánh đuổi giặc Minh xâm lược ở thế kỉ XV đồng thời gắn với các vị anh hùng dân tộc, danh nhân lớn như Nguyễn Trãi, Trần Hưng Đạo. Đến với quần thể Côn Sơn Kiếp Bạc, ta không chỉ được thưởng thức cảnh sắc thiên nhiên tươi đẹp nơi đây mà còn được tìm hiểu những kiến thức văn hóa lịch sử vô cùng hữu ích về chùa Côn Sơn, đền Kiếp Bạc và các đền thờ (đền thờ Nguyễn Trãi, đền thờ Trần Nguyên Hãn). Bên cạnh đó, nơi đây còn là quần thể di tích lịch sử liên quan đến những chiến công lẫy lừng chống ngoại xâm và cũng là nơi gắn liền với thân thế, sự nghiệp của các vị anh hùng dân tộc như: Nguyễn Trãi, Trần Hưng Đạo cùng nhiều danh nhân văn hoá của dân tộc: Pháp Loa, Huyền Quang… Điểm nhấn của khu di tích này là chùa Côn Sơn và đền Kiếp Bạc. Trong dịp Lễ hội mùa thu năm 2012, Khu Di tích lịch sử – văn hóa Côn Sơn – Kiếp Bạc đã được công nhận là di tích quốc gia đặc biệt.
Chùa Côn Sơn có từ thời Đinh, năm Khai Hựu nguyên niên (1329), thời nhà Trần được Pháp Loa tôn tạo với quy mô lớn. Dấu vết của lần trùng tu này còn hiện diện đến nay. Nguyễn Trãi từng làm Đề cử ở nơi đây. Chùa Côn Sơn tên chữ là “Thiên Tư Phúc Tự”, nghĩa là chùa được trời ban cho phước lành. Chùa kiến trúc theo kiểu chữ công, gồm Tiền đường, Thiêu lương, Thượng điện là nơi thờ Phật, trong đó có những tượng Phật từ thời Lê cao tới 3 mét. Tiếp đến nhà Tổ là nơi thờ các vị tổ có công tu nghiệp đối với chùa: Điều ngư Trúc Lâm Trần Nhân Tông, Thiền sư Pháp Loa và Thiền sư Huyền Quang. Đường vào Tam quan lát gạch, chạy dài dưới hàng thông trăm năm phong trần xen lẫn những tán vải thiều xum xuê xanh thẫm. Tam quan được tôn tạo năm 1995, kiểu cổ, có 2 tầng 8 mái với các hoạ tiết hoa lá, mây tản cách điệu của nền nghệ thuật kiến trúc thời Lê. Sân chùa có 4 nhà bia. Chùa nằm dưới chân núi Côn Sơn. Tương truyền nơi đây là nơi hun gỗ làm than và đã từng diễn ra trận hoả công hun giặc, dẹp loạn 12 sứ quân của Đinh Bộ Lĩnh ở thế kỷ X. Nên ngoài tên gọi Côn Sơn, núi còn có tên là Kỳ Lân hay núi Hun. Chùa “Thiên Tư Phúc Tự” trong dân gian quen gọi theo tên núi là chùa Côn Sơn hay còn gọi là Chùa Hun. Kiếp Bạc là tên ghép của hai làng Vạn Yên (làng Kiếp) và Dược Sơn (làng Bạc). Nơi đây là thung lũng trù phú, xung quanh có dãy núi Rồng bao bọc tạo. Vào thế kỷ 13, đây là nơi đóng quân và là phủ đệ của Trần Hưng Ðạo, người anh hùng dân tộc, người chỉ huy quân sự tối cao trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên Mông.
Thiền sư Huyền Quang vị tổ thứ ba của Thiền phái Trúc Lâm – một thiền phái mang màu sắc dân tộc Việt Nam đã về tu ở chùa Côn Sơn. Tại Côn Sơn Huyền Quang cho lập đài Cửu phẩm liên hoa, biên tập kinh sách, làm giảng chủ thuyết pháp phát triển đạo phái không ngừng. Ngày 22 tháng 1 năm Giáp Tuất (1334) Thiền sư Huyền Quang viên tịch tại Côn Sơn. Vua Trần Minh Tông đã cấp cho ruộng để thờ và cho xây tháp tổ sau chùa, đặc phong Tự Tháp “Huyền Quang tôn giả”. Ðền thờ Trần Hưng Đạo được dựng vào đầu thế kỷ 14, trên một khu đất ở trung tâm thung lũng Kiếp Bạc. Trong đền hiện còn 7 pho tượng bằng đồng: tượng Trần Hưng Ðạo, phu nhân, hai con gái, Phạm Ngũ Lão, Nam Tào, Bắc Ðẩu và 4 bài vị thờ bốn con trai. Hàng năm, hội đền được tổ chức vào ngày mất của Trần Hưng Ðạo (ngày 20 tháng 8 âm lịch). Đền thờ Nguyễn Trãi là công trình trọng điểm nằm trong quần thể khu di tích Côn Sơn – Kiếp Bạc, kiến trúc theo truyền thống và rất độc đáo; với một nguồn lớn kinh phí cùng với những người có tâm đức, các Nghệ nhân và những người thợ khéo tay, cần mẫn lao động hơn 2.500 ngày để có được công trình hôm nay, thoả mãn cao nhất nhu cầu du lịch gắn với lịch sử và tâm linh của các thế hệ mai sau.
Tại gian tiền tế của đền Kiếp Bạc hiện còn trưng bày 2 đoạn xương ống chân voi. Tương truyền đây là con voi chiến của Hưng Đạo Đại Vương – Trần Quốc Tuấn trong khi ra trận bị sa lầy tại cánh đồng gần tỉnh Thái Bình, mặc dù quân sĩ dốc sức làm mọi cách để cứu voi khỏi bị sa lầy nhưng vẫn không cứu nổi, Trần Hưng Đạo đành phải bỏ voi lại để tiếp tục tiến quân ra chiến trường và có chỉ gươm xuống đất thề sẽ quay lại cứu voi khi thắng trận.Thắng trận trở về đến cánh đồng nơi voi bị sa lầy nhưng con voi đã chết vì bị chìm lún xuống bùn. Tương truyền 2 ống xương chân voi hiện đang đặt tại gian tiền tế đền Kiếp Bạc là xương của con voi trung thành của Đức Thánh Hưng Đạo Đại Vương.
Khu di tích Côn Sơn – Kiếp Bạc và lễ hội truyền thống liên quan mãi mãi xứng đáng là một trung tâm văn hoá lớn có vai trò quan trọng trong việc giáo dục truyền thống, nhằm xây dựng và bồi dưỡng con người mới cho mọi thế hệ người Việt Nam hiện tại và tương lai.
Thuyết trình về một địa chỉ văn hoá ở nơi em đang sống - mẫu 2
Chùa Bái Đính từ lâu được biết đến là một khu du lịch với ngôi chùa lớn nhất và sở hữu nhiều kỉ lục nhất Việt Nam. Khu chùa tọa lạc tại địa chỉ xã Gia Sinh, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình.
Về lịch sử hình thành, Khu du lịch chùa Bái Đính được khởi lập đầu tiên là khu chùa cổ vào năm 1136. Trong lịch sử, Ninh Bình là nơi có những triều đại vua nối tiếp nhau như nhà Đinh, Nhà Tiền Lê và nhà Lý. Điểm chung là ba triều đại này luôn luôn tôn sùng đạo Phật nên có sự ra đời của những ngôi chùa cổ này. Đến năm 2003, khu quần thể chùa Bái Đính được xây dựng lại từ khu chùa cũ, nằm trên một sườn núi. Giáo sư Hoàng Đạo Kính chính là người thiết kế khu chùa mới này.
Quần thể chùa Bái Đính có diện tích khoảng 1700 ha, bao gồm khu Bái Đính cổ, khu Bái Đính mới và các khu vực khác như: công viên, Học viện Phật giáo, cảnh quan, đường giao thông … Khu chùa Bái Đính cổ nằm cách điện tam thế của khu Bái Đính mới khoảng 800 m về phía Nam. Chùa nằm trên đỉnh vùng rừng núi khá yên tĩnh. Tại khu này có nhà tiền đường, nơi thờ Phật, đền thờ thần Cao Sơn, đền thờ thánh Nguyễn,.... Khu di tích chùa Cổ cũng là nơi lưu giữ lại những kiến trúc và cổ vật mang dấu ấn đậm nét của nhà Lý. Ngoài ra, ở khu chùa Cổ còn có giếng ngọc. Nằm ở chân núi Bái Đính, khu chùa mới Bái Đính là một quần thể nhiều công trình lớn như điện Tam thế, điện Quan Âm, tháp chuông, tượng phật,… cùng các công trình hạ tầng khác. Khu chùa mới nổi bật với kiến trúc hình khối và mang đậm dấu ấn của kiến trúc Việt Nam. Các chi tiết được trang trí trên chùa ở cũng là những chi tiết mang dấu ấn của các ngành nghề truyền thống dân tộc. Đây là một khu chùa với kiến thức phần kiến trúc thuần Việt, các trụ cột được thiết kế giả gỗ, tất cả các mái ngói của khu chùa đều được sử dụng là gạch Bát Tràng. Khu chùa có Tam quan với hai tượng Hộ Pháp, tiếp đến là tháp chuông ba tầng mái. Dưới tháp chuông là một quả chuông đồng và một chiếc trống đồng lớn nặng 70 tấn nằm trên nền tháp. Chính điện là nơi thờ Phật, đây còn là nơi lưu giữ vô tượng Phật Thích Ca bằng đồng lớn nhất Việt Nam, tượng Phật Di Lặc ở đây cũng là bức tượng được trung tâm kỉ lục Việt Nam công nhận là tượng lớn nhất Việt Nam với khối lượng 80 tấn, cao 10m. An vị trên ngọn đồi của chùa Bái Đính Chùa còn có bảo tháp cao 100 m và nhiều khu kiến trúc độc đáo khác...
Đây không phải chỉ là một địa điểm du lịch thu hút bởi kiến trúc và rất nhiều những những kỉ lục được lập mà còn là một khu du lịch với rất nhiều những sự kiện văn hóa khác nhau. Nơi đây đã từng thu hút sự chú ý của du khách trong và ngoài nước trong đại lễ phật đản lớn nhất được tổ chức tại Việt Nam và là nơi đón tiếp rất nhiều nguyên thủ quốc gia về thăm. Đây cũng là nơi tổ chức Hội nghị thượng đỉnh Phật giáo thế giới lần thứ 6….
Lễ hội chùa Bái Đính thường diễn ra vào mùa xuân, khai mạc vào ngày mùng 6 tết cho kéo dài hết tháng 3. Lễ hội gồm hai phần: phần lễ và phần hội. Phần lễ thường là những nghi thức như thắp hương thờ Phật, rước kiệu… Phần hội Chùa Bái Đính gồm những trò chơi dân gian có từ lâu đời và một số hoạt động khác như thăm thú cảnh chùa, thưởng thức một số nghệ thuật dân gian cổ như hát chèo, hát xẩm. Ngoài ra, du khách đến với lễ hội chùa Bái Đính còn có cơ hội thưởng thức những hoạt động sân khấu hóa do nhà hát chèo Ninh Bình tổ chức. Đây là lễ hội lớn và được đông đảo du khách trong và ngoài nước tham gia.
Quần thể chùa Bái Đính là một địa điểm mang nhiều ý nghĩa về lịch sử và văn hóa trọng điểm của dân tộc, cần được quảng bá để ngày càng nhiều du khách hơn nữa biết đến.
Thuyết trình về một địa chỉ văn hoá ở nơi em đang sống - mẫu 3
Nhắc đến danh lam thắng cảnh, những chốn có non nước hữu tình trên đất nước Việt nam ta khó lòng không nhắc đến vịnh Hạ Long. Cái tên ấy ai là người Việt nam cũng biết đến. Nó không chỉ đẹp trong hiện tại hay tương lai mà nó còn đẹp từ thời xưa trong câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm: "Con gà, con cóc quê hương cũng biến Hạ Long thành thắng cảnh". Mới đây vịnh Hạ Long còn được UNESCO công nhận là một trong bảy kì quan đẹp nhất thế giới. Vậy không biết rằng Hạ Long có những gì mà lại được tôn vinh đến như vậy?
Vịnh Hạ Long còn có truyền thuyết đó là Ngọc Hoàng sai Rồng Mẹ mang theo một đàn Rồng Con xuống hạ giới giúp người Việt đánh giặc. Thuyền giặc từ ngoài biển ào ạt tiến vào bờ vừa lúc đàn Rồng tới hạ giới. Đàn Rồng lập tức phun ra lửa thiêu cháy thuyền giặc, một phần nhả Châu Ngọc dựng thành bức tường đá sừng sững làm cho thuyền giặc đâm phải mà vỡ tan, chặn đứng bước tiến của ngoại bang.
Sau khi giặc tan, thấy cảnh mặt đất thanh bình, cây cối tươi tốt, con người nơi đây lại cần cù, chịu khó, đoàn kết giúp đỡ nhau, Rồng Mẹ và Rồng Con không trở về trời mà ở lại hạ giới, nơi vừa diễn ra trận chiến để muôn đời bảo vệ con dân Đại Việt. Vị trí Rồng Mẹ đáp xuống là Hạ Long; nơi Rồng Con đáp xuống là Bái Tử Long và đuôi đàn rồng quẫy nước trắng xoá là Bạch Long Vĩ (bán đảo Trà Cổ ngày nay, với bãi cát dài trên 15 km).
Lại có truyền thuyết khác nói rằng vào thời kỳ nọ khi đất nước có giặc ngoại xâm, một con rồng đã bay theo dọc sông xuôi về phía biển và hạ cánh xuống ở vùng ven biển Đông Bắc làm thành bức tường thành chắn bước tiến của thủy quân giặc. Chỗ rồng đáp xuống che chở cho đất nước được gọi là Hạ Long.
Tiếp nữa là về đảo ở đây thì có 1969 hòn đảo lớn nhỏ, trong đó 989 đảo có tên và 980 đảo chưa có tên. Đảo nơi đây gồm có hai dạng đó là đảo đá vôi và đảo phiến thạch tập trung ở Bái tử long và Vịnh Hạ Long. Ở đây thì chúng ta thấy được hàng loạt những hang động đẹp và nổi tiếng. Vùng Di sản thiên nhiên được thế giới công nhận có diện tích 434 km2 bao gồm 775 đảo, như một hình tam giác với 3 đỉnh là đảo Ðầu Gỗ (phía tây), hồ Ba Hầm (phía nam), đảo Cống Tây (phía đông) vùng kế bên là khu vực đệm và di tích danh thắng quốc gia được Bộ Văn hóa Thông tin xếp hạng năm 1962.
Đến với Hạ Long thì người ta không thể nào rời mắt khỏi những cảnh vật nơi đây. Nào là núi, nào là nước với những hang động thật sự hấp dẫn người ta muốn đi tới tận cùng để tìm thấy cái hữu hạn trong cái vô hạn của trời nước, núi non ấy. chúng ta cứ ngỡ rằng ngọn núi kia giống như những người khổng lồ vậy, ngồi trong thuyền mà ngước lên để đo tầm cao của những ngọn núi ấy thật sự là mỏi mắt. Đến đây ta mới biết hết thế nào là sự hùng vĩ, thế nào là sự hữu tình giữa nước và non. Làn nước biển mặn mà vị xa xăm của muối. Hang động với những nhũ đá như sắp rơi xuống nhưng thật chất lại là không rơi. Nó cứ tua tủa như muôn ngàn giọt ngọc dạng lỏng lấp lánh dính vào nhau nhưng không rơi xuống.
Con người nơi đây cũng thật sự là rất đáng yêu đáng quý. Họ không những mến khách mà còn như một người hướng dẫn viên du lịch vừa nói giới thiệu tả cảnh vừa vững tay chèo đẩy lái đến nơi khách muốn qua. Những con người ở đây nồng nhiệt mỗi khi có khách đến và khi khách đi thì để lại những ấn tượng khó phai về những con người miền non nước hữu tình với những tình cảm mặn mà như là muối biển vậy.
Qua đây ta thấy vịnh Hạ Long rất xứng đáng là một trong bảy kì quan của thế giới. Nếu những ai đã được đặt chân đến đây thì chắc hẳn rất ấn tượng bởi cảnh đẹp và con người nơi đây. Còn những ai chưa đến thì hãy nhanh chóng đến mà tận hưởng những gì là tạo hóa ban tặng, những gì là mẹ thiên nhiên.
Thuyết trình về một địa chỉ văn hoá ở nơi em đang sống - mẫu 4
Nơi em đang sống hiện nay là huyện Đông Anh xinh đẹp với di tích thành Cổ Loa nổi tiếng đã trở thành địa điểm tham quan du lịch đặc biệt cho du khách có dịp ghé thăm Đông Anh.
Cô và các bạn thân mến, Thành Cổ Loa là một trong những địa chỉ văn hóa không thể bỏ qua khi ghé thăm Hà Nội. Thành được xây dựng dưới thời An Dương Vương. Trải qua hàng nghìn năm lịch sử, dù thành Cổ Loa đã chịu không ít tác động của thời gian cũng như con người nhưng những giá trị của nó vẫn nguyên vẹn.
Để tưởng nhớ công ơn vua Hùng và những người có công với đất nước, vào ngày mùng 6 tháng Giêng hàng năm, người dân vùng Bát Xã đều cùng nhau tổ chức Lễ hội Cổ Loa. Lễ hội được chia thành hai phần chính bao gồm phần lễ và phần hội.
Phần lễ lại được chia thành lễ rước kiệu vào đền An Dương Vương và lễ rước thần. Cả hai nghi lễ đều được tổ chức vào sáng sớm mùng 6 tháng Giêng. Trong lễ rước kiệu vào đền An Dương Vương, dân làng làm cuộc tế xong mới tiến hành dâng lễ lên ban thờ An Dương Vương.
Phần lễ rước thần được coi là hoạt động đáng để chờ đợi nhất của Lễ hội Đền Cổ Loa. Tại lễ này, các thanh niên trai tráng trong làng mặc áo đỏ, đầu quấn khăn cùng màu khiêng long đình có bài vị của nhà vua.
Kết thúc phần lễ, người dân và khách du lịch sẽ được đắm chìm trong không gian nghệ thuật của các tiết mục biểu diễn. Đó có thể là khúc hát du dương, chan chứa tâm tình của làn điệu quan họ hay sự biến hóa khôn lường, tài tình của các nghệ nhân múa rối nước. Ngoài ra, còn vô số các trò chơi dân gian nổi bật như trò chơi cờ người, đấu vật, bắn nỏ,...
Có thể nói, Lễ hội Cổ Loa không chỉ mang đến không khí, tươi vui nhộn nhịp của mùa xuân mà còn là dịp để thế hệ mai sau tri ân, tưởng nhớ những người có công với đất nước, thể hiện truyền thống "uống nước nhớ nguồn". Lễ hội Cổ Loa sẽ luôn là nét đẹp văn hóa không thể thiếu trong đời sống tinh thần của người dân Việt Nam.
Phần thuyết trình của em đến đây là kết thúc! Em cảm ơn cô và các bạn đã chú ý lắng nghe!
Thuyết trình về một địa chỉ văn hoá ở nơi em đang sống - mẫu 5
Hội chùa Hương diễn ra trên địa bàn xã Hương Sơn, trong địa phận huyện Mỹ Đức, Thành phố Hà Nội ( Thuộc tỉnh Hà Tây cũ).
Lễ hội chùa Hương kéo dài 3 tháng, khai hội vào ngày mùng 6 tháng giêng. Phần quan trọng nhất vào tập trung nhiều nhất của hội diễn ra từ rằm tháng giêng đến 18 tháng hai âm lịch. Lễ hội bao gồm 2 phần: Phần lễ và phần hội. Mỗi phần đều mang những nét đặc sắc riêng, đều gợi cho con người ta cảm giác đúng nghĩa về sự linh thiêng nơi đất Phật.
Khác nơi những địa điểm khác, phần lễ được thực hiện khá đơn giản, bao gồm cả phần chuẩn bị. Không khí lễ hội bao trùm cả xã Hương Sơn bằng mùi hương khói nghi ngút khắp tất cả đền, chùa, đình, miếu trước một ngày diễn ra lễ hội.
Trong ngày lễ hội, có phần lễ dâng hương trong các chùa, kèm theo một vài phần rất đặc sắc mà chỉ ở nơi đây mới xuất hiện. Khi cúng, có hai tăng ni mặc áo cà sa mang đồ lễ chay đàn rồi mới tiến dùng đồ lễ lên bàn thờ. Họ múa rất dẻo và đẹp mắt qua những động tác ít thấy ở mọi nơi. Ngoài ra, lễ cũng rất đơn giản, chỉ cần tùy tâm: Hương, hoa, đèn, nến, hoa quả, thức ăn chay,....
Thêm một điều đặc biệt nữa về phần lễ chùa Hương khi nơi đây nghiêng về chút “thiền”. Dù vậy thì ở chùa ngoài lại thờ các vị sơn thần thượng đẳng với đủ màu sắc của đạo giáo: bà chúa Thượng Ngổn (Đền Cửa Vòng), ngũ hổ và tín thần (Chùa Bắc Đài, chùa Tuyết Sơn, chùa Cả, đình Quân),... Tất cả hòa quyện với đất trời thiên nhiên mang lại cảm giác tâm linh và vô cùng thanh tịnh cho người tham quan.
Tuy đơn giản nhưng ta lại thấy được toàn bộ những nét đặc trưng trong tôn giáo ở Việt Nam. Ảnh hưởng sâu sắc bởi Nho giáo của Khổng Tử, Đạo Phật hay sùng bái tự nhiên. Tính chất tôn giáo ấy không hề cao xa vời vợi mà thậm chí vô cùng gần gũi khi gắn với tình yêu nam nữ, sự gắn kết cộng đồng,...
Từ phần lễ, chắc những ai may mắn được trải qua chắc đều thấu hiểu cảm giác khi cả tâm hồn và thể xác đều được đắm chìm vào sự hòa quyện tâm linh. Từng nhành cây, ngọn cỏ, những mái đình, ngôi chùa và cả mùi hương thoang thoảng, gây cũng chính là nơi Bồ Tát đã chọn tĩnh tâm tu dưỡng hay sao?
Đối với các làng, người ta cũng tổ chức lễ rước thần từ đền ra đình trong những ngày này. Bao đời nay vẫn vậy, ông già bà cả của làng thành tâm tiễn thần, theo sau là trai thanh gái lịch phù kiêu và dàn nhạc bát âm kế cạnh.
Phần này cũng được chia làm hai việc chính: Rước lễ và rước văn. Lễ là vậy. còn văn sẽ được “rước” khi người làng dinh kiệu tới nhà soạn văn tế, thường là các ông cụ cao tuổi. Trong khi bản văn tế ấy được trịnh trọng đọc, các bô lão của làng sẽ theo hướng dẫn mà làm lễ tế rước các vị thần.
Lễ hội này không dành riêng cho ai cả, ai ai cũng sẽ thấy được sự hoan hỉ phần mình, từ là các thanh niên trẻ trung trai tráng cho đến các bậc cao niên và phụ lão. Bao trùm lên bâu không khí sự nồng nhiệt, thành kính và đôi chút chú trang nghiêm.
Phần tiếp theo cũng quan trọng không kém chính là “hội”. Ta sẽ thấy đoàn người đi “hội” trải dài ở khắp nơi. Những triền núi cao, núi thấp cho đến cả những rừng cây, rừng hoa mơ phủ trắng,..đâu đâu cũng thấy bóng dáng người. Hương Sơn cả năm chắc cũng chỉ có dịp này mới thấy đông đúc đến vậy. Kẻ đi ra, người đi vào, kẻ đi lên, người đi xuống bồng bềnh vào những đám mây nhẹ.
Người lạ muôn phương những tưởng sẽ lạnh lùng lướt qua nhau, thế nhưng ở nơi đất Phật này, có lẽ con người cũng trở nên hiền hòa, tràn ngập niềm tin và yêu thương nhau hơn. Họ gặp nhau, quen hay không quen cũng vui vẻ chào nhau bằng một lời chào: "Nam mô a di đà Phật" nhẹ nhàng, đằm thắm và ấm áp…
Tấp nập như những người tham gia trẩy hội, những con thuyền ở đây cũng được dịp ra vào náo nhiệt, có khi lên tới hàng trăm chiếc. Thử tưởng tượng xem, làm sao có thể nói lên được hết nỗi vui thích khi được ngồi trên sông thưởng ngoạn vãng cảnh nơi non tiên cõi Phật.
Trẩy hội chùa Hương là một lựa chọn tuyệt vời khi muốn giải tỏa mong ước được hòa hợp giữa giấc mơ và hiện thực. Đây là sự kết hợp tuyệt vời giữa thực là nền tảng, mơ là uất vọng . Nó xây dựng trên cái nền mùa xuân tươi sáng mà con người Việt Nam chất phác, nhân ái thuở xưa cảm nhận hành động và trao truyền.
Thuyết trình về một địa chỉ văn hoá ở nơi em đang sống - mẫu 6
Xin chào cô và các bạn. Em là Huyền My. Trong tiết học ngày hôm nay, em xin được thuyết trình về một địa chỉ văn hóa tại nơi em đang sinh sống. Nơi mà em muốn giới thiệu chính là chùa Bổ Đà.
Nhắc tới mảnh đất bên bờ sông Cầu - huyện Việt Yên, ai cũng sẽ nghĩ tới Di tích chùa Bổ Đà - một ngôi chùa cổ kính, linh thiêng. Theo tương truyền, chùa có từ thời nhà Lý (thế kỉ XI). Chùa tọa lạc tại xã Tiên Sơn, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang.
Có thể nói, chùa Bổ Đà là một ngôi chùa tiêu biểu khi vẫn giữ được những nét kiến trúc truyền thống cổ xưa. Khác với các ngôi chùa truyền thống ở miền Bắc nước ta, chùa Bổ Đà được xây dựng theo lối kiến trúc "nội thông ngoại bế".
Chùa Bổ Đà có năm hạng mục: chùa Tứ n, vườn tháp, am Tam Đức, chùa Cao, ao Miếu. Đầu tiên, chùa chính Tứ n được coi là khu nội tự, xây dựng ở thời vua Lê Hiển Tông. Tên gọi của chùa mang hàm nghĩa răn dạy các tăng môn phật tử phải biết báo đáp bốn (tứ) ơn (ân): ân trời đất, ân đất nước, ân thầy và ân cha mẹ. Tiếp đến là am Tam Đức. Đặt tên am là "Tam Đức", các tổ tu mong muốn tăng ni tu hành ở đây sẽ thông tuệ ba (tam) đức tính: trí đức, đoạn đức và ân đức. Chùa Cao thì có sự khác biệt hơn so với chùa Tứ n và am Tam Đức. Nơi đây được xây dựng sớm hơn, từ thời nhà Lý. Chùa còn được người dân gọi bằng cái tên Quán m hay chùa ông Bổ. Khu ao Miếu là nơi thờ các vị thần tướng và tướng quân. Cuối cùng, vườn tháp của chùa Bổ Đà có diện tích gần 8.000 m2.
Bên cạnh nét kiến trúc cổ xưa, độc đáo, chùa còn nổi tiếng với bộ mộc bản cổ. Gần 2000 mộc bản làm bằng chất liệu gỗ thị có niên đại từ thời vua Lê vẫn được bảo quản vẹn nguyên. Tháng 12/2017, mộc bản tại chùa được nhà nước công nhận là bảo vật quốc gia.
Ngày nay, lễ hội chùa Bổ Đà thường được tổ chức vào tháng hai âm lịch, mang đến không khí nhộn nhịp, vui tươi cho người dân. Bên cạnh đó, Bổ Đà đã trở thành chốn về quen thuộc của các bậc tu hành. Đây cũng là nơi mà con người thể hiện lòng thành kính với tổ tiên, Đức Phật. Chùa Bổ Đà sẽ mãi là nơi lưu giữ các giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc.
Mong rằng, nếu có thời gian rảnh rỗi, cô và các bạn hãy tới ghé thăm chùa Bổ Đà để có thể tự mình khám phá nét đẹp nơi đây.
Bài thuyết trình của em đến đây là kết thúc. Cảm ơn cô và các bạn đã lắng nghe.
Thuyết trình về một địa chỉ văn hoá ở nơi em đang sống - mẫu 7
Chào cô và các bạn. Tên em là Thục Anh. Hôm nay, em xin được thuyết trình về lễ hội Đền Hùng.
Từ xa xưa, ông cha ta đã có câu "Dù ai đi ngược về xuôi/ Nhớ ngày giỗ tổ mùng mười tháng ba". Mỗi dịp 10/3 âm lịch hàng năm, nhân dân ta đều hướng về mảnh đất linh thiêng Phú Thọ. Lễ hội Đền Hùng bắt đầu diễn ra từ ngày mùng một đến ngày mùng mười tháng ba âm lịch. Trong đó, việc tế lễ được tổ chức vô cùng trọng thể vào ngày 10/3. Khi đó, đại diện cơ quan Chính phủ nhà nước sẽ bắt đầu lễ dâng hương tại đền Thượng. Các đền thờ khác cũng được người dân tới thăm và dâng hương lễ. Thường thường, đồ tế lễ sẽ bao gồm mâm ngũ quả cùng bánh chưng, bánh giầy. Truyền thống này đã được lưu truyền từ rất lâu, nhằm nhắc lại "Sự tích bánh chưng, bánh giầy", đồng thời tỏ lòng biết ơn tới các vị vua Hùng.
Lễ hội Đền Hùng còn có phần hội hết sức đặc sắc. Rất nhiều hoạt động văn hóa dân gian được tổ chức trong khoảng thời gian lễ hội diễn ra. Bạn có thể bắt gặp những đoàn người mặc trang phục cổ và rước kiệu truyền thống. Hoặc bạn có thể ghé thăm không gian tổ chức hát Xoan, đánh trống đồng, thi giã bánh giầy, thi gói bánh chưng,...
Có thể nói, lễ hội Đền Hùng chứa đựng rất nhiều giá trị văn hóa tâm linh sâu sắc. Lễ hội nhắc nhở chúng ta về cội nguồn lịch sử tốt đẹp của dân tộc. Mong rằng, là một người con đất Việt, mỗi người cần tự ý thức về trách nhiệm bản thân trong việc tiếp nối, lưu truyền những truyền thống quý báu như vậy.
Bài thuyết trình của em đến đây là kết thúc. Cảm ơn cô và các bạn đã chú ý lắng nghe.
Thuyết trình về một địa chỉ văn hoá ở nơi em đang sống - mẫu 8
Xin chào cô và các bạn. Em là Minh Tú. Trong tiết học ngày hôm nay, em xin được thuyết trình về Di tích lịch sử văn hóa Hoàng Thành Thăng Long.
Như mọi người đã biết, xưa kia, vua Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư (Ninh Bình) ra thành Đại La. Trong "Chiếu dời đô", nhà vua đã khẳng định nơi đây là "khu vực giữa trời đất, có được thế rồng cuộn, hổ ngồi". Chính vì thế, trải qua hàng ngàn năm lịch sử, hầu hết các triều đại đều chọn Thăng Long làm kinh đô.
Bên trong Hoàng Thành gồm các khu di tích nhỏ hơn như cột cờ Hà Nội, cửa Bắc, di tích khảo cổ, điện Kính Thiên, Đoan Môn, Hậu Lâu, nhà Cách mạng D67. Các di tích cột cờ Hà Nội, cửa Bắc, di tích khảo cổ, điện Kính Thiên, Đoan Môn, Hậu Lâu đều mang đậm kiến trúc độc đáo, tiêu biểu của thời kì phong kiến. Đặc biệt, nhà Cách mạng D67 nằm ở vị trí hầm ngầm, dưới lòng đất. Đây chính là nơi Bộ Chính trị Trung ương Đảng và Quân ủy Trung ương họp bàn để đưa ra những chiến lược, quyết sách mang tính lịch sử trong cuộc kháng chiến chống Mĩ.
Ngày nay, khu Di tích lịch sử văn hóa Hoàng Thành Thăng Long không còn vẹn nguyên như Cố đô Huế. Thế nhưng, nơi đây đã để lại rất nhiều giá trị lịch sử, văn hóa to lớn của cả một dân tộc. Vào tháng 12 năm 2022, các chuyên gia đã tiến hành khai quật khu di tích này. Diện tích khai quật rơi vào khoảng 19.000m2. Sau một khoảng thời gian, các chuyên gia đã phát hiện ra rất nhiều dấu vết cùng hàng triệu hiện vật của từng thời kì. Đây là những minh chứng rõ ràng, xác đáng cho sự phát triển rực rỡ ở kinh thành Thăng Long. Từ đây, chúng ta càng thêm tự hào về lịch sử của cha ông, dân tộc.
Bài thuyết trình của em đến đây là kết thúc. Cảm ơn cô và các bạn đã lắng nghe, theo dõi.
Thuyết trình về một địa chỉ văn hoá ở nơi em đang sống - mẫu 9
Côn Sơn, Kiếp Bạc là hai di tích lịch sử đặc biệt quan trọng của quốc gia; thời Trần, thuộc huyện Phượng Sơn, lộ Lạng Giang, thời Lê đổi thành huyện Phượng Nhỡn, thuộc thừa tuyên Bắc Giang, sau là trấn Kinh Bắc. Khu di tích Côn Sơn – Kiếp Bạc nay thuộc thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dương; phía bắc giáp huyện Cẩm Lý (tỉnh Bắc Giang), phía nam giáp 2 phường Cộng Hòa và Văn An (thị xã Chí Linh), phía đông giáp xã Bắc An và xã Hoàng Hoa Thám (thị xã Chí Linh), phía tây giáp huyện Yên Dũng (tỉnh Bắc Giang).
Sách Cao Biền di cảo và Chí Linh phong vật chí chép rằng: Côn Sơn, Kiếp Bạc mạch tự Huyền Đinh, thế ngăn Đông Bắc, bốn phương quy phục, núi sông kỳ hình, kỳ dạng, long bàn, hổ cứ, như muôn quân, nghìn tướng chầu về…ở đất này sẽ được hưởng phúc muôn đời…Khu di tích danh thắng Côn Sơn bao gồm cả núi Kỳ Lân và núi Ngũ Nhạc liền kề; Đền Kiếp Bạc tựa lưng vào núi Trán Rồng, trước mặt là sông Lục Đầu. Côn Sơn – Kiếp Bạc lại tiếp giáp với dãy núi Phượng Hoàng (địa phận 2 phường Cộng Hòa và Văn An) và núi Rùa (phía tây bắc), tạo thành một vùng đất quần tụ đủ tứ linh, ngũ nhạc, lục đầu giang. Đó là sự sắp đặt kỳ diệu của tạo hóa đối với khu vực di tích danh thắng Côn Sơn – Kiếp Bạc – Phượng Hoàng với sông núi Chí Linh.
Đây là vùng đất lịch sử mãi còn âm vang những chiến công lẫy lừng qua nhiều thời đại, đặc biệt là trong ba lần quân dân thời Trần đánh thắng quân xâm lược Nguyên Mông thế kỷ XIII và trong cuộc kháng chiến 10 năm của nghĩa quân Lam Sơn chống quân Minh ở thế kỷ XV. Đây là cũng là vùng danh sơn huyền thoại, với những thắng cảnh tuyệt vời, những di tích cổ kính, gắn liền với thân thế, sự nghiệp của Trần Hưng Đạo và Nguyễn Trãi, hai vị anh hùng dân tộc kiệt xuất đã làm rạng rỡ non sông đất nước, cùng với nhiều danh nhân văn hóa của dân tộc: Trần Nguyên Đán, Pháp Loa, Huyền Quang…
Nếu như khu di tích lịch sử Kiếp Bạc có một di tích trung tâm, lớn nhất, linh thiêng nhất là ngôi đền cổ thờ Đức Thánh Trần; du khách về chủ yếu là để tưởng niệm nhớ ơn Đại Vương và để sinh hoạt tâm linh, thì ở quần thể di tích lịch sử – văn hóa – danh thắng Côn Sơn, cụm di tích thờ Phật (chùa Hun) và cụm di tích về danh nhân (đền thờ Nguyễn Trãi), đều có vị trí và tầm quan trọng đặc biệt; du khách tới đây dâng hương niệm Phật, tưởng nhớ Ức Trai và ngoạn cảnh, tiêu dao, nên có nhiều người là trí giả, văn nhân và đông đảo thày giáo, học trò. Xưa nay, người đời tìm đến Côn Sơn là cuộc tìm về với căn nhà vũ trụ, nơi hòa hợp tột cùng của âm dương, sơn thuỷ và trời đất. Để ở đó, con người được hưởng thụ khí trời trong mát, với hương rừng, gió núi và tiếng ca muôn thuở của suối chảy, thông reo; được đắm mình trong hồn thiêng sông núi, trong cổ tích ngàn năm còn rung động trái tim của muôn triệu con người.
Côn Sơn là mảnh đất lịch sử lâu đời. Hơn một ngàn năm trước, Định quốc công Nguyễn Bặc, thượng thuỷ tổ của dòng họ Nguyễn Trãi đã lập căn cứ ở đây để đánh sứ quân Phạm Phòng Át, giúp Đinh Tiên Hoàng thống nhất đất nước vào năm 968. Trong các cuộc chiến tranh giành và giữ nền độc lập của Tổ quốc, quân dân trong vùng thường lấy rừng núi Côn Sơn làm căn cứ đánh giặc.
Cùng với Yên Tử, Quỳnh Lâm và Thanh Mai, Côn Sơn là chốn tổ của Thiền phái Trúc Lâm, một Thiền phái mang đậm bản sắc văn hóa Việt Nam. Đệ nhất tổ – Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông, đệ nhị tổ – Pháp Loa tôn giả và đệ tam tổ – Huyền Quang tôn giả đều đã về đây hoằng dương thuyết pháp, phát triển giáo giới, xây dựng chùa Hun thành chốn tổ đình, một Thiền viện lớn từ thời đại nhà Trần.
Côn Sơn là mảnh đất có bề dầy văn hóa hiếm có. Ở đây, văn hóa Phật giáo, văn hóa Nho giáo và văn hóa Lão giáo cùng tồn tại và phát triển qua nhiều thế kỷ, nhưng tất cả đều thấm đẫm bản sắc văn hóa Việt, đều để lại dấu ấn qua mỗi công trình xây dựng, qua từng chi tiết kiến trúc, chạm khắc, qua các bia đá, tượng thờ, hoành phi, câu đối… Văn hóa Lý – Trần, văn hóa Lê – Nguyễn hiển hiện trước mắt mọi người và ở các tầng văn hóa dưới lòng đất khi khai quật khảo cổ học. Di sản văn hóa phi vật thể quý giá ở Côn Sơn chứa đựng trong sách vở, trong các truyền thuyết còn lưu, trong các nghi thức cúng tế, trong các hoạt động lễ hội vô cùng phong phú. Cũng hiếm ở đâu như ở Côn Sơn lại có nhiều trí thức, văn nhân, những nhà văn hóa đến thăm, cảm hứng và sáng tạo đến như ở Côn Sơn. Đây thực sự đã là nơi vân du, ẩn dật và tu tâm dưỡng tính của các bậc danh nhân, tiêu biểu cho tâm hồn, khí phách, tinh hoa văn hóa Việt Nam ở nhiều giai đoạn lịch sử khác nhau, cũng như của bao tao nhân mặc khách. Trần Nguyên Đán – quan Đại tư đồ phụ chính, nhà thơ, nhà lịch pháp lớn thời Hậu Trần đã về Côn Sơn dựng Thanh Hư Động để lui nghỉ những năm tháng cuối đời. Thời Lê sơ, Anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới Nguyễn Trãi đã nhiều lần, nhiều năm sống, gắn bó chan hòa cùng thiên nhiên, tạo vật ở Côn Sơn – “núi nhà”, tìm thấy nơi đây bạn tri âm tri kỷ và nguồn thi hứng dạt dào. Lê Thánh Tông, vị minh quân và là Tao Đàn nguyên súy (thời Lê sơ), Thánh thơ Cao Bá Quát (thời Nguyễn) v.v. đều đã đến đây tìm lại dấu vết Ức Trai, vãng cảnh, làm thơ, để lại những thi phẩm giá trị. Tháng 2-1965, Hồ Chủ tịch về thăm Côn Sơn. Người đã lên thăm Thạch Bàn, Thanh Hư động và đọc văn bia trước cửa chùa Hun, bằng sự trân trọng thiêng liêng và niềm giao cảm đặc biệt đối với cổ nhân. Người xưa từng đúc kết: “Núi chẳng cần cao có tiên ắt nổi tiếng. Nước chẳng cần sâu có rồng ắt thiêng”. Mỗi sự vật, di tích ở Côn Sơn đều lấp lánh ánh sáng của Nguyễn Trãi – Sao Khuê; mỗi địa danh ở Côn Sơn đều in đậm dấu ấn thiêng liêng, áng thi văn, cổ thoại, truyền thuyết ly kỳ và những sự tích bất hủ của những danh nhân kim cổ. Những di tích và tên tuổi các danh nhân, của Trúc Lâm Tam Tổ, đặc biệt là của Nguyễn Trãi, đã nâng tầm vóc Côn Sơn trở thành quốc tự, thành di tích đặc biệt quan trọng của quốc gia, thành “một cõi đi về” trong đời sống tâm hồn của muôn triệu người dân Việt, kể cả những người sống xa Tổ quốc .
Cảnh sắc thiên nhiên và con người tạo dựng đã làm cho Côn Sơn thành một “Đại thắng tích”. Ở đây, có núi Kỳ Lân và Ngũ Nhạc, với rừng thông bát ngát, suối chảy rì rầm, nước hồ trong mát; có Bàn Cờ Tiên, Thạch Bàn, Giếng Ngọc; có chùa Hun, am Bạch Vân, đền Nguyễn Trãi, động Thanh Hư, cầu Thấu Ngọc, có Ngũ Nhạc linh từ… Cũng vì Côn Sơn cảnh vật tốt tươi, “sắc ngàn ráng đỏ, rừng gấm cuốn, cỏ lụa giăng”, chùa chiền cổ bích, am pháp thâm nghiêm, u tịch và tao nhã, nước biếc, non xanh, hữu tình và hòa hợp, thành miền thắng cảnh làm say đắm hồn người, là nơi con người có thể gửi gắm ước nguyện tâm linh, thoả chí hướng và rung động tâm hồn. Cho nên, từ bao đời nay, mùa trẩy hội, “trai thanh gái lịch đi lại đông như mắc cửi”; bao thi nhân, trí giả tìm về rồi ở đó, nghiền ngẫm và xúc cảm viết nên những trước tác có giá trị sâu sắc, những áng thơ văn tuyệt đẹp. Ở đây, Huyền Quang viết kinh, thuyết pháp, làm thơ; Trần Nguyên Đán nghiên cứu nông lịch và viết “Băng Hồ ngọc hác tập”, Nguyễn Phi Khanh viết “Thanh Hư Động ký” và Nguyễn Trãi viết “Côn Sơn ca” cùng nhiều bài thơ xứng là kiệt tác.
Những năm gần đây, nhân dân Hải Dương, được sự đồng lòng của đồng bào cả nước, đã tu bổ hàng loạt di tích, đồng thời xây dựng mới nhiều công trình văn hóa lớn như đền thờ Nguyễn Trãi, đền thờ Trần Nguyên Đán, đường lên Ngũ Nhạc v.v. làm cho Côn Sơn càng giàu thêm giá trị văn hóa, cảnh sắc càng thêm tráng lệ, tôn nghiêm và ngoạn mục, hấp dẫn nhiều du khách bốn phương.
(Bạn đang xem bài thuyết minh về Côn Sơn Kiếp Bạc chi tiết nhất)
Kiếp Bạc là một địa danh lừng lẫy bên Lục Đầu Giang, cách Côn Sơn chừng 5 cây số. Kiếp Bạc có thế “rồng vươn, hổ phục”, có “tứ đức, tứ linh”. Thế sông núi hiểm mà hài hòa, hùng vĩ khoáng đạt mà trang nhã. Tại đây, hội nước 4 dòng sông từ thượng nguồn dồn về, chảy vào sông Thái Bình và sông Kinh Thầy, mang phù sa màu mỡ tốt tươi về xuôi bồi đắp. Bốn dòng sông ấy, ngoài các tên quen thuộc, đều có thêm một tên Hán tự có chữ “đức” đứng sau: sông Đuống (Thiên Đức), sông Cầu tức sông Như Nguyệt (Nguyệt Đức), sông Thương (Minh Đức), Sông Lục Nam (Nhật Đức); dòng chính về xuôi thì có tên là sông Thái Bình. Vì người xưa coi Lục Đầu Giang là nơi hợp lưu của 4 dòng đức lớn trong vũ trụ mang thái bình tức là mang yên ổn thịnh vượng về cho trăm họ, muôn dân. Kiếp Bạc có đường thuỷ, đường bộ rất thuận tiện. Từ Kiếp Bạc có thể thuận tới Thăng Long, lên ngược, về xuôi, ra biển đều dễ dàng, nên đây là vị trí chiến lược, “quyết chiến điểm” mà cả quân dân Đại Việt cũng như quân xâm lược phương Bắc đều cần chiếm giữ trong các cuộc chiến tranh.
Vào thời nhà Trần ở thế kỷ XIII, Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn – vị anh hùng dân tộc, nhà quân sự kiệt xuất, vị tổng chỉ huy quân dân Đại Việt trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên Mông đã chọn Vạn Kiếp để đặt đại bản doanh, xây dựng phủ đệ. Với tài thao lược của Quốc Công Tiết Chế, Kiếp Bạc – Lục Đầu Giang đã phát huy sức mạnh tổng lực của thế trận chiến tranh nhân dân. Dưới sự chỉ huy của Nhân Vũ Hưng Đạo Đại vương, quân và dân Đại Việt đã “trên dưới một lòng, cả nước giúp sức” lập nên những chiến côn vang dội: Hàm Tử, Chương Dương, Tây Kết, Vạn Kiếp và cuối cùng là trận Bạch Đằng lừng lẫy, đánh bại hoàn toàn đế quốc Nguyên Mông hùng mạnh nhất thế giới lúc bấy giờ, để non song toàn vẹn, dân tộc khải hoàn ca khúc thái bình. Từ sau cuộc đại thắng giặc Nguyên lần thứ ba, Trần Hưng Đạo đã về ở hẳn tại tư dinh Vạn Kiếp cho tới cuối đời. Tại đây, trước nguy cơ quân Nguyên xâm lược lần thứ hai, Đại Vương đã viết “Binh gia diệu lý yếu lược” để dạy tướng sỹ, và viết “Hịch tướng sỹ” để xác định trách nhiệm, nâng cao ý thức cảnh giác, tích cực học tập binh thư, luyện tập võ nghệ, sắn sàng diệt giặc cho họ; sau khi về nghỉ, Ngài lại viết “Vạn Kiếp tông bí truyền thư”, đúc kết những kinh nghiệm, những bí quyết đánh giặc giữ nước của một đời cầm quân truyền lại cho hậu thế. Trước khi mất, được vua Trần Anh Tông về thăm bệnh và hỏi kế sách giữ nước, Đại Vương đã căn dặn: “Khoan thư sức dân làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách để giữ nước”.
Bởi Đại Vương là danh tướng bậc nhất “tài mưu lược, anh hùng, một lòng giữ gìn trung nghĩa … lập nên công nghiệp hiếm có. Tiếng vang đến giặc Bắc, chúng thường gọi là An Nam Hưng Đạo Vương mà không dám gọi tên”. Ngài đã được triều đình nhà Trần cho lập đền thờ ngay khi còn sống, gọi là Sinh Từ; Thượng hoàng Trần Thánh Tông tự soạn văn bia ngợi ca công đức Đại Vương. Ngày 20 tháng Tám năm Canh Tý (1300), Đại Vương mất tại Kiếp Bạc. Triều đình đã tôn phong là Thái sư Thượng phụ Thượng quốc công Nhân Vũ Hưng Đạo Đại Vương; nhân dân Đại Việt tôn là Đức Thánh Trần, xây đền Kiếp Bạc để tưởng nhớ công lao to lớn đối với non sông, đất nước. Ngày giỗ Đại Vương hàng năm trở thành ngày chính hội Đền Kiếp Bạc. Hội Đền kéo dài hàng tuần, thu hút hàng chục vạn con dân Đại Việt từ khắp mọi miền đất nước về kính bái, nguyện cầu. Đó là một trong số lễ hội lớn nhất của cả nước được gìn giữ hơn 7 thế kỷ nay, trở thành mỹ tục truyền thống, thể hiện sâu sắc đạo lý “uống nước nhớ nguồn” của dân tộc.
Đền Kiếp Bạc cùng với hai ngôi đền trên núi Bắc Đẩu và Nam Tào được ví như “một cõi thiên bồng giữa hạ giới”. Tại vị trí trang trọng nhất của Đền Kiếp Bạc, tượng Đức Thánh Trần bằng đồng nặng hàng tấn ngự trên ngai sơn son thếp vàng đường bệ, uy nghi, bao thế kỷ vẫn toát ra hùng tâm tráng chí và hào khí Đông A lẫm liệt, khiến khách hành hương không ai không ngưỡng vọng thành kính. Được phối thờ tại Đền là gia quyến của Đại Vương, gồm 04 tượng thờ: Nguyên từ Quốc mẫu Thiên Thành công chúa (tức phu nhân của Trần Hưng Đạo), tướng quân Phạm Ngũ Lão (danh tướng đời Trần, và là con rể của Đại Vương), 2 người con gái của Trần Hưng Đạo là Đệ nhất Khâm từ Hoàng thái hậu Quyên Thanh công chúa (phu nhân của vua Trần Nhân Tông), Đệ nhị Nữ đại hoàng Anh Nguyên quận chúa (phu nhân tướng quân Phạm Ngũ Lão) và 04 ngai cùng bài vị thờ vọng bốn con trai của Đại Vương.
Cổng đến Kiếp Bạc có câu đối nổi tiếng:
Kiếp Bạc hữu sơn giai kiếm khí
Lục Đầu vô thuỷ bất thu thanh
Nghĩa là:
Kiếp Bạc muôn ngọn núi đều có hùng khí của kiếm thiêng
Lục Đầu không con nước nào chẳng vọng tiếng thu.
Trong nhiều thế kỷ qua, những giá trị lịch sử – văn hóa lớn lao của Côn Sơn – Kiếp Bạc, cùng với danh thơm, sự nghiệp của các bậc vĩ nhân đã toả rọi hào quang vào lịch sử và văn hóa dân tộc. Sự linh thiêng của Kiếp Bạc, Côn Sơn tồn tại vĩnh hằng cùng sông núi nước Nam. Những công trình như chùa Côn Sơn, đền Kiếp Bạc, Đền Nam Tào, Đền Bắc Đẩu, đền thờ Nguyễn Trãi, đền thờ quan Tư đồ Trần Nguyên Đán, Ngũ Nhạc linh từ…. trong quần thể Côn Sơn – Kiếp Bạc mãi mãi là những chốn thờ tự thiêng liêng, nơi đặt niềm tin nhân thế. Vẻ đẹp hùng vỹ mà nên thơ, tráng lệ mà trầm mặc thanh u của cảnh vật do thiên nhiên và con người tạo dựng tại Côn Sơn – Kiếp Bạc đang tiếp tục được chăm sóc, tu bổ cho ngày càng tốt tươi, hoành tráng, giàu tiềm năng, ngày càng hấp dẫn du khách thập phương Có thể nói, mỗi cảnh sắc, hiện vật, dấu tích ở Kiếp Bạc đều gợi về bản hùng ca giữ nước của dân tộc ở triều đại nhà Trần, gợi nhớ về Đức Thánh Trần linh thiêng trong tâm thức dân tộc Việt – Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn, người kết tinh rực rỡ hào khí Đông A, linh hồn của các cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông xâm lược. Kiếp Bạc đã trở thành mảnh đất tâm linh, nơi tìm về dâng tấm lòng tri ân thành kính và lời cầu mong được phù giúp chiến thắng mọi trở lực, đạt được mọi điều sở nguyện trong đời của biết bao thế hệ người Việt, thuộc mọi tầng lớp và ở mọi miền đất nước về đây niệm Phật, tưởng nhớ các danh nhân, “nghỉ ngơi chơi ngắm, nâng cao tri thức và bồi bổ tâm hồn…
Có thể nói, mỗi cảnh sắc, hiện vật, dấu tích ở Kiếp Bạc đều gợi về bản hùng ca giữ nước của dân tộc ở triều đại nhà Trần, gợi nhớ về Đức Thánh Trần linh thiêng trong tâm thức dân tộc Việt – Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn, người kết tinh rực rỡ hào khí Đông A, linh hồn của các cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông xâm lược. Kiếp Bạc đã trở thành mảnh đất tâm linh, nơi tìm về dâng tấm lòng tri ân thành kính và lời cầu mong được phù giúp chiến thắng mọi trở lực, đạt được mọi điều sở nguyện trong đời của biết bao thế hệ người Việt, thuộc mọi tầng lớp và ở mọi miền đất nước.
Thuyết trình về một địa chỉ văn hoá ở nơi em đang sống - mẫu 10
Chùa Thiên Mụ là một ngôi chùa nằm trên đồi Hà Khê, tả ngạn sông Hương cách trung tâm thành phố Huế khoảng 5km về phía tây. Chùa Thiên Mụ chính - khởi xây năm Tân Sửu (1601), đời chúa Tiên Nguyễn Hoàng, vị chúa Nguyễn đầu tiên ở Đàng Trong. Có thể nói Thiên Mụ là ngôi chùa cổ nhất của Huế.
Lúc đó, nó chỉ là một ngôi thảo am nhỏ do người dân mới di cư đến vùng lập nên. Theo sách Đại Nam nhất thống chí thì vào năm 1601, chúa Nguyễn Hoàng qua đây thấy cảnh trí đẹp và được nhân dân địa phương kể chuyện rằng: Có một tiên áo đỏ quần lục xuất hiện trên ngọn đồi này và nói rồi đây sẽ có bậc chân chúa đến lập chùa để tụ linh khí cho bền long mạch. Nói dứt lời, bà tiên biến mất. Từ nhân dân gọi là đồi Thiên Mụ (người đàn bà nhà trời). Chúa liền cho dựng trên đồi và đặt tên là Linh Mụ Tự. Các đời chúa sau nhu Nguyễn Phúc Tần (1648 - 1687) và Nguyễn Phúc Chu (1691 - 1725) cũng đã tu bổ và mở rộng chùa thành một chùa lớn. Năm 1844, vua Thiệu Trị cho dựng tháp Phước Duyên.
Năm Giáp Thìn (1904), bão lớn ở Huế làm cho chùa bị đổ nát. Năm 1907 Thành Thái cho trùng tu, quy mô chùa từ đấy không còn to lớn như trước nhưng vẫn cổ kính, trang nghiêm.
Chùa được bao quanh bằng khuôn tường xây đá hai vòng trong, ngoài. Khuôn viên chùa được chia làm hai khu vực. Khu vực trước cửa Nghi Môn gồm có các công trình kiến trúc: Bến thuyền đúc bê tông có 24 bậc tam cấp lên xuống, cổng tam quan là bốn trụ biểu xây sát đường cái, từ cổng tam quan bước lên 15 bậc tam cấp là đình Hương Nguyện (nay chỉ còn lại nền đất và bộ móng xây bằng đá thanh), sau đình Hương Nguyện là tháp Phước Duyên xây bằng gạch vồ bảy tầng cao vòi vọi, hai bên Hương Nguyện có hai lầu hình tứ giác (dựng từ thời Triệu Trị lui về phía trong có hai lầu hình lục giác - một lầu để bia và một lầu để chuông (dựng thời Nguyễn Phúc Chu). Đây là những công trình có tính chất lưu niệm (bia, tháp). Khu vực phía trong của Nghi Môn gồm các điện: Đại Hùng, Địa Tạng, Quan Âm, nhà trai, nhà khách, vườn hoa, sau cùng là vườn thông tĩnh mịch.
Chùa Thiên Mụ là ngôi chùa cổ nhất, kiến trúc đồ sộ nhất và cũng là ngôi chui đẹp nhất của xứ Huế. Vua Thiệu Trị Liệt cánh chùa Thiên Mụ vào một trong 21 thắng cảnh được thể hiện trong bài thơ Thiên Mụ chung Thanh. Năm 1695, chúa Nguyễn Phúc Chu đã mở đại giới đàn rất long trọng tại chùa và mời ngài Thích Đại Sán - một vị cao tăng người Trung Quốc tới Phú Xuân.
Ngày nay, chùa Thiên Mụ vẫn huy hoàng, tráng lệ chính nhờ công lao trùng tu và xây dựng của nhiều vị chân tu và đạo hữu xa gần suốt mấy chục năm qua.
CÂU HỎI HOT CÙNG CHỦ ĐỀ
Câu 1:
Câu 2:
Câu 3:
về câu hỏi!