Câu hỏi:

04/01/2023 1,425

Viết bài văn nghị luận phân tích, đánh giá tác phẩm truyện Sọ Dừa. (10 mẫu)

Quảng cáo

Trả lời:

verified
Giải bởi Vietjack

Mẫu 1

Trong kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, có vô vàn những câu truyện dân gian hay, cảm động và có ý nghĩa, trong số đó có truyện “Sọ Dừa” một câu chuyện với nhiều tình tiết hoang đường đầy ly kì nhưng cũng mang rất nhiều ý nghĩa cuộc sống nhất là ước mơ của những người nông dân nghèo.

Sọ Dừa ra đời một cách vô cùng huyền bí và li kì với nhiều tình tiết hư cấu, kì ảo. Một bà mẹ đã lâu chưa có con một ngày bà đi làm đồng do khát nước lại thấy nước trong một chiếc sọ dừa liền uống. Về nhà bà có thai sau đó đẻ ra một bé trai không chân và không tay, duy nhất chỉ có mỗi một cái đầu nhìn như sọ dừa, nên cậu bé được đặt là Sọ Dừa. Khi Sọ Dừa lên 7-8 tuổi thì cuộc sống ngày càng khó khăn hơn. Khi mẹ nói Sọ Dừa rằng nhà càng lúc càng nghèo và không biết lấy gì để nuôi Sọ Dừa nữa, không biết rồi cuộc sống của hai mẹ con ta sẽ ra sao. Sọ Dừa liền nói với mẹ: “mẹ yên tâm con lớn rồi con sẽ đi ở đợ cho nhà phú hộ kiếm tiền nuôi mẹ”. Cho thấy Sọ Dừa tuy là đứa trẻ tật nguyền nhưng lại vô cùng có hiếu, là đứa con ngoan biết giúp đỡ gia đình.

Tuy Sọ Dừa mang hình hài xấu xí nhưng lại vô cùng nhanh nhẹn và hoạt bát, nên khi xin đi ở đợ cho nhà phú ông, ban đầu phú ông không nhận nhưng sau một hồi tính toán thiệt hơn, thấy Sọ Dừa nuôi cơm đỡ tốn nên nhận Sọ Dừa. Sọ Dừa hàng ngày đều đưa trâu đi ăn đồng xa, nhìn con nào con nấy đều béo tốt và khỏe mạnh, phú ông lấy làm mừng lắm, càng tin tưởng Sọ Dừa hơn. Nhà phú ông có ba cô con gái nhưng chỉ có cô út là dịu dàng, nết na, hay nhận việc mang cơm cho Sọ Dừa. Chính việc đi đưa cơm cho Sọ Dừa nên cô út mới biết được bí mật rằng Sọ Dừa là một chàng trai khôi ngô, lại còn biết thổi sáo hay nữa.

Sọ Dừa nói với mẹ mình muốn lấy con gái phú ông, vì thương con mẹ Sọ Dừa cũng qua thưa chuyện. Phú ông lấy làm điều nực cười lắm nhưng không từ chối thẳng thừng mà thách Sọ Dừa mang thật nhiều sính lễ là vàng bạc châu báu thì phú ông mới gả con gái cho. Sọ Dừa vốn dĩ là tiên xuống trần gian để thử lòng con người, vì vậy Sọ Dừa biến được nhiều vàng bạc để làm sính lễ.

 

Hai cô chị nhà phú ông thấy Sọ Dừa xấu xí, khác người thì đã lắc đầu bĩu môi không thèm nhìn, chỉ có mỗi cô út là gật đầu đồng ý. Sau khi lấy được vợ Sọ Dừa trở về hình hài là một chàng trai tuấn tú, thông minh, Sọ Dừa đã biến một ngôi nhà vô cùng khang trang, tráng lệ, có người hầu đi lại liên tục. Chính điều này đã làm cho hai cô chị nhà phú ông không khỏi tiếc nuối và nghiên tức với cô Út.

Hình ảnh Sọ Dừa khác người, hình dạng xấu xí, đã thể hiện tinh thần nhân đạo sâu sắc, sự thương cảm và lòng ưu ái, cảm thông của nhân ta đối với những số phận thiếu may mắn, bất hạnh, khi sinh ra bị khiếm khuyết. Câu truyện cũng muốn nhắn nhủ đến mọi người không nên chỉ chú trọng vẻ bên ngoài mà đánh đồng những đức tính bên trong của con người. Sọ Dừa khiếm khuyết nhưng nhiều tài, thông minh, nhanh nhẹn. Vẻ bề ngoài không thể biểu hiện được cả mặt chất và lượng của một con người.

Qua nhân vật Sọ Dừa nhân dân ta khi xưa muốn ngợi ca tình yêu một tình yêu trong sáng, không hám danh lợi, tình yêu chung thủy, không vì cái ngoại hình bên ngoài mà chia rẽ được tình cảm lứa đôi. Vì tình yêu con người ta có thể vượt qua được tất cả những khó khăn, thử thách. Đó chính là ước muốn, thông điệp của nhân dân qua hình ảnh nhân vật Sọ Dừa.

Mẫu 2

Sọ Dừa là truyện cổ về người mang lốt vật, được truyền tụng lâu đời trong dân gian. Truyện thể hiện ước mơ đổi đời, mong muốn những điều tốt đẹp, hạnh phúc sẽ đến với người hiền lành, lương thiện và khát vọng công lí của người xưa. Truyện còn đặt ra bài học về cách đánh giá con người: Đừng nhìn hình thức bên ngoài mà vội nhận xét bản chất bên trong. Bài học ấy được gửi gắm qua hình ảnh chàng Sọ Dừa dị dạng mà tài đức vẹn toàn.

 

Sự ra đời của Sọ Dừa có nhiều nét khác thường. Bà mẹ đi rừng khát nước, uống nước trong một cái sọ dừa rồi có thai sinh ra đứa con chỉ có cái đầu tròn lông lốc, thân mình, chân tay chẳng có. Bà mẹ chỉ vì thương con nên giữ lại nuôi và đặt tên là Sọ Dừa.

 

Các tình tiết li kì về sự ra đời và hình dạng khác thường của Sọ Dừa thể hiện sự quan tâm của nhân dân đến một loại người đau khổ nhất, số phận thấp hèn nhất trong xã hội. Đau khổ, thấp hèn từ dáng vẻ bề ngoài, lại bị coi là “vô tích sự”. Hình ảnh cái đầu tròn lông lốc gợi sự thương cảm sâu xa của mọi người đối với nhân vật này.

 

Tưởng chừng Sọ Dừa là kẻ vô tích sự, nào ngờ chàng lại làm việc giỏi. Chàng thưa với mẹ hãy xin phú ông cho chàng chăn đàn bò đông đúc của ông ta. Thật khó mà tin rằng chàng làm được công việc vất vả ấy. Thế mà chỉ sau một thời gian, bò con nào con nấy bụng no căng, béo mượt khiến phú ông rất hài lòng.

 

Chăn bò cực nhọc vô cùng nhưng Sọ Dừa đã biết tạo cho mình một niềm vui… Những lúc đàn bò mải mê gặm cỏ, Sọ Dừa trút bỏ lốt quái dị, biến thành một chàng trai tuấn tú, đu đưa trên chiếc võng đào mắc giữa hai thân cây, ung dung thổi sáo. Thật là thong dong, thư thái. Lao động nặng nhọc đã trở thành niềm vui nhẹ nhàng. Sọ Dừa không những lao động giỏi mà còn tài hoa biết mấy!

 

Bất ngờ và kì lạ hơn cả là Sọ Dừa nhờ mẹ đi hỏi con gái phú ông về làm vợ. Nghèo hèn, dị dạng, lại làm đầy tớ cho nhà người ta, thế mà chàng lại dám làm điều thiên hạ cho là đũa mốc mà chòi mâm son. Bà mẹ ngạc nhiên, thậm chí sợ hãi nhưng rồi cũng phải chiều con. Phú ông bật cười mai mỉa và thách cưới một cách nghiệt ngã, tưởng chừng giàu có cỡ nào cũng không lo nổi. Hắn định bụng trừng trị mẹ con gã đầy tớ kia một cách đích đáng. Vậy mà chỉ hôm sau, Sọ Dừa có đủ sính lễ theo yêu cầu của phú ông: mười mâm lụa đào, mười con lợn béo, một vò rượu tăm, một chĩnh vàng cốm. Sọ Dừa không phải là người phàm trần, chàng đã hóa phép ra tất cả.

 

Những đòi hỏi về sính lễ của phú ông có ý nghĩa như là một thử thách ban đầu mà Sọ Dừa phải vượt qua. Phú ông hoa mắt vì tham, nhưng rõ ràng vẫn ngần ngại, đo đó mới có chi tiết: Lão lúng túng nói với bà cụ: – Để ta hỏi con gái ta, xem có đứa nào ưng lấy thằng Sọ Dừa không đã. Điều lão không ngờ đã xảy ra là trong khi hai cô chị bĩu môi chê bai, thi cô út đồng ý lấy Sọ Dừa. Thế là phú ông đành phải nhận lễ và gả cô út cho Sọ Dừa.

 

Khác với hai cô chị, cô út nhận biết được thực chất vẻ đẹp bên trong của Sọ Dừa nên đã thuận lòng lấy chàng. Trong truyện này, bên cạnh nhân vật chính là Sọ Dừa, cô Út cũng là nhân vật đáng chú ý. Hai cô chị vốn tính ác nghiệt, đỏng đảnh nên thường hắt hủi Sọ Dừa. Cái định kiến sâu sắc về sự thấp kém, về sự dị hình và vô dụng đã khiến hai cô chị không thể nhìn thấy được bản chất tốt đẹp của Sọ Dừa.

 

Cô Út hiền lành, tính hay thương người. Ngay cả khi chưa biết gì về những điều kỳ lạ của Sọ Dừa, cô vẫn đối xử với Sọ Dừa rất tử tế. Phép lạ của Sọ Dừa có được là nhờ sự kết hợp của hai yếu tố: thứ nhất là dưới bề ngoài xấu xí, thực chất Sọ Dừa là chàng trai khôi ngô, tài giỏi và thứ hai là lòng thương người của cô Út. Chính lòng thương người ấy giúp cô có dịp thấy được bên trong cái hình hài sọ dừa lăn lóc là một chàng trai khôi ngô, tài giỏi. Cô út trỏ thành bà Trạng là phần thưởng xứng đáng mà truyện cổ thường dành cho những người nhân hậu.

 

Như vậy, ở truyện này, giá trị,cao quý của con người không chi thể hiện ở nhân vật Sọ Dừa mà còn thể hiện ở nhân vật cô út. Nhờ cô út, giá trị của Sọ Dừa mới có thể bộc lộ và phát triển. Cưới được con gái út phú ông, Sọ Dừa đã xóa được cái hố sâu ngăn cách giữa giàu và nghèo, giữa tầng lớp trên và tầng lớp dưới trong hôn nhân thời phong kiến. Bằng tài năng, đạo đức của mình, chàng buộc phú ông phải chịu thua. Đến lúc này, chẳng cần phải tiếp tục giấu mình trong cái lốt xấu xí nữa, Sọ Dừa hiện nguyên hình là một chàng trai khôi ngô, đẹp đẽ và càng tỏ ra có tài, có đức. Chàng học giỏi, thông minh khác thường và thi đỗ Trạng nguyên rồi được nhà vua cử đi sứ ở nước ngoài. Chàng đã đạt tới tột đỉnh danh vọng cao sang. Sọ Dừa đã đem đến cho người đọc những bất ngờ hết sức thú vị.

 

Nhưng hạnh phúc của chàng bị đe dọa bởi lòng đố kỵ và sự ghen ghét của những kẻ lòng dạ xấu xa. Hai cô chị vốn khinh rẻ Sọ Dừa, nay thấy chàng thành đạt lại rắp tâm hãm hại em gái để được làm vợ quan trạng. Mưu mồ của chúng thật hiểm độc nhưng nhờ trí tuệ sáng suốt, Sọ Dừa đã dự đoán và lo xa được tất cả. Trước khi lên đường, chàng chuẩn bị chu đáo cho vợ: con dao, hai quả trứng, hòn đá lửa… để phòng thân.

 

Quả nhiên, khi nàng út bị hãm hại, các thứ đó đều có ích cho nàng. Dao đâm chết cá kình, đá đánh ra lửa nướng cá làm thức ăn. Đặc biệt là hai quả trứng nở ra hai con gà sớm hôm bầu bạn với nàng và tiếng gáy của chú gà trống đã báo cho quan trạng biết mà ghé vào đảo hoang cứu vợ. Không chi có tài và trí, Sọ Dừa còn là người nhân đức và độ lượng. Trở về quê hương, chàng mở tiệc mừng sum họp. Mặc dù biết rõ lòng dạ độc ác của hai người chị nhưng chàng không một lời trách cử, chi lặng lẽ đưa vợ ra chào. Hai người chị xấu hổ, nhục nhã, âm thầm trốn đi. Vậy là quan trạng Sọ Dừa có đủ cả tài, đức, trí. Chàng xứng đáng được hưởng hạnh phúc.

 

Người xưa đã thành công khi miêu tả hình dạng bên ngoài và phẩm chất bên trong của nhân vật Sọ Dừa có sự đối lập đến mức kỳ lạ. Dưới cái lốt kì quái, Sọ Dừa có đủ vẻ đẹp cả về hình dáng lẫn tài năng, phẩm chất tuyệt vời. Sự đối lập ấy khẳng định cái đáng quý là phẩm chất bên trong và đề cao giá trị của con người chân chính.

 

Trong xã hội phong kiến trọng người giàu sang, khinh kẻ nghèo hèn, người lao động khó lòng vượt qua số phận tăm tối của mình. Cho nên sự biến đổi kỳ diệu của Sọ Dừa chính là sản phẩm của trí tưởng tượng phong phú, thể hiện sức sống và tinh thần lạc quan mãnh liệt của nhân dân lao động. Còn sống là còn hy vọng, còn mơ ước, còn tin tưởng vào chiến thắng tất yếu của lòng tốt và sự công bằng trước sự độc ác, bất công của cuộc đời.

Mẫu 3

Truyện cổ tích là loại truyện dân gian kể về cuộc đời của một số kiểu nhân vật quen thuộc như nhân vật bất hạnh, nhân vật dũng sĩ và nhân vật có tài năng kì lạ, nhân vật thông minh và nhân vật ngốc nghếch, nhân vật là động vật. Tuy các nhân vật trong chuyện cổ tích có sự đa dạng về hình hài, số phận nhưng đều có đặc điểm chung là chúng được xây dựng nhằm thể hiện những ước mơ niềm tin của nhân dân về sự chiến thắng cuối cùng của cái thiện đối với cái ác, cái tốt đối với cái xấu, sự công bằng đối với sự bất công. Truyện cổ tích “Sọ Dừa” là một câu chuyện về đề tài “người đội lốt vật”, qua đó các tác giả dân gian đã khẳng định vẻ đẹp chân chính của con người, cũng như sự đồng cảm đối với những con người có số phận bất hạnh trong xã hội.

 

Trước hết, Sọ Dừa có một sự ra đời vô cùng kì lạ, một lần vào rừng hái củi, mẹ của Sọ Dừa đã uống nước ở trong một cái sọ dừa bên gốc cây, từ hôm đó về nhà bà hoài thai và sinh ra Sọ Dừa. Và khi sinh ra Sọ Dừa cũng có một hình dáng vô cùng kì lạ “…một đứa bé không chân, không tay, tròn như một quả dừa”, và khi người mẹ có ý định vứt bỏ thì đứa bé kì lạ này còn biết cất tiếng gọi đầy tha thiết, tội nghiệp “Mẹ ơi, con là người đây. Mẹ đừng vứt con đi mà tội nghiệp”. Đây là một tình tiết đầy kì lạ, bởi Sọ Dừa không chỉ có hình dáng khác người mà dường như cũng trưởng thành hơn, không giống như những đứa trẻ mới sinh. Có lẽ đây cũng chính là đặc điểm của những câu chuyện cổ tích, các tác giả dân gian xây dựng những yếu tố kì lạ để thể hiện những quan niệm thực, cách nhìn nhận, đánh giá rất thực về con người, về nhân sinh.

 

Sọ Dừa dù lớn cũng không khác gì lúc nhỏ, lúc nào cũng lăn lông lốc trong nhà, không làm được việc gì, khiến cho bà mẹ phải lên tiếng than phiền “Con nhà người ta bảy, tám tuổi đã đi ở chăn bò. Còn mày chẳng được tích sự gì”. Tuy nhiên, Sọ Dừa không phải là người “không được tích sự” gì như bà mẹ cũng như mọi người suy nghĩ. Ở Sọ Dừa luôn có sự trưởng thành hơn những đứa trẻ cùng trang lứa, thể hiện ngay trong lời nói và hành động của chàng “Gì chứ chăn bò thì con cũng chăn được. Mẹ cứ nói với phú ông cho con đến ở chăn bò”. Ý kiến này của chàng không chỉ khiến cho người mẹ bất ngờ mà còn khiến cho phú ông hoài nghi, thậm chí coi thường “..cả đàn bò giao cho thằng bé người không ra người, ngợm không ra ngợm ấy, chăn dắt làm sao?”.

 

Nhưng trái lại với sự coi thường, dè bỉu của phú ông, Sọ Dừa chăn bò rất giỏi, hàng ngày Sọ Dừa thả bò ra đồng, tối lại dắt về, không thiếu một con “…bò con nào con nấy bụng no căng”. Theo thời gian, Sọ Dừa cũng trưởng thành, chàng cũng có những mong muốn như bao chàng trai bình thường nào khác, đó chính là khát khao về tình yêu, về hạnh phúc. Cô con gái út của phú ông là người hiền lành, tốt bụng nhất trong ba chị em con phú ông, cô không dè bỉu, coi thường, cũng là người duy nhất tình nguyện mang cơm cho Sọ Dừa, trong một lần mang cơm, cô đã nghe thấy tiếng sáo véo von, khi đến gần thì thấy một chàng trai khôi ngô đang ngồi thổi sáo cho đàn bò gặm cỏ.

 

Đây cũng là lần đầu tiên, con người thật của Sọ Dừa được khám phá, không phải với lốt vật như mọi người vẫn thấy. Từ đó mà cô út đem lòng yêu mến Sọ Dừa. Biết được tấm chân tình của cô gái mà Sọ Dừa về giục mẹ đến hỏi con gái phú ông về làm vợ. Ý muốn này thật khó thực hiện, làm cho bà mẹ không khỏi sửng sốt. Vì nếu Sọ Dừa có hình hài như một người bình thường, nhưng với một gia cảnh nghèo khó đã không thể lấy vợ, bởi quan niệm “môn đăng hậu đối” trong xã hội xưa rất khắt khe, hơn nữa đây còn là con gái của phú ông, mà Sọ Dừa cũng đâu phải người bình thường, hình hài của chàng luôn nhận sự coi thường, dè bỉu, đặc biệt là từ phú ông.

 

Sọ Dừa vốn không phải người bình thường, vốn ẩn giấu những điều kỳ lạ, sức mạnh kì lạ, vì vậy mà những sính lễ mà phú ông đưa ra, gồm “ …một chĩnh vàng cốm, mười tấm lụa đào, mười con lợn béo, mười vò rượu tăm” thì cũng không làm khó được Sọ Dừa. Khi chàng mang sính lễ sang bên nhà phú ông, lão đã rất bất ngờ, bị cho những sính lễ ấy làm cho hoa mắt. Lão hỏi con gái xem ai chịu lấy Sọ Dừa, như tính cách kiêu kì vốn có, ác nghiệt vốn có thì cô cả và cô hai không ai chịu lấy Sọ Dừa, chỉ có cô út đồng ý. Đám cưới của Sọ Dừa và cô út cũng vô cùng linh đình, gia nhân chạy ra vào tấp nập, vì vậy mà những người chị độc ác vô cùng ghen tức, có phần tiếc nuối vì khi ấy không chịu lấy Sọ Dừa.

 

Cuộc sống của vợ chồng Sọ Dừa vô cùng hạnh phúc, hơn nữa chàng còn ngày đêm đèn sách, chờ khoa thi. Và đúng như dự đoán, Sọ Dừa đã đỗ trạng nguyên, vua sai chàng đi sứ. Vốn là người thông minh, lại có cảm giác bất an nên Sọ Dừa đã đưa cho vợ một hòn đá lửa, một con dao và hai quả trứng gà, dặn phải luôn mang trong người, phòng khi phải dùng đến. Quả nhiên như vậy, khi Sọ Dừa đi thì hai bà chị đã nhẫn tâm hại cô em gái, ý định muốn thay em làm bà trạng. Nhưng vì đã có những vật dụng mà Sọ Dừa đã đưa mà cô vợ có thể thoát khỏi kiếp nạn này. Không những thế, đó còn là những vật dụng giúp Sọ Dừa tìm được vợ.

 

Như vậy, nhân vật Sọ Dừa là kiểu nhân vật người mang lốt vật trong truyện cổ tích, đây là kiểu nhân vật khá quen thuộc trong truyện cổ tích của Việt Nam. Thông qua nhân vật này, các tác giả dân gian muốn đề cao giá trị của con người, đồng thời thể hiện sự đồng cảm với những con người bất hạnh trong cuộc sống. Các tác giả cũng thể hiện niềm tin cũng như khát vọng về lẽ công bằng ở đời, theo đó những con người thiện lương, tốt bụng sẽ được hưởng hạnh phúc, người có dã tâm độc ác sẽ phải nhận lấy những quả báo.

Mẫu 4

Truyện cổ tích "Sọ Dừa" là một câu chuyện ly kỳ hấp dẫn, mang nhiều yếu tố hoang tưởng thần kỳ vô cùng phong phú. Sọ Dừa là một truyện cổ tích do trí tưởng tượng của tác giả dân gian xây dựng lên, nhưng nó nói lên ước mơ khát vọng của người dân lao động xưa. Nhân vật Sọ Dừa đại diện cho mong ước của người nông dân lao động nghèo khổ. Nhân vật Sọ Dừa được ra đời một cách ly kỳ mang yếu tố kỳ ảo. Có một bà mẹ hiếm muộn đã lâu chưa có con một hôm bà đi làm đồng khát nước quá nhìn thấy nước mưa chứa trong một cái sọ dừa bà liền uống.

 

Về nhà bà mang thai rồi để ra một cậu bé trai không có chân tay, chỉ có mỗi cái đầu, tròn lăn như sọ dừa. Bà liền đặt tên con trai mình là Sọ Dừa. Năm Sọ Dừa được chừng 7-8 tuổi trong nhà ngày càng khó khăn. Mẹ Sọ Dừa mới tâm sự với con nhà mình càng ngày càng nghèo không biết mẹ con ta sẽ sống sao? Thì Sọ Dừa liền nói với mẹ rằng "mẹ yên tâm con lớn rồi con sẽ đi ở đợ cho nhà phú hộ kiếm tiền nuôi mẹ." Điều này cho thấy Sọ Dừa là nhân vật có hiếu với cha mẹ, là người biết tự lập từ khi còn rất nhỏ.

 

Sọ Dừa xấu xí nhưng nhanh nhẹn, chàng xin mẹ cho đi làm chăm trâu cho gia đình phú hộ gần nhà, phú hộ lúc đầu không muốn nhận nhưng nghĩ nuôi Sọ Dừa ít tốn cơm hơn nên nhận lời cho làm thử. Sọ Dừa ngày ngày đi chăn trâu, ở rất xa, khi về con nào con đó đều béo khỏe, phú hộ vui lắm. Nhà phú hộ có ba cô con gái nhưng hai cô chị kiêu ngạo, đánh đá chỉ có cô em út hiền lương, dịu dàng thường mang cơm cho Sọ Dừa. Cô út nhiều lần mang cơm đã phát hiện ra sự việc lạ đó là Sọ Dừa thực ra là một chàng trai vô cùng khôi ngô tuấn tú, có tài thổi sáo rất hay.

 

Sọ Dừa nhờ mẹ mình sang hỏi con gái phú hộ cho mình. Phú hộ buồn cười lắm nhưng mà ông ta cũng đồng ý với điều kiện nhà Sọ Dừa phải lo được nhiều vàng bạc châu báu thì mới được cưới con gái lão. Bởi lão nghĩ nếu từ chối thẳng thừng thì không hay lắm nên cứ thách cưới thật cao, cho mẹ con nhà Sọ Dừa bỏ cuộc bởi nhà Sọ Dừa nghèo khó lấy đâu ra vàng bạc châu báu mà cưới con gái lão.Nhưng lão phú hộ đã nhầm, Sọ Dừa thực ra là người tiền xuống trần gian thử lòng người, nếu ai tốt thì gặp may mắn hạnh phúc, còn ai xấu xa thì phải trả giá. Chính vì vậy, Sọ Dừa đã biến ra nhiều vàng bạc để tới hỏi cưới con gái phú hộ.

 

Nhưng hai cô chị vừa thấy Sọ Dừa là đã bĩu môi, lườm nguýt chẳng thèm nhìn một lần. Họ chỉ thấy Sọ Dừa là một cục thịt có mỗi cái đầu lăn đi lăn lại như trái bóng, khác nào một tên tàn phế, dị hợm, nên không bao giờ thèm ngó tới Sọ Dừa, chỉ có cô con gái út của phú hộ là e thẹn đồng ý. Sau khi lấy vợ Sọ Dừa trút bỏ bộ dạng xấu xí biến thành chàng trai khôi ngô, học giỏi, biến ngôi nhà lụp xụp của mẹ mình thành nhà cao cửa rộng khang trang có người hầu kẻ hạ. Khiến hai cô chị con gái phú hộ ganh ghét đố kỵ với em út của mình.

 

Đằng sau nhân vật Sọ Dừa xấu xí chính là tấm lòng nhân đạo chứa đựng nhiều lòng chắc ẩn của người dân xưa với những con người bị hẩm hiu số phận thiếu may mắn cho họ một vẻ bề ngoài xấu xí. Tác giả dân gian xưa muốn khuyên nhủ con người không nên nhìn vẻ bên ngoài mà đánh giá con người bên trong. Sọ Dừa tuy xấu xí nhưng tài giỏi, mưu trí, thông minh nhanh nhẹn hơn người.Ngoài ra, thông qua nhân vật Sọ Dừa tác giả dân gian xưa muốn ca ngợi tình yêu thật lòng chung thủy, không vì tiền bạc, hoặc ngoại hình bên ngoài tình yêu nam nữa có thể vượt qua mọi rào cản ranh giới giàu nghèo, xấu đẹp để tới với nhau xây dựng cuộc sống hạnh phúc.

 

Nó chính là mong ước, khát vọng của người xưa muốn nhắn gửi thông qua nhân vật Sọ Dừa. Dù nhân vật Sọ Dừa xấu xí nhưng lại thông minh, có tài thổi sáo vô cùng hay, có tài chăn bò rất giỏi có sự nhanh nhẹn hoạt bát. Đừng nhìn vẻ bề ngoài mà vội vàng kết luận đánh giá một con người, hoặc làm tổn thương ai đó vì vẻ bề ngoài không được đẹp đẽ của họ, thể hiện sự nhân văn của tác giả dân gian với những số phận chịu bất hạnh trong cuộc sống.

Mẫu 5

Trong các truyện cổ tích Đông Tây thường có những người, và bên ngoài xấu xí đến ghê tởm, nhưng chính đó lại là trai tài, gái sắc. Có lẽ là tác giả hư cấu ra như vậy để thử thách người chỉ biết nhìn cái vỏ ngoài mà không chú ý đến thực chất bên trong chăng?

 

Sọ Dừa là một nhân vật như vậy. Sinh ra dị dạng nhưng thực ra là một chàng trai khôi ngô, tuấn tú, có tài nghệ, lao động lại giỏi giang: Chuyện đó không ai biết cả, từ mẹ chàng cho đến phú ông thuê chàng ở chăn bò. Phú ông có ba người con gái thì hai cô chị cũng không biết, chỉ cô em út biết mà thôi. Vì thế mà hai cô chị đối với chàng tỏ ra khinh thường, còn cô em út thì đem lòng yêu mến, bằng lòng lấy Sọ Dừa khi Sọ Dừa cầu hôn.

 

Phú ông tưởng cứ thách cưới cho to là mẹ con Sọ Dừa, nhà nghèo lấy đâu ra mà sửa sang đô sính lễ! Chẳng ngờ, Sọ Dừa đưa đầy đủ những gì phú ông thách cưới. Lúc này Sọ Dừa mới biến thành một chàng trai tuấn tú. Rồi chàng dùi mài kinh sử, gặp khoa thi, đỗ Trạng nguyên, được bổ làm quan.

 

Bấy giờ hai cô chị vốn ác nghiệt, chua ngoa với Sọ Dừa rắp tâm hại em để cướp chồng em, thay em làm bà Trạng! Nhân khi quan Trạng đi sứ, ở nhà hai cô chị lập mưu xô em xuống sông, giữa dòng nước xoáy. Nhưng trời không để nàng chết. Nàng trôi dạt vào một đảo hoang. Đến khi thuyền quan Trạng đi sứ trở về qua thì hai vợ chồng lại gặp nhau. Tất nhiên, hai cô chị xấu hổ, bỏ trốn đi biệt xứ.

 

Truyện có nhiều tình tiết hoang đường như Sọ Dừa lúc sinh ra chỉ là một cục thịt, không có tay chân, nhưng biết nói, biết chăn bò, vv... Hoặc như quan trạng biết trước vợ sẽ gặp tai nạn nên lúc ra đi, đưa cho vợ một hòn đá lửa, một con dao và hai quả trứng gà. Nhờ có những thứ ấy mà cá kình nuốt vào bụng, nàng không chết, lại lấy dao mổ bụng cá chui ra, vv... Nhưng ý nghĩa truyện thì rõ ràng: "Người chăm chỉ lao động sẽ được đền bù; người hiền hậu sẽ được hưởng hạnh phúc. Chỉ có kẻ ác độc mới phải chịu số phận hẩm hiu".

Mẫu 6

Trong truyện cổ tích Sọ Dừa ngoài nhân vật chính là Sọ Dừa thì nhân vật cô Út cũng là một nhân vật đáng được nhắc đến hơn cả. Cô Út là hiện thân cho hình mẫu phụ nữ tiêu biểu của thời kỳ phong kiến, hiền lành, dịu dàng, công dung ngôn hạnh, tài đức có đủ.

 

Trong truyện cô Út xuất hiện lần đầu bằng những dòng rất vắn tắt “hiền lành, tính hay thương người, đối đãi với Sọ Dừa rất tử tế”, người ta không đề cập đến nhan sắc của cô, nhưng có lẽ đây là một người con gái có vẻ đẹp dịu dàng. Sọ Dừa vốn mang một hình hài quái dị, trong thực tế nếu là ai thì cũng có phần kiêng dè, nhưng chỉ có riêng mình cô Út lại không như thế, hẳn cô ấy phải có một lấm lòng nhân hậu và một tình thương vô bờ bến, cảm thông sâu sắc trước cảnh tội nghiệp của chàng, càng vì thế cô lại càng dặn lòng phải đối xử tử tế với Sọ Dừa. Người tốt thì thường được trời thương, cô Út may mắn thấy được hình dáng thực sự của Sọ Dừa, chàng vốn chẳng phải người phàm trần, mà là một chàng trai khôi ngô, tuấn tú, lâu nay vẫn ẩn núp trong cái sọ dừa, lại có tiếng sáo làm say lòng người. Trái tim của cô gái hiền lành, tốt bụng ấy chẳng biết từ lúc nào đã âm thầm cảm mến chàng trai, yêu thương chàng mà không cầu mong điều chi, chỉ lặng lẽ chăm sóc “có của ngon vật lạ đều giấu đem hết cho chàng”.

 

Cô Út không biết được rằng Sọ Dừa vốn đã nhìn thấu tâm tư của cô nàng qua sự ân cần chăm sóc, chàng hỏi cưới con gái của phú ông, nhưng không chỉ rõ là ai, mục đích là muốn xác nhận xem cô Út có muốn là người đi cùng chàng suốt đời hay không. Lẽ dĩ nhiên, một người con gái như Út, bỗng được người mình thầm yêu bấy lâu ngỏ ý cầu hôn, thì bụng bảo dạ “e lệ, cúi mặt xuống, tỏ ý bằng lòng”. Chi tiết này cho thấy cô Út là người rất ngoan hiền, ở cô có sự e ấp, ngượng ngùng đúng kiểu thiếu nữ thời xưa. Có câu “tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu”, cô Út rất vâng lời cha, cô chưa bao giờ cãi lời hay tỏ thái độ không bằng lòng, vô cùng nhu mì và đúng mực, không giống như hai cô chị vừa chanh chua lại chỉ biết coi thường người khác. Và với những đức tính tốt đẹp cùng lòng yêu thương, cô đã có một cuộc hôn nhân viên mãn, bên cạnh một chàng trai tài giỏi.

 

Sóng gió ập đến khi, Sọ Dừa nay đã trở thành trạng nguyên và được cử đi sứ, cô Út ở nhà một mình cùng với hòn đá lửa, hai quả trứng và con dao găm mà chồng cho. Hai cô chị bộc lộ dã tâm muốn làm bà trạng, bèn hợp mưu giết cô em, đẩy cô xuống biển cho chết đuối. May thay dù bị cá kình nuốt chửng nhưng cô Út vẫn đủ sự bình tĩnh và dũng cảm, lấy ra con dao găm chồng cho để rạch bụng cá chui ra và bơi vào bờ, rồi lại cực kỳ thông minh, sáng tạo khi tận dụng luôn thịt con cá Kình để làm nguồn thức ăn duy trì sự sống, hòn đá lửa chính là công cụ để cô nấu chín thức ăn. Tuy không nhắc nhiều đến cuộc sống của cô trên đảo nhưng có thể thấy được rằng cô Út là một người phụ nữ kiên cường, ở cô có sự lạc quan, yêu đời, cô sống rất thong dong, thậm chí còn ấp được một đôi gà đẹp để vui vầy làm bạn, và hàng ngày cô vẫn tìm cách để trở về, chưa bao giờ nản chí. Nếu như đặt vào một người phụ nữ khác chưa chắc đã có đủ bình tĩnh và bản lĩnh như cô Út, một thân một mình trên đảo hoang, mà có lẽ đã chết ngay từ trong bụng cá rồi cũng nên.

 

Sau bao trắc trở cuối cùng cô Út cũng gặp lại chồng, hai người lại sống một cuộc sống êm đềm hạnh phúc, còn kẻ gây tội ác thì mãi mãi phải đi biệt xứ. Ở đây không thấy nhắc đến chi tiết trả thù của cô Út, có lẽ xuất phát từ tấm lòng nhân hậu, bao dung của cô, nể tình chị em cô Út đã bỏ qua, dù trước kia hai cô chị toan giết mình. Điều đó lại càng làm cho hai cô chị cảm thấy tội lỗi chồng chất, bèn bỏ đi biệt tích, không quay lại. Chi tiết này đề cao tính nhân văn, triết lý của câu chuyện, cách trả thù tốt nhất là sự tha thứ xuất phát từ lòng khoan dung.

 

Như bao câu chuyện cổ tích khác, Sọ Dừa đem đến cho chúng ta một câu chuyện hấp dẫn và đặc sắc, với chi tiết cái sọ dừa hóa thành chàng trai tài giỏi. Đồng thời đây cũng là một bài học đáng giá trong cuộc sống, giáo dục cho chúng ta những triết lý nhân sinh sâu sắc, ở hiền thì gặp lành, ở ác thì không bao giờ có được kết cục tốt đẹp. Ngoài ra còn cho chúng ta thấy lòng nhân hậu sẽ đem đến cho chúng ta nhiều điều tuyệt vời, trong truyện là nhân vật cô Út với tấm lòng thiện lương cuối cùng có một người chồng tài giỏi lại yêu thương cô hết mực, cuộc sống viên mãn đủ đầy.

Mẫu 7

Từ thuở em còn bé tí, bà nội đã kể cho em nghe bao câu chuyện cổ thật hay. Những nhân vật hiền lành, tài năng như Thạch Sanh, cô Tấm, An Tiêm, Lang Liêu… đã để lại trong tâm trí em ấn tượng sâu sắc. Truyện Sọ Dừa cũng là một cổ tích lí thú. Nhân vật phú ông trong truyện có ba người con gái, nhưng hạnh phúc không đến với hai cô chị mà chỉ đến với cô Út bởi cô hiền lành nhân hậu, xứng đáng được hưởng hạnh phúc.

 

Cô Út là người giàu lòng nhân ái. Cô chẳng nề hà gì khi phải mang cơm cho người đầy tớ chăn bò ở tận trên núi cao. Dù Sọ Dừa dị dạng, xấu xí, cô vẫn đối xử ân cần tử tế. Cô thương người như thể thương thân. Những người bất hạnh, sinh ra đã kì hình dị tướng, thường hay buồn tủi. Chỉ cần một chút cảm thông, trân trọng như thái độ của cô Út cũng đủ đem lại cho họ niềm an ủi lớn lao.

 

Cô Út là người có trái tim vàng. Chính trái tim nhân hậu đó đã cho cô một cách nhìn đời, nhìn người hết sức đúng đắn. Từ những buổi đưa cơm lên núi cho Sọ Dừa, cô đã được chứng kiến chàng có tài thổi sáo tuyệt vời. Tiếng sáo đã nói lên tâm tư, ước vọng của chàng. Cô Út lắng nghe và nhận ra điều đó. Cũng từ đấy cô phát hiện ra điều bí mật của Sọ Dừa. Bên trong cái lốt xấu xí là một chàng trai khôi ngô tuấn tú, tài hoa. Cũng giống như ở đời, có biết bao tâm hồn cao thượng ẩn giấu dưới hình dạng cục mịch quê mùa. Việc làm của cô Út đã nhắc nhở mọi người chớ nhìn dáng vẻ bề ngoài mà đã vội nhận xét phẩm chất bên trong.

 

Cô Út đã hành động theo sự mách bảo của con tim. Cô nhận lời lấy Sọ Dừa trong sự dè bỉu, khinh thường của gia đình, nhất là của hai cô chị. Khi mẹ con Sọ Dừa mang lễ vật sang cầu hôn, phú ông rất lúng túng vì không muốn gả con cho kẻ đầy tớ hèn mọn. Nhưng vốn tham lam, trước bao nhiêu lễ vật quý giá, lão cũng không dám chối từ. Lão đã gọi ba cô con gái lên hỏi ý kiến. Hai cô chị bĩu môi khinh bỉ, chỉ có cô Út e lệ tỏ ý bằng lòng. Bởi vì cô đã nhận ra phẩm chất đẹp đẽ của Sọ Dừa và đem lòng yêu mến chàng. Trong xã hội phong kiến thời xưa, hành động đó chứng tỏ cô là một phụ nữ thông minh và dũng cảm, dám vượt lên những định kiến khắt khe.

 

Vì nhân hậu, thương người nên cô Út đã vui vẻ chấp nhận cùng Sọ Dừa kết duyên đôi lứa. Hạnh phúc thật sự đã mỉm cười với cô. Sọ Dừa thi đỗ Trạng nguyên, cô Út thành bà Trạng. Nhưng hai cô chị sinh lòng ghen ghét đã lập mưu hãm hại em. Cô Út không thể chết. Sóng biển đã đưa cô dạt vào một hòn đảo vắng. Những đồ vật nhỏ bé thân thuộc cô đem theo bên mình đã giúp đỡ cô. Con dao và hòn đá đánh lửa đã giúp cô sống được giữa đảo hoang. Đôi gà nhỏ trở thành bầu bạn chia sẻ buồn vui cùng cô. Cô Út bền gan vững chí, ngày đêm trông ngóng người chồng yêu quý. Nghị lực, tình yêu và lòng chung thủy tăng thêm sức mạnh cho cô. Cuối cùng, cô Út đã được sum họp cùng quan trạng. Kết thúc có hậu ấy làm thỏa lòng mong ước của bao người từng nghe truyện Sọ Dừa.

 

Hàng ngàn năm đã trôi qua nhưng hình ảnh cô Út đẹp người đẹp nết đã in sâu trong tâm trí bao người. Truyện Sọ Dừa mãi mãi được người Việt Nam thích thú và truyền tụng.

Mẫu 8

Khi nhắc tới câu chuyện Sọ Dừa, truyện cổ tích nổi tiếng và vô cùng thân thuộc của Việt Nam thì không ai không biết, ngoài Sọ Dừa thì Cô út nhân vật chính trong truyện là một trong những điển hình đại diện cho người con gái xưa: đoan trang, hiền hậu, nết na, thùy mị, một lòng vì chồng nhưng cũng vô cùng sắc sảo và thông minh.

 

Khác với 2 cô chị đanh đá, tham lam và vô cùng ác nghiệt, luôn hắt hủi và khinh rẻ Sọ Dừa thì cô út lại được khắc họa là người con gái hiền dịu, tốt bụng, luôn sống vì người khác, không ngại khổ, ngại khó. Trong những câu văn đầu miêu tả cô út hiện lên thật xinh đẹp như tiên giáng trần lại còn trong sáng. Lúc đầu cô đâu biết Sọ Dừa là chàng thanh niên đẹp trai, tuấn rú đâu chỉ biết anh vẫn mang trong mình cái vỏ dừa làm vỏ bọc bên ngoài xấu xí và kỳ dị nhưng dù là con giá phú ông nhưng cô chưa bao giờ xem thường hay kinh bỉ chàng mà ngược lại luôn đối đãi với chàng rất tử tế, qua việc này cho thấy cô không những là người hiền lành mà còn biết thương người. Cô vẫn đều đặn mang cơm cho chàng, không thiếu bữa nào, ngược lại thì hai cô chị lúc nào cũng tỏ ra ta là con người ông chủ, xem thường và kinh bỉ Sọ Dừa, nói tới việc mang cơm tới cho chàng là họ tỏ thái độ ngay, môi thì trễ xuống.

 

Nhắc tới chuyện cưới xin khi phú ông có thiện chí gả con gái cho Sọ Dừa, cô thì lúc nào cũng ngoan ngoãn bố bảo như thế nào thì nghe như thế đó, mà nói chung là cô cũng có thiện cảm ngay từ đầu với chàng rồi, và nhận ra chàng không hề tầm thường như người ta nhìn nhận về anh mà cô cảm nhận được sự phi thường trong con người của chàng. Cho thấy cô là người của ông chủ, có cơ đồ, giàu sang phú quý nhưng chưa bao giờ khinh bỉ và miệt thị ai hết, đồng thời cũng cho thấy sự sắc sảo và thông minh của cô khi nhìn nhận về con người nào đó, không phải ai cũng có thể có được tố chất này.

 

Rồi một ngày, cô út vẫn thường lệ đưa cơm cho Sọ Dừa, ngạc nhiên không thấy bóng dáng chàng ở đâu chỉ thấy một chàng trai khôi ngô, tuấn tú ngồi thổi sáo cho đàn bò gặm cỏ, sau hôm đấy chàng trai của chúng ta như biết được tâm tư của cô út trẻ liền đòi mẹ sang nhà phú ông xin cưới, mẹ chàng cũng hoảng hốt không tin nhưng rồi cũng đồng thuận theo con sang xin nhà phú ông cho con trai mình, nghe tin phú ông ngạc nhiên vô cùng nên nảy ra ý định thách cưới vì biết là hoàn cảnh của chàng sẽ không bao giờ đáp ứng nổi sính lễ đâu, nhưng ông đã nhầm mẹ chàng đã mang đầy đủ sính lễ cưới hỏi ngay tới trước mặt ông, ông đành ngậm ngùi bảo ba cô con gái ra cho các on lựa chọn, hai cô chị thì mặt phụng phịu, đùn đẩy mãi, còn tới cô út thì gật đầu ngay, đám cưới diễn ra trong sự bàng hoàng của mọi người, chàng Sọ Dừa ghê sợ kia đâu mà trước mắt họ là chàng trai đẹp tới mê hồn, hai người thật xứng đôi vừa lứa, còn hai cô chị tức lắm. Qua vụ việc cho thấy cô út là người con hiếu thảo, luôn nghe lời bố mẹ, là người vợ hiền dâu thảo.

 

Họ về sống với nhau, Sọ Dừa quyết tâm thi đỗ trạng nguyên, trong một lần lên kinh vì được vua trọng dụng mời đến, trước khi đi chàng đưa cho vợ một con dao, một hòn đá lửa, hai quả trứng và dặn luôn phải mang theo bên mình, cô út luôn vâng lời và nghe theo sự chỉ bảo của chồng, đúng như dự báo của Sọ Dừa hai cô chị âm mưu sát hại cô út để cướp chồng, họ cố tình đẩy cô xuống biển, bị cá ăn thịt nhưng trong lúc nguy hiểm cô nhớ ra vật dụng mà chồng cô đã bảo cô mang bên người, cô liền lấy con dao rạch bụng cá kình chết, xác của nó dạt vào bờ, cô leo lên bờ thì hai quả trứng nở ra một trống một mái, còn hòn lửa thì cô dùng để sưởi ấm.

 

Ông cha ta bảo chưa bao giờ sai, ở hiền thì gặp lành, ở ác ắt gặp quả báo, hai cô chị thì cuối cùng nhận cái kết cay đắng, cô út là nhân vật đáng được ngợi ca.

Mẫu 9

Kho tàng truyện dân gian Việt Nam không chỉ để lại cho chúng ta những bài học mang ý nghĩa sâu sắc mà những nhân vật được tạo dựng trong mỗi tác phẩm đều để lại ấn tượng khó quên đối với người đọc. Nhân vật cô em Út trong tác phẩm “Sọ Dừa”đã để lại cho em thiện cảm về lòng tốt, tình yêu thương, bao dung, độ lượng của cô.

 

Cô em út là một nhân vật mờ trong tác phẩm Sọ Dừa, tuy nhiên lòng nhân ái và sự độ lượng của cô thật đáng trân trọng. Cô là con gái út của phú ông trong một gia đình có ba chị em gái. Sinh ra trong một gia cảnh giàu có, đầy đủ giai nhân, kẻ hầu người hạ, lại được phú ông nuông chiều nhưng không vì thế mà cô mang dáng dấp tiểu thư, yểu điệu. Cô chẳng quản ngại trời trưa, nắng gắt, đường sá xa xôi, nguy hiểm để mang cơm cho người đầy tớ chăn bò ở sau núi.Mặc dù hai cô chị hắt hủi, ghét cay ghét đắng Sọ Dừa bởi thân hình xấu xí, dị dạng nhưng cô thì không hề, ngược lại còn yêu thương, đồng cảm với chàng. Cô em út có tấm lòng thương người như thể thương thân, thật đáng trân trọng.

 

Sọ Dừa sinh ra trong một gia đình nghèo khổ, lại còn xấu xí, dị nhân. Chính tấm lòng cảm thông, chia sẻ cao cả của cô em út đã giúp cho Sọ Dừa nhận được sự an ủi đáng trân trọng, trái tim của cô đã soi sáng cuộc sống đầy thiệt thòi, bất hạnh của Sọ Dừa.

 

Cô út là một người có tâm hồn cao cả, trong sáng và độ lượng. Chính trái tim nhân hậu giúp nàng có cái nhìn đúng đắn về con người, về cuộc đời. Những buổi trưa hè nắng gắt, cô không quản ngại khó khăn, nguy hiểm mang cơm cho Sọ Dừa và được chứng kiến tài thổi sáo của chàng thật tuyệt vời. Và cũng từ đây, cô phát hiện ra bí mật của Sọ Dừa. Bên ngoài cái lốt xấu xí, dị dạng là một chàng trai khôi ngô, tuấn tú. Phía sau lớp vỏ sần sùi là một tâm hồn thật đẹp. Chính chi tiết này nhắc nhở chúng ta không nên nhìn con người với vẻ bề ngoài, đánh giá con người qua hình thức mà cần nhìn sâu trong tâm hồn, thế giới bên trong.

 

Khi Sọ Dừa và mẹ chàng đến ngỏ lời xin cưới, cô út gật đầu e lệ, tỏ ý bằng lòng mà không có ý kiến gì. Trước sự chê bai, hắt hủi của hai cô chị, sự khinh thường nghèo khổ, xấu xí của phú ông thì cô út lại đồng ý không một chút do dự. Hành động đó chứng tỏ cô út chấp nhận gắn kết cuộc đời mình với Sọ Dừa, đồng thời lúc đó cô đã phát hiện ra Sọ Dừa là một chàng trai tuấn tú chứ không hề xấu xí như mọi người nhìn bề ngoài. Trước sự nghèo khổ của mẹ con Sọ Dừa, cô bất chấp định kiến xã, gia cảnh khó khăn để đi theo con tim, ta thấy được quyết định thông minh, đúng đắn và dũng cảm của nhân vật cô em út khi đi tìm hạnh phúc của cuộc đời mình.

 

Trở thành vợ của Sọ Dừa, cô sống một cuộc sống hạnh phúc với chàng và niềm vui nhân đôi khi Sọ Dừa đỗ trạng nguyên và nghiễm nhiên cô út trở thành bà Trạng. Hai cô chị gái nuối tiếc, ghen ăn tức ở khi đã không lấy Sọ Dừa làm chồng nên trả thù em gái. Với sự thông minh và được hỗ trợ từ chồng, trước khi lên đường, Sọ Dừa đã đưa cho vợ ba thứ: con dao, hòn đá và hai quả trứng. Đúng như dự đoán, cô út bị hai cô chị lập mưu hãm hại và nhờ có ba thứ chồng đưa mà cô đã thoát nạn và trở về với chồng. Qua đây, ta thấy được một chân lí ở hiền gặp lành mà tiêu biểu là nhân vật cô út. Bị hai chị hãm hại nhưng cô không hề trả thù mà vẫn vui vẻ đến chào hỏi hai chị cùng Sọ Dừa. Chính sự bao dung và lòng vị tha của cô út đã mài nhẵn thêm tâm hồn cao thượng, trong sáng của cô.

 

Kết thúc câu chuyện có hậu, vợ chồng Sọ Dừa được vui vẻ đoàn tụ, sống một cuộc sống hạnh phúc. Đó cũng là ước mơ ngàn đời của nhân dân ta hướng đến sự bình yên, đoàn tụ. Nghị lực, tình yêu thương, lòng vị tha và trái tim vàng của cô út luôn là tấm gương sáng để chúng ta noi theo. Đồng thời, qua câu chuyện và nhân vật cô em út đã để lại cho ta bài học quý báu, không nên nhìn nhận con người qua vẻ hình thức, bề ngoài mà cần đánh giá qua nhân phẩm bên trong.

Mẫu 10

Truyện cổ tích Việt Nam thường xuất hiện những nhân vật cô Út với phẩm chất, nét đẹp đáng quý như xinh đẹp, giàu lòng vị tha, nhân ái và cuối cùng cô nhận được phần thưởng xứng đáng. Nhân vật cô Út trong truyện cổ tích “ Sọ Dừa” là một nhân vật như vậy.

 

Phú ông trong truyện “ Sọ Dừa” có ba người con gái. Sau khi Sọ Dừa nhận chăn bò cho phú ông. Thấy Sọ Dừa chăn tốt nên phú ông rất mừng và từ đó yên tâm để Sọ Dừa chăm. Ông sai ba cô con gái thay phiên nhau đưa cơm cho Sọ Dừa. Hai cô chị thì ác nghiệt, kiêu kì, hắt hủi Sọ Dừa vì vẻ ngoài của cậu. Chỉ có cô Út hiền lành, lại thương người nên đối đãi với Sọ Dừa rất tử tế. Vậy nên có thể thấy cô út trong truyện “Sọ Dừa” là người hiền lành, có tấm lòng nhân ái.

 

Chính tấm lòng nhân ái, thương người của cô nên cô đã được nhìn thấy bên trong của Sọ Dừa lăn lóc dị hình là chàng trai khôi ngô, tuấn tú khi cô đi đưa cơm. Cô không hề khinh bỉ hay sợ hãi trước bề ngoài của Sọ Dừa mà đối đãi với chàng rất tử tế. Cô Út không đánh giá Sọ Dừa qua vẻ bề ngoài mà cô nhận thấy rằng chàng rất chăm chỉ, chịu khó, siêng năng.

 

Vậy nên kể từ khi phát hiện ra vẻ ngoài của Sọ Dừa cô càng yêu anh hơn. Đến khi Sọ Dừa muốn hỏi cưới một trong ba cô con gái của phú ông. Tình huống này giúp cho anh bộc lộ được tài năng của mình khi đem đủ các sinh lễ mà phú ông yêu cầu. Phú ông bèn gọi cả ba cô con gái ra. Ông hỏi lần lượt từng cô thì hai cô chị bĩu môi, chê bài, chỉ có cô Út bằng lòng. Chính tấm lòng thương người, nhận ra được tài năng, phẩm chất của Sọ Dừa đã giúp cô trở thành vợ của chàng trai khôi ngô, tuấn tú. Cô đã dám dũng cảm vượt lên định kiến của xã hội vì cô nhận ra không chỉ vẻ đẹp bên ngoài của chàng mà cô nhận thấy tài giỏi, cũng như phẩm chất tốt đẹp của Sọ Dừa.

 

Cô út hiện lên trong truyện là người thông minh, khéo léo, và chung thủy với Sọ Dừa. Khi hai cô chị biết được vẻ ngoài của Sọ Dừa đều vừa tiếc vừa ghen tức. Từ đó, họ đã rắp tâm chờ cô hội để hại em. Hai vợ chồng Sọ Dừa lấy nhau sống với nhau vô cùng hạnh phúc. Sọ Dừa vốn thông minh, chăm chỉ nên hàng ngày đọc sách, chờ khoa thi. Đến khi đỗ trạng nguyên, thì nhà vua sau quan trạng đi sứ.

 

Nhân cô hội này mà hai cô chị đã hại cô em, đẩy cô em xuống nước..May trước khi đi, Sọ Dừa đã đưa cho vợ một hòn đá lửa, một con dao, và hai quả trứng dặn là phải giắt luôn trong người phòng khi dùng đến. Đến khi cô Út gặp nạn nhớ đến lời chồng, bị con cá kình nuốt vào bụng thì sẵn có con dao, cô em đâm chết cá rồi dạt vào hòn đảo. Từ những vật dụng mà chồng để lại mà cô Út đã tự nuôi sống được mình khi sống trên hòn đảo hoang đấy để chờ chồng đến đón. Nhờ nghe thấy tiếng gáy của gà trống mà Sọ Dừa tìm được vợ. Hai vợ chồng lại trở về với nhau sống hạnh phúc còn hai cô chị thì đi biệt xứ.

 

Cô út trong truyện “ Sọ Dừa” là nhân vật quan trọng để Sọ Dừa bộc lộ tài năng cũng như vẻ đẹp của mình. Cô út xứng đáng nhận được kết cục có hậu, trở thành bà trạng. Đồng thời, ta vẫn thấy cô út hiện lên vẫn sáng ngời những phẩm chất tốt đẹp, hiền lành, nhân hậu.

 

CÂU HỎI HOT CÙNG CHỦ ĐỀ

Lời giải

Mẫu 1

Nhắc đến những câu chuyện cổ tích của nước ta, không thể bỏ qua truyện “Cây khế”. Đây được xem là một trong những tác phẩm truyện cổ tích đặc sắc nhất trong kho tàng truyện dân gian của nước ta.

Truyện kể về hai anh em nhà nọ mồ côi cha mẹ từ nhỏ, sống nương tựa vào nhau. Cha mẹ mất để lại cho hai anh em một cây khế và một chút ruộng vườn, của cải, tuy không khá giả nhưng hai anh em vẫn có cuộc sống no đủ. Từ khi người anh trai lấy vợ bỗng sinh ra lười nhác, mọi việc đều đổ hết lên đầu vợ chồng người em. Thậm chí sợ em tranh công nên anh trai đã chia gia tài, chiếm hết của nải, đẩy vợ chồng em ra túp lều nát với cây khế của cha mẹ để lại. Vợ chồng người em chăm chỉ làm lụng, chăm bẵm cho cây khế ra quả, chim quý đến ăn và đã trả công vợ chồng em trai bằng vàng bạc. Tiếng đồn đến tai người anh, người anh tham lam nên gạ đổi gia tài lấy cây khế. Chim quý cũng đến ăn và hứa trả ơn bằng vàng, nhưng vì tính tham lam vô độ của người anh nên đã bị chim quý hất xuống biển sâu. Cốt truyện tuy rất đơn giản, ngắn gọn nhưng chất chứa trong đó những bài học về cuộc sống vô cùng sâu sắc và thấm thía.

Truyện “Cây khế” phản ánh cuộc xung đột giữa hai tuyến nhân vật trong một gia đình, một bên là vợ chồng người em trai hiền lành, chăm chỉ, chịu khó; một bên là vợ chồng người anh trai tham lam, ích kỉ, chỉ nghĩ đến đồng tiền. Thông qua khai thác xung đột trong gia đình này, tác giả dân gian đã phản ánh chủ đề của chuyện đó là phê phán sự tham lam, ích kỉ của con người, ca ngợi những con người chịu khó, chăm chỉ, biết sống lương thiện, biết thế nào là đủ. Câu chuyện còn là lời cảnh tỉnh cho những ai đã và đang xem nhẹ tình anh em trong gia đình, cắt đứt tình máu mủ ruột rà chỉ vì những cái lợi trước mắt. Chủ đề truyện này không mới nhưng nó vẫn có giá trị không riêng với thế giới cổ tích mà còn cả xã hội hiện thực bây giờ.

Góp phần tạo nên thành công cho câu chuyện, ngoài giá trị của chủ đề và bài học sâu sắc trong truyện Cây khế thì không thể quên sự đóng góp của các hình thức nghệ thuật. Chính những hình thức nghệ thuật đặc sắc ấy đã giúp cho chủ đề và bài học trong truyện trở nên sâu sắc, thấm thía hơn và hấp dẫn độc giả hơn.

Yếu tố nghệ thuật đầu tiên cần kể đến đó là nghệ thuật tạo tình huống. Tình huống truyện chia gia tài, vốn rất quen thuộc trong truyện kể dân gian. Nhờ tình huống này bản chất xấu xa tham lam của vợ chồng người anh trai được bộc lộ. Tình huống thứ hai, góp phần giúp mạch truyện tiến triển là tình huống chim quý xuất hiện và ăn khế của vợ chồng em trai. Nhờ chim quý vợ chồng em trai được đền đáp xứng đáng cho tấm lòng, sự lương thiện của mình. Cũng nhờ chim quý mà vợ chồng người anh trai đã bị trừng trị thích đáng cho bản tính tham lam, mờ mắt vì tiền của mình. Nhân vật chim quý đóng vai trò là nhân vật chức năng, thế lực siêu nhiên, thay nhân dân thực hiện mong ước của họ. Đây cũng là kiểu nhân vật khá quen thuộc trong truyện cổ tích Việt Nam.

Xây dựng nhân vật giàu tính biểu trưng cũng là một nét nổi bật cho truyện cổ tích Việt Nam. Trong đó người anh trai là tuyến nhân vật đại diện cho kiểu người tham lam, chỉ nghĩ đến đồng tiền; nhân vật em trai là đại diện cho tuyến nhân vật bất hạnh, mồ côi, chịu nhiều thiệt thòi, cam chịu. Hai tuyến nhân vật chính - tà khá quen thuộc trong truyện cổ tích, là đại diện cho các kiểu người trong xã hội phân chia giai cấp thời bấy giờ.

Nét đặc sắc cuối cùng em muốn nói đến trong bài viết là cách khắc họa tính cách nhân vật thông qua ngôn ngữ, hành động của nhân vật. Nhân vật trong truyện cổ tích vốn chưa có những tâm lý hay nét tính cách độc đáo, riêng biệt như trong văn xuôi của các tác giả văn học. Nhưng thông qua lời thoại, ngôn ngữ, hành động chúng ta cũng thấy được phần nào những nét tính cách đặc trưng của nhân vật. Chẳng hạn qua thái độ “rối rít, mừng quýnh, vái lấy vái để “ khi gặp chim thần của vợ chồng anh trai cũng đủ thấy vợ chồng anh ta là người tham lam, ích kỉ, tôn sùng vật chất, luôn trông chờ vào vận may; hành động “nhét đầy vàng vào tay áo, ống quần, lết mãi mới ra khỏi hang” đủ thấy anh trai tham lam đến mờ lý trí… còn vợ chồng người em trai thấy con chim thần chỉ biết than “ ông chim ơi, ông ăn hết khế nhà cháu…” rồi hành động “chỉ nhặt vừa đủ vàng bạc nhét vào túi rồi ra về” cũng đủ thấy người em trai vốn bản tính lương thiện, hiền lành. Nhân vật chỉ được khắc họa qua hành động, ngôn ngữ nhưng những nét tính cách nổi bật vẫn hiện lên tương đối đậm nét.

Những phân tích ở trên đây cho thấy Cây khế là một truyện cổ tích tiêu biểu trong kho tàng truyện cổ Việt Nam. Về chủ đề, truyện chính là lời cảnh tỉnh, phê phán đến những người có lối sống ham vật chất, coi thường tình cảm máu mủ. Về hình thức nghệ thuật, tác giả đã kết hợp hài hòa các yếu tố về tình huống truyện, ngôn ngữ, hành động để nhân vật bộc lộ rõ cá tính của mình, thông qua đó chủ đề truyện cũng được tô đậm.

Câu chuyện là một bài học đắt giá cảnh tỉnh những người tham lam, không coi trọng tình cảm gia đình, sớm hay muộn cũng sẽ nhận phải một kết cục không may mắn.

Mẫu 2

“Thần Trụ Trời” là một tác phẩm dân gian truyền miệng của người Việt cổ được sản sinh từ thời tối cổ và còn tồn tại đến ngày nay, được nhà khảo cứu văn hóa dân gian Nguyễn Đổng Chi sưu tầm, kể lại bằng bản văn trong “Lược khảo về thần thoại Việt Nam”. Qua truyện thần thoại này, người Việt cổ muốn giải thích nguồn gốc các hiện tượng thiên nhiên như vì sao có trời, có đất và vì sao trời với đất lại được phân đôi, vì sao mặt đất lại không bằng phẳng có chỗ lõm có chỗ lồi, vì sao có sông, núi, biển, đảo.

Cho thấy người Việt cổ cũng như nhiều dân tộc khác trên thế giới này đã cố gắng tìm để hiểu rõ những gì có xung quanh họ. Vì cũng chưa tìm hiểu được nhưng họ lại không chịu bó tay, họ bèn sáng tạo ra một vị thần khổng lồ để giải thích tự nhiên vũ trụ một cách hết sức ngây thơ và đáng yêu. Độc giả ngày nay cảm nhận được trong đó cái hồn nhiên và ước mơ của những người Việt cổ muốn vươn lên để giải thích thế giới tự nhiên quanh mình.Mọi chi tiết kể và tả Thần Trụ Trời đều gợi những vòng hào quang, điểm tô tính chất kỳ lạ, phi thường của nhân vật, thần thoại. Truyện đã nhân cách hóa vũ trụ thành một vị thần.

Hành động đầu tiên khi Thần Trụ Trời xuất hiện là “vươn vai đứng dậy, ngẩng cao đầu đội trời lên, giang chân đạp đất xuống,…” cũng là hành động và việc làm có tính phổ biến của nhiều vị thần tạo thiên lập địa khác trên thế giới. như ông Bàn Cổ trong thần thoại Trung Quốc cũng đã làm giống hệt như vậy. Tuy nhiên vẫn có điểm khác biệt chính là sau khi đã xuất hiện trong cõi hỗn độn giống như quả trứng của vũ trụ, ông đạp cho quả trứng tách đôi, nửa trên là trời, nửa dưới là đất và ông tiếp tục đẩy trời lên cao, đạp đất xuống thấp bằng sự biến hóa, lớn lên không ngừng của bản thân ông chứ không phải như Thần Trụ Trời đã xây cột chống trời.

Như vậy cho thấy việc khai thiên lập địa của ông Thần Trụ Trời ở Việt Nam và ông Bàn Cổ ở Trung Quốc vừa có điểm giống nhau vừa có điểm khác nhau. Và đó cũng chính là nét chung và nét riêng có ở trong thần thoại của các dân tộc. Từ cái ban đầu vốn ít ỏi, người Việt cổ cũng như các dân tộc khác trên thế giới không ngừng bổ sung, sáng tạo làm cho nền văn học, nghệ thuật ngày một đa dạng hơn. Chúng ta cũng có thể đánh giá về kho tàng thần thoại Việt Nam đối với nền nghệ thuật Việt Nam như thế nào. Cũng nhờ nghệ thuật phóng đại mà các nhân vật thần thoại có được sức sống lâu bền, vượt qua mọi thời gian để còn lại với chúng ta ngày nay. Thần thoại đã tạo nên cho con người Việt Nam nếp cảm, nếp nghĩ, nếp tư duy đầy hình tượng phóng đại và khoáng đạt.

Truyện thần thoại “Thần Trụ Trời” vừa cho các bạn đọc biết được sự hình thành của trời đất, sông, núi, đá,…vừa cho thấy sự sáng tạo của người Việt cổ. Tuy truyện có nhiều yếu tố hoang đường, phóng đại nhưng cũng có cái lõi của sự thật là con người thời cổ đã khai khẩn, xây dựng, tạo lập đất nước.

Mẫu 3

"Thần Trụ Trời” là một tác phẩm dân gian truyền miệng của người Việt cổ được sản sinh từ thời tối cổ và còn tồn tại đến ngày nay, được nhà khảo cứu văn hóa dân gian Nguyễn Đổng Chi sưu tầm, kể lại bằng bản văn trong “Lược khảo về thần thoại Việt Nam”. Qua truyện thần thoại này, người Việt cổ muốn giải thích nguồn gốc các hiện tượng thiên nhiên như vì sao có trời, có đất và vì sao trời với đất lại được phân đôi, vì sao mặt đất lại không bằng phẳng có chỗ lõm có chỗ lồi, vì sao có sông, núi, biển, đảo.

Cho thấy người Việt cổ cũng như nhiều dân tộc khác trên thế giới này đã cố gắng tìm để hiểu rõ những gì có xung quanh họ. Vì cũng chưa tìm hiểu được nhưng họ lại không chịu bó tay, họ bèn sáng tạo ra một vị thần khổng lồ để giải thích tự nhiên vũ trụ một cách hết sức ngây thơ và đáng yêu. Độc giả ngày nay cảm nhận được trong đó cái hồn nhiên và ước mơ của những người Việt cổ muốn vươn lên để giải thích thế giới tự nhiên quanh mình.Mọi chi tiết kể và tả Thần Trụ Trời đều gợi những vòng hào quang, điểm tô tính chất kỳ lạ, phi thường của nhân vật, thần thoại. Truyện đã nhân cách hóa vũ trụ thành một vị thần.

Hành động đầu tiên khi Thần Trụ Trời xuất hiện là “vươn vai đứng dậy, ngẩng cao đầu đội trời lên, giang chân đạp đất xuống,…” cũng là hành động và việc làm có tính phổ biến của nhiều vị thần tạo thiên lập địa khác trên thế giới. như ông Bàn Cổ trong thần thoại Trung Quốc cũng đã làm giống hệt như vậy. Tuy nhiên vẫn có điểm khác biệt chính là sau khi đã xuất hiện trong cõi hỗn độn giống như quả trứng của vũ trụ, ông đạp cho quả trứng tách đôi, nửa trên là trời, nửa dưới là đất và ông tiếp tục đẩy trời lên cao, đạp đất xuống thấp bằng sự biến hóa, lớn lên không ngừng của bản thân ông chứ không phải như Thần Trụ Trời đã xây cột chống trời.

Như vậy cho thấy việc khai thiên lập địa của ông Thần Trụ Trời ở Việt Nam và ông Bàn Cổ ở Trung Quốc vừa có điểm giống nhau vừa có điểm khác nhau. Và đó cũng chính là nét chung và nét riêng có ở trong thần thoại của các dân tộc. Từ cái ban đầu vốn ít ỏi, người Việt cổ cũng như các dân tộc khác trên thế giới không ngừng bổ sung, sáng tạo làm cho nền văn học, nghệ thuật ngày một đa dạng hơn. Chúng ta cũng có thể đánh giá về kho tàng thần thoại Việt Nam đối với nền nghệ thuật Việt Nam như thế nào. Cũng nhờ nghệ thuật phóng đại mà các nhân vật thần thoại có được sức sống lâu bền, vượt qua mọi thời gian để còn lại với chúng ta ngày nay. Thần thoại đã tạo nên cho con người Việt Nam nếp cảm, nếp nghĩ, nếp tư duy đầy hình tượng phóng đại và khoáng đạt.

Truyện thần thoại “Thần Trụ Trời” vừa cho các bạn đọc biết được sự hình thành của trời đất, sông, núi, đá,…vừa cho thấy sự sáng tạo của người Việt cổ. Tuy truyện có nhiều yếu tố hoang đường, phóng đại nhưng cũng có cái lõi của sự thật là con người thời cổ đã khai khẩn, xây dựng, tạo lập đất nước.

Mẫu 4

Có lẽ, những bí ẩn về thiên nhiên vẫn là một câu hỏi lớn đối với con người thời cổ. Chính vì vậy, họ đã sáng tạo nên các câu chuyện để trả lời cho những thắc mắc của bản thân. Đọc truyện "Thần Trụ trời", ta thấy được cách phân chia bầu trời và mặt đất. Đọc "Prô-mê-tê và loài người", ta được giải đáp về cách các vị thần tạo ra muôn vật và loài người. Không giống hai tác phẩm trên, truyện "Đi san mặt đất" lại là những lí giải đơn giản về quá trình loài người chung lòng, góp sức san phẳng mặt đất để làm ăn mà không có sự xuất hiện của các vị thần. Truyện gây ấn tượng bởi những đặc sắc trong chủ đề và hình thức nghệ thuật.

Truyện "Đi san mặt đất" có chủ đề viết về quá trình khai hoang và cải tạo tự nhiên của người Lô lô xưa, quá trình này cần có sự giúp sức của tất cả mọi người lúc bấy giờ. Người Lô Lô xưa đã có những nhận thức khá nguyên sơ, đơn giả về thế giới vũ trụ, đồng thời họ cũng có ý thức trong việc cải tạo thế giới sống quanh mình Khi Trái Đất vẫn còn hoang sơ thì người xưa đã cùng nhau đi trình khai hoang và cải tạo tự nhiên. Đó là thời gian không thể xác định, mà người cổ xưa chỉ biết là:

"Ngày xưa, từ rất xưa...
Người già không nhớ nổi
Mấy năm mấy nghìn đời
Ngày xưa từ rất xưa...
Người trẻ không biết tới
Mấy nghìn, mấy vạn năm"

Mốc thời gian không cụ thể khiến chúng ta không thể biết chính xác đó là thời điểm nào. Khoảng thời gian ấy xưa đến mức người già cũng không thể nhớ nổi, người trẻ thì lại chẳng thể biết tới. Và cuộc sống con người lúc bấy lại thật đơn giản. Trước khi đi san mặt đất, con người vẫn sống chung, ở chung và ăn chung với nhau. Người Lô Lô xưa đã biết tận dụng điều kiện tự nhiên để trồng bắp, lấy nước uống từ "bụng đá" "Trồng bắp trên núi cao/ Uống nước từ bụng đá". Tuy nhiên, sống trong không gian hoang sơ, thiếu thốn khi "Bầu trời nhìn chưa phẳng/ Mặt đất còn nhấp nhô" nên con người thời cổ đã khẩn trương cùng nhau đi tái tạo thế giới.

Để có thể san phẳng mặt đất, san phẳng bầu trời thì người Lô Lô đã biết tận dụng sức mạnh của các loài vật xung quanh lúc bấy giờ:

"Kiếm con trâu sừng cong
Chọn con trâu sừng dài"

Họ kiếm những con trâu sừng phải cong, phải dài vì đây là những con trâu khỏe, trâu tốt. Chúng đi cày bừa san đất mà không quản gì mệt nhọc. Có sức giúp đỡ của chúng thì công cuộc cải tạo mặt đất của người Lô Lô xưa chẳng mấy chốc mà thành. Thế nhưng công việc san phẳng mặt đất, san phẳng bầu trời là công việc chung của muôn loài nên con người đã đi chuột chũi cóc, ếch. Đáp lại lời kêu gọi của người Lô Lô xưa, các con vật đều tìm cớ trốn tránh, thoái thác. Không thể trông cậy vào chúng, con người đã tập hợp sức mạnh của nhau để cải tạo thiên nhiên "Giống nào cũng không đi/ Người gọi nhau làm lấy". Truyện "Đi san mặt đất" của người Lô Lô không chỉ đơn thuần là lời lí giải về sự bằng phẳng của mặt đất và bầu trời mà còn phản ánh nhận thức của người Lô Lô xưa về quá trình tạo lập thế giới. Theo cách lí giải của họ, để có được mặt đất, bầu trời bằng phẳng như ngày nay thì người Lô Lô xưa đã phải đi san mặt đất. Con người đã tự biết tập hợp sức mạnh của cộng đồng để chung tay thực hiện công việc. Và qua đây, ta thấy được con người trong buổi sơ khai đã có ý thức trong việc cải tạo thiên nhiên để phục vụ cho cuộc sống của chính mình.

Không chỉ độc đáo ở chủ đề, truyện "Đi san mặt đất" còn có những đặc sắc ở khía cạnh nghệ thuật. Người Lô Lô xưa đã sáng tạo truyện thần thoại bằng hình thức thơ ca với giọng điệu vui tươi, nhí nhảnh tạo cảm giác thích thú cho người đọc.

Bên canh đó, truyện còn sử dụng biện pháp nhân hóa cùng với ngôn ngữ giản dị, giàu hình ảnh. Các con vật được nhân hóa có những cử chỉ giống con người đã giúp cho chuyện trở nên sinh động hơn. Người Lô Lô xưa đã sử dụng ngôn ngữ gần gũi, giản dị giúp cho bạn đọc ở mọi lứa tuổi dễ dàng tiếp nhận truyện.

"Đi san mặt đất" là một trong những truyện thần thoại đặc sắc của người Lô Lô. Truyện đã thể hiện những lí giải nguyên sơ của người xưa về vũ trụ, về thế giới qua thể thơ năm chữ kết hợp sử dụng các biện pháp nghệ thuật. Qua câu chuyện, ta càng thêm ấn tượng với trí tưởng tượng của người xưa trong việc sáng tạo những giá trị văn hóa dân gian.

Mẫu 5

Truyền thuyết Sơn Tinh, Thủy Tinh lầ một trong những truyền thuyết lâu đời nhất trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam và đã gắn liền với tuổi thơ của biết bao người. Câu chuyện thể hiện niềm khao khát chế ngự thiên nhiên của nhân dân ta, trước nỗi lo thiên tai bão lụt vẫn thường hoành hành hằng năm qua.

Đàu tiên, truyền thuyết này như muốn nói về hiện tượng thiên tai, bão lũ hàng năm cũng như lòng quyết tâm chống lại thiên tai của nhân dân ta. Sơn Tinh Thuỷ Tinh kể về đời vua Hùng thứ 18. Kể rằng vua Hùng có một người con gái vô cùng xinh đẹp, lại nết na, hiền dịu có tên là Mị Nương. . Nay nàng đến tuổi thành thân, nên vua cha muốn kén cho nàng một người chồng xứng đáng. Trong số đó có hai chàng trai kiệt xuất là Sơn Tinh và Thủy Tinh. Một người là ''chúa vùng non cao''. Một người là ''vua vùng nước thẳm''. Vì đưa được sính lễ tới trước là ''voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao'' nên Sơn tinh đã cưới được Mị Nương về làm vợ. Tức tối, ghen ghét vì thua cuộc , Thủy Tinh đã hô mưa gọi gió, tạo ra lũ lụt để đánh bại Sơn Tinh.Thủy Tinh dâng nước thì Sơn Tinh dời núi non. Thủy Tinh đại diện cho thiên nhiên giông bão, lũ lụt; còn Sơn Tinh là nhân vật biểu trưng cho nhân dân ta với tinh thần kiên cường bất khuất, sự mưu trí và anh dũng không chịu đầu hàng trước thiên tai, số phận.

Tiếp đó, tác giả dân gian đã lựa chọn được hình ảnh, nghệ thuật đặc sắc để diễn tả được hình ảnh thiên tai bão lũ và tinh thần đoàn kết của nhân dân ta trước thiên tai. Đây là câu chuyện được viết theo kiểu thần thoại Việt Nam nên có thể thấy được truyện chưa nhiều yếu tố kỳ ảo để nói về những hiện tượng thiên nhiên. Từ tình huống vua Hùng kén rể , ta có thể tháy đươc là núi non, nhân dân luôn được đặt lên hàng đầu . Vua Hùng đặt ra sính lễ là''voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao''. Những lễ vật này có thể thấy được là dễ dàng tìm ở vùng núi rừng chứ không phải biển cả. Sơn tinh đã có một lợi thế rõ ràng trước Thủy TInh. Sau đó, một loạt những chi tiết kỳ ảo như ''Thủy tinh hô mưa, gọi gió.'', ''Nước dâng lên cao bao nhiêu, Sơn Tinh lại làm cho đồi, núi mọc cao lên bấy nhiêu.'' như vẽ nên bức tranh thiên tai ngày xưa. Lũ lụt càng lên cao, dân ta càng gắng sức chiến đấu, chống lại thiên tai. Cùng với đó là hình ảnh người dân Văn Lang cùng Sơn Tinh chống lại cuộc tấn công của Thủy tinh càng tô đậm vẻ kiên cường của nhân dân Việt Nam trước bão lũ.

Câu chuyện Sơn Tinh Thủy Tinh được khắc họa qua các chi tiết kỳ ảo, sinh động về hai vị thần rất thành công trong việc đưa người đọc đến với hình ảnh của người dân thời xưa đối mặt với sự tức giận từ thiên nhiên như thế nào. Truyện gắn mãi với bao thế hệ, luôn nhắc nhở chúng ta về tình đoàn kết của nhân dân trước mọi khó khăn, thử thách.

Mẫu 6

Nhắc đến những câu chuyện ngụ ngôn nước ngoài, ta không thể bỏ qua truyện Con cáo và chùm nho của nhà văn nổi tiếng Hy Lạp Aesop (Aisōpos, khoảng năm 620-564 trước CN). Đây được xem là một trong những tác phẩm truyện ngụ ngôn nước ngoài hay và đặc sắc về chủ đề cùng những hình thức nghệ thuật xuất sắc.

Truyện kể về con cáo vào một hôm xuống triền núi và thấy phía trước là một vườn nho căng tròn mọng nước khiến anh ta thèm thuồng tới mức nước bọt cứ trào ra. Vì thế, cáo đã tìm mọi cách để có thể chén được no nê những chùm nho đó. Nhưng thật không may mắn, từ cây cao đến cây thấp, cáo vẫn không thể nhảy đến chùm nho. Thậm chí, chùm thấp nhất khiến Cáo tự đắc rằng không gì có thể làm khó được nó cũng thất bại. Sau một hồi cố gắng, Cáo đành thở dài và cho rằng những chùm nho vỏ xanh kia chắc là chưa chín, vừa chua vừa chát, không ăn được. Cốt truyện tuy rất đơn giản, ngắn gọn nhưng chất chứa trong đó những bài học về cuộc sống vô cùng sâu sắc và thấm thía.

Đọc Con cáo và chùm nho của nhà văn Hy Lạp Aesop, ta có thể dễ dàng nhìn ra rằng giá trị của truyện trước hết thể hiện qua chủ đề và bài học cuộc sống mà nó gửi gắm. Hình ảnh con cáo đã được tác giả hình tượng hóa để đề cập đến vấn đề về sự biện hộ và tự cao của cá nhân. Điều mà câu chuyện muốn cảnh tỉnh là đừng quá đề cao bản thân, mình phải tự biết khả năng của mình đang nằm ở vị trí hay con số nào; khi sai lầm hoặc thất bại, hãy tự biết nhận lỗi, rút ra bài học cho bản thân và đừng bao giờ đổ lỗi cho hoàn cảnh. Bản chất là một truyện ngụ ngôn, Con cáo và chùm nho đã mượn câu chuyện về con vật để ám chỉ về lối sống của con người. Chủ đề của truyện mang tính chất khái quát bởi không chỉ đúng trong đất nước hay con người Hy Lạp – nơi nó được sinh ra, mà đó là lời nhắn nhủ, cảnh tỉnh dành cho tất cả mọi người. Chúng ta đừng như con cáo kia, đừng cho mình là nhất bởi ngoài kia còn rất nhiều người giỏi hơn và khi thất bại cũng đừng đổ lỗi cho bất kì ai, bất kì điều gì; hãy phát huy điểm mạnh bạn đang có, khắc phục điểm yếu, từ thất bại rút ra những bài học kinh nghiệm để vươn tới thành công.

Góp phần tạo nên thành công cho câu chuyện, ngoài giá trị của chủ đề và bài học sâu sắc trong Con cáo và chùm nho thì không thể quên sự đóng góp của các hình thức nghệ thuật. Chính những hình thức nghệ thuật đặc sắc ấy đã giúp cho chủ đề và bài học trong truyện trở nên sâu sắc, thấm thía hơn và hấp dẫn độc giả hơn.

Yếu tố nghệ thuật đầu tiên cần kể đến đó là nghệ thuật tạo tình huống. Thông thường, khi muốn thể hiện lối ứng xử, tính cách của nhân vật, tác giả truyện ngụ ngôn sẽ đặt nhân vật của mình vào những tình huống nhất định. Con cáo và chùm nho cũng không ngoại lệ, Aesop đã xây dựng tình huống về cuộc gặp gỡ giữa con cáo với những chùm nho căng mọng nước trong vườn và cách xử lí của nó để có được một bữa ăn no nê. Tình huống tuy khá đơn giản nhưng qua đó người đọc thấy được cách ứng xử của con cáo khi gặp khó khăn và chủ đề mà người kể chuyện muốn nói đến ở đầu truyện càng được làm sáng rõ.

Xây dựng nhân vật giàu tính biểu trưng là một thủ pháp nghệ thuật khá quan trọng trong thể loại truyện ngụ ngôn. Cáo là biểu trưng cho những người luôn cho mình là nhất, mình luôn đúng trong mọi chuyện, nếu sai thì cũng chỉ do hoàn cảnh tác động, không dám chấp nhận sự thật về sự thất bại của bản thân. Chùm nho tượng trưng cho những yếu tố ngoại cảnh. Trong truyện, con cáo không với tới chùm nho nên đã tự nhủ nho còn xanh, chua và chát để biện hộ cho việc không hái được nho của mình, tức là do tác động của ngoại cảnh chứ không phải mình vô dụng.

Nét đặc sắc cuối cùng em muốn nói đến trong bài viết là cách khắc họa tính cách nhân vật thông qua lời thoại. Trong Con cáo và chùm nho, tác giả đã để nhân vật tự độc thoại với chính mình và tính cách sẽ được bộc lộ qua từng câu chữ, lời nói đó. Khi thấy những chùm nho khác thấp hơn, Cáo đã tự đắc không có gì làm khó được mình nhưng kết quả vẫn là sự thất bại. Sau nhiều lần cố gắng, Cáo đã buông xuôi và nói: “Làm sao mình lại cứ phải ăn mấy chùm nho như này nhỉ? Vỏ thì xanh thế, chắc chắn là chưa chín rồi. Không biết chừng còn vừa chua vừa chát, không nuốt được”. Từ đó ta thấy được Cáo là  một người luôn tự đắc và chỉ biết đổ lỗi cho hoàn cảnh. Chính những lời độc thoại đó càng làm nổi bật nhân cách, điểm mạnh, điểm yếu của nhân vật.

Những phân tích ở trên đây cho thấy Con cáo và chùm nho là một truyện ngụ ngôn tiêu biểu trong kho tàng các sáng tác truyện của Aesop. Về chủ đề, truyện chính là lời cảnh tỉnh, phê phán đến những người có lối sống thắng lợi tinh thần. Về hình thức nghệ thuật, tác giả đã kết hợp hài hòa các yếu tố về tình huống truyện, ngôn ngữ, lời thoại để nhân vật bộc lộ rõ nhất tính cách của mình để qua đó các bài học nhân sinh được lột tả.

Đọc câu chuyện này, dường như em cảm thấy có đôi lúc em cũng giống như con cáo kia và bây giờ mình cần phải thay đổi để xóa bỏ tính cách không tốt đó.

Mẫu 7

Truyền thuyết dân gian vốn là món ăn tinh thần vô cùng phong phú của dân tộc ta, được lưu truyền từ đời này qua đời khác. Thuở ấu thơ ta lớn lên nhờ những câu chuyện kể của bà, của mẹ, lúc trưởng thành ta lại ru con ngủ bằng chính những câu chuyện hấp dẫn ấy. Có rất nhiều câu chuyện đã trở nên quen thuộc trong lòng mỗi người ví như Tấm Cám, Sọ Dừa, Sơn Tinh Thủy Tinh hay Thánh Gióng,... Tựu chung lại những truyền thuyết, những câu chuyện cổ ấy đều phản ánh chân thực khát khao của nhân dân ta về một cuộc sống tốt đẹp, lương thiện, về việc chế ngự thiên nhiên, chống giặc ngoại xâm với một niềm tin tích cực. Sự tích Hồ Gươm cũng chính là một truyền thuyết như vậy. Bối cảnh của truyền thuyết diễn ra trong lúc giặc Minh đô hộ nước ta, tuy đã có nghĩa quân Lam Sơn dựng cờ khởi nghĩa chống giặc, nhưng buổi đầu thế lự còn non yếu, nên vẫn thường thua trận. Long Quân thấy nghĩa quân anh dũng, xả thân vì nước nên quyết định cho mượn gươm thần. Tuy nhiên, việc cho mượn gươm Long Quân cũng thiết kế một cách rất tinh tế, như là một thử thách cho Lê Lợi, bởi cái gì dễ có được người ta thường không trân trọng. Hơn thế nữa việc cho mượn gươm có phần thử thách ấy còn giúp Lê Lợi thu nạp được thêm một vị tướng tài là Lê Thận.

Lê Thận ban đầu vốn làm nghề đánh cá, có lẽ Long Quân đã thấy được khí chất anh hùng và tiềm năng của chàng trai miền biển này nên đã cố tình gửi gắm lưỡi gươm cho Lê Thận. Sau ba lần thả lưới ở ba khúc sông khác nhau mà vẫn vớt được cùng một lưỡi gươm kỳ lạ, đen thui, giống một thanh sắt không hơn không kém, Lê Thận đã quyết định đem về dựng ở xó nhà, vì linh cảm của một người thông minh thì gươm này ắt có điều bí ẩn, sau này có thể dùng được. Theo dòng chảy định mệnh, Lê Thận tham gia nghĩa quân Lam Sơn, trở thành phụ tá đắc lực, lập nhiều công lớn, chiến đấu anh dũng, thế nên có lần Lê Lợi đã ghé nhà Lê Thận chơi. Dương như đã nhận ra chủ tướng Lê Lợi, nên lưỡi gươm đen sì, vốn vẫn gác xó nhà lại sáng rực lên bất thường. Lê Lợi cầm lên xem thì thấy hai chữ "Thuận Thiên", như báo trước cuộc khởi nghĩa do Lê Lợi lãnh đạo là hợp ý trời, được trời cao ủng hộ. Tuy nhiên đến đây những con người trần mắt thịt vẫn chưa thể nào liên hệ đến sự thần kỳ của lưỡi gươm kỳ lạ ấy.

Chỉ đến một lần, nghĩa quân thất thế, Lê Lợi phải chạy một mình vào rừng tránh sự truy lùng của giặc, lúc này đây vô tình phát hiện ra ánh sáng kỳ lạ ở một ngọn cây trong rừng, Lê Lợi tò mò trèo lên xem thì phát hiện một chuôi gươm nạm ngọc cực đẹp. Là người nhanh nhạy Lê Lợi lập tức liên tưởng đến lưỡi gươm ở nhà Lê Thận, ông liền đem chuôi gươm ấy về. Qủa đúng như vậy, khi lắp lưỡi gươm vào chuôi gươm thì vừa in, sau nhiều lần thử thách cuối cùng chuôi và lưỡi gươm cũng tìm được nhau, ý trời đã phó thác cho Lê Lợi làm việc lớn. Ngoài ra sự tương hợp của chuôi và lưỡi gươm còn thể hiện một lời nhắc nhở rất hay của Long Quân, rằng muốn làm việc lớn trước hết cần sự đoàn kết, nếu chỉ có chuôi gươm đẹp đẽ thì cũng chẳng thể chém đầu tên địch nào, còn nếu chỉ có lưỡi gươm thì cũng chẳng thể dùng bởi thiếu mất chuôi. Hình ảnh chuôi gươm cũng đại diện cho vị chủ tướng là Lê Lợi người lãnh đạo nghĩa quân, lúc nào cũng phải sáng suốt và mạnh mẽ. Hình ảnh lưỡi gươm là đại diện cho quân đội của ta, tiêu biểu là những vị tướng dưới trướng như Lê Thận, người sẽ giúp Lê Lợi chém đầu từng tên giặc cướp nước. Như vậy sự vừa vặn của chuôi và lưỡi gươm chính là biểu hiện của sự phối hợp ăn ý giữa chủ tướng Lê Lợi và nghĩa quân dưới trướng, đó là sức mạnh tổng hòa làm nên chiến thắng của nhân dân ta.

Từ khi có sự trợ giúp của thanh gươm thần, nghĩa quân ta liên tục thắng trận, quân giặc bị đánh đuổi không còn một mảnh giáp, phải đầu hàng và rút quân về nước trong sự nhục nhã. Có được chiến thắng ấy, một phần là nhờ sự thần kỳ của gươm thần mà Long Quân cho mượn, đồng thời gươm ấy đã mang lại niềm tin và nhuệ khí cho nghĩa quân ta, giúp sức mạnh nghĩa quân tăng gấp bội.

Chuyện sau khi Lê lợi đã lên làm vua, trong một lần du thuyền trên hồ Tả Vọng (hồ Gươm bây giờ), thì có rùa Thần lên đòi gươm về cho Long Quân có nhiều ý nghĩa. Đầu tiên là lý lẽ có mượn có trả, Lê Lợi đã chiến thắng quân Minh, đất nước ta đã yên bình, thanh gươm cũng không còn phận sự gì nữa thì nên được trả về cho chủ cũ. Thứ hai là Long Quân muốn gửi gắm một điều rằng, sự trợ giúp của thần linh âu cũng chỉ là một phần nhỏ, còn nếu muốn vận nước hưng thịnh lâu dài thì phải dựa vào tài trị quốc của Lê Lợi, đừng nên ỷ vào việc có gươm thần mà lơ là cảnh giác, bài học của An Dương Vương vẫn còn sáng mãi cho đến tận bây giờ. Dù bất kỳ lý do nào, Long Quân đòi lại gươm cũng thật xác đáng. Câu chuyện trả Gươm cũng giải thích lý do hồ Tả Vọng còn có tên là hồ Gươm hay hồ Hoàn Kiếm.

Sự tích Hồ Gươm không chỉ đặc sắc về nội dung mà còn rất phong phú về nghệ thuật Trong truyền thuyết này có hai câu chuyện vừa lồng ghép vừa tách bạch với nhau: câu chuyện mượn gươm và câu chuyện trở gươm. Chúng có nội dung riêng nhưng đồng thời bổ sung nghĩa cho nhau. Không chỉ vậy văn bản là sự kết hợp giữa yếu tố thực và yếu tố tưởng tượng, kì ảo một cách hài hòa, hợp lí. Với sự kết hợp hài hòa các yếu tố kì ảo và sự bền bỉ với các yếu tố lịch sử, Sự tích Hồ Gươm không chỉ giải thích, nguồn gốc ra đời của tên gọi Hồ Gươm. Mà qua câu chuyện này còn nhám ca ngơi, tôn vinh tính chất chính nghĩa, tính chất nhân dân của khởi nghĩa Lam Sơn Tên họ Hoàn Kiếm đồng thời cũng dùng để đánh dấu chiến thắng của dân tộc, thể hiện ước mơ, khát vọng hòa bình của nhân dân.

Truyền thuyết Sự tích Hồ Gươm là một truyền thuyết có ý nghĩa sâu sắc, thể hiện lòng tin và khát vọng mạnh mẽ của nhân dân ta về sức mạnh chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược. Bởi cuộc chiến của nhân dân ta là cuộc chiến vì chính nghĩa, có sự trợ giúp của thần linh, là thuận theo ý trời, những kẻ hung tàn bạo ngược ắt phải thất bại. Sự tích ấy còn là lời lý giải lý thú về những cái tên khác của hồ Gươm.

Mẫu 8

Mời các em tham khảo mẫu phân tích Thần mưa được bài viết chia sẻ chi tiết dưới đây:

Trong nền văn hóa của dân tộc Việt Nam, từ bao đời nay, ông cha ta luôn lưu truyền những câu chuyện thần thoại kỳ ảo huyền bí để có thể giải thích cho sự hình thành quê hương đất tổ. giải thích được cho con cháu đời sau về sự hình thành của trời đất, của nước non hùng vĩ. Trong hệ thống thần thoại đó, ông cha ta đã giải thích về việc sáng lập vũ trụ. Và tác phẩm Thần Trụ Trời là mở đầu, tiếp theo là một loại các thần thoại khác như Thần Mưa, Thần Biển, Thần Mặt Trời, Mặt Trăng lần lượt ra đời. Tiếp chân của những thần thoại khai phá ra vũ trụ kia là các thần thoại về các vị thần sáng tạo ra muôn loài….

Qua tác phẩm Thần Trụ Trời, ta có thể biết được để tách biệt trời đất như ngày nay. Thần trụ trời đã phải đào đất, khiêng đá đắp thành cột để chóng trời, từ đó mới hình thành ra các vị thần khác cùng thần trụ trời cai quản. và một trong các vị thần cùng cai quản và nối tiếp cho khoảng vũ trụ được hình thành đó có sự sống thì phải kể đến vị Thần Mưa - vị thần tạo ra sự sinh thái cân bằng cho trời đất, là tiền đề duy trì sự sống cho muôn loài do các vị thần sáng tạo ra muôn loài tạo lên.

Đầu tác phẩm, tác giả đã giải thích vị Thần Mưa có hình rồng, thường bay lượn xuống hạ giới hút nước biển, nước sông vào bụng rồi bay lên trời để tạo ra mưa. Qua lời giải thích đó, ta có thể biết được vị thần có hình dáng là một con rồng, được Trời giao phó là hút nước dưới trần thế để tạo ra mưa cho loài người cày cấy, sinh hoạt. Cho cây cỏ sinh sôi và phát triển, muôn thú có nước để duy trì hệ sinh thái của mình. Đây là một công việc vô cùng quan trọng, ấy nhưng vị thần này lại có tính hay quên, có vùng đất cả năm không ghé mặt để phân phát nước khiến nhiều vùng bị hạn hán nghiêm trọng. Muôn thú, cỏ cây khó có thể duy trì sự sống. Điều đó được tác giả nói rõ “Thần Mưa có tính hay quên, có vùng cả năm không đến, sinh ra hạn hán ở hạ giới, có vùng lại đến luôn, làm thành lụt lội. Do đó mà có lần ở hạ giới phải lên kiện trời vì Thần Mưa vắng mặt lâu ngày”. Qua đó ta có thể thấy rõ vị Thần này đãng trí đến nỗi khiến Muôn loài ở các vùng đất hạn hán đó bất mãn đến mức nào, khiến họ phải kiện đến cả trời xanh. Điều này được thể hiện khá rõ tại tác phẩm “cóc kiện Trời”, bởi sự trễ nải này mà khiến cỏ cây héo úa, muôn thú khát khô cả cổ chỉ vì sự văng mặt lâu ngày của Thần Mưa.

Nhưng tiếp đó, tác phẩm cũng đã giải thích một phần lí do sự trễ nải này của thần Mưa “Công việc phân phối nước cho khắp mặt đất rất nặng nề, một mình thần Mưa có khi không làm hết”. Một phần vì tính hay quên của Thần, một phần vì trời đất bao la rộng lớn quá, công việc nặng nhọc này cũng chỉ có mỗi Thần đảm nhiệm nên nhất thời lo không xuể. Chính vì lo không hết khiến công việc quá tải, muôn loài oán than. Vì để giảm bớt gánh nặng cho Thần Mưa, cũng như xoa dịu được sự nóng giận của muôn loài dưới hạ dưới, nên Trời đã mở cuộc thi chọn loài giúp sức cho công việc của Thần Mưa qua việc mở cuộc thi chọn giống loài thủy tộc có tài năng để giúp Rồng hút nước tạo mưa. Cuộc thi được Nhà Trời chọn đại điểm là ở cửa Vũ (Vũ Môn) thuộc tỉnh Hà Tĩnh ngày nay để có thể lên Thần hóa rồng trợ giúp Nhà Trời và Thần Mưa tạo mưa cho muôn loài.

Mồng ba cá đi ăn thề,

Mồng bốn cá về cá vượt Vũ Môn

Qua hai câu thơ trên, cho thấy Nhà Trời rất coi trọng cuộc thi này, vì trước kia khi mới sáng lập ra trời và đất, công việc tạo mưa là do đích than Trời làm để cho muôn loài, cỏ cây phía dưới tồn tại sinh sống và làm ăn. Sau đó vì đất trời tạo ra bao la quá, công việc khó nhọc không thể đảm nhiệm được nữa nên mới sai rồng lấy nước để làm ra mưa. Nhưng trong chính tác phẩm cũng đã nêu rõ vì số lượng rồng trên trời quá ít không thể đảm nhiệm nổi công việc nên Trời đã ban lệnh Xuống cho Thủy Phủ để kén chọn loài có thể cùng rồng làm công việc điều hòa sự sống cho muôn loài.

Qua lời bộc bạch của tác giả qua từng câu chữ trong tác phẩm, ta có thể thấy được yếu tố kỳ ảo của tác phẩm, sự sinh động từng câu chữ khiến cho tác phẩm thật sinh động hiện ra trước mắt để có thể đi sâu vào tâm hồn người đọc.

Tác phẩm thể hiện rõ yếu tố truyền kỳ qua từng câu chữ qua việc vua Thủy Tể loan tin để cho muôn loài dưới Thủy cung ganh đua mà dự thi. Cuộc thi được phân chia làm ba kỳ, mỗi kỳ lại nâng một độ khó khác nhau mỗi kỳ vượt qua một đợt sóng, con vật nào đủ sức đủ tài, vượt được cả ba đợt, thì mới lấy đỗ mà cho hóa Rồng” có thể thấy tính chất của cuộc thi nghe thì dễ nhưng mà thực hiện thì khó qua việc phải vượt qua cả ba đợt song mới lấy làm đỗ để có thể hóa rồng. Cả một đoạn của tác phẩm đã thể hiện cản tượng tranh tài của bao loài Thủy sinh dưới nước thể hiện hết sức mình nhưng đều bị loại cả vì không thể vượt qua đợt sống. Từ “sống” được đặt ở cuối câu như vậy để thể hiện tính chất của cuộc thi thật khắc nghiệt, để có thể vượt qua cuộc sát hạnh này, với mong muốn được hóa rồng mà có thể nhiều loài đã từ bỏ mạng sống của mình. Có loài cá rô nhảy qua được một đợt nên chỉ được một điểm, điều này khiến cá rô nhà ta mất đi cơ hội hóa rồng đành phải về yên vị ở đồng như trước. Tiếp đến, có con tôm nhảy qua được hai đợt hóa được một nửa rồng rồi, điều đó được tác giả nêu rõ “Có con tôm nhẩy qua được hai đợt, ruột, gan, vây, vẩy, râu, đuôi đã gần hóa Rồng thì đến lượt thứ ba, đuối sức ngã bổ xuống lưng cong khoăm lại và chất thải lộn lên đầu.” Qua câu từ như vậy, ta cũng có thể hiểu được lí do tại sao tôm lại bơi giật lùi, thân cong và chất thải lại bị lộn lên đầu như vậy. Qua lời kể trên, ta đã học hiểu được nhiều điều qua lời kể đầy xúc tích, dễ hiểu đến như vậy qua việc diễn tả tôm, cá rô, cá chép vượt qua như thế nào. Điều đó ngầm ý muốn cho khung cảnh cuộc thi trở lên sinh động trước mắt người đọc.

Sau nhiều đợt tuyển chọn, tưởng chừng chẳng có con vật nào có thể qua được. Đến lượt cá chép vào thi thì thì vô cùng thuận lợi. Tác giả đã dung từ “ào ào” đề diễn tả sự thiên tàng địa lợi của cá chép, cá chép nhờ đó mà vượt cả ba phần sát hạch và vào được cửa Vũ Môn. Qua lời miêu tả của tác phẩm, cá chép đỗ, đuôi, râu, sừng tự nhiên đầy đủ như rồng. Một hình dáng oai nghi, cùng với Thần mưa đảm nhiệm công việc ban phát mưa xuống trần thế.

Việt Nam ta hình thành qua bao nhiêu đời nay luôn gắn liền với một kho tàng thần thoại khổng lồ gắn liền với sự hình thành của Đất Việt - sự trường tồn, phồn vinh và lưu truyền muôn đời để thế hệ mai sau có thể biết được sự thiêng liêng của Đất Nước, trong các tác phẩm đó thì Thần Mưa cũng là một trong những thần thoại to lớn luôn trường tồn với thời gian. Nó vẫn luôn tồn tại những giá trị tinh thần mà người xưa muốn gửi gắm lại cho đời sau những giá trị nhân văn của dân tộc, nói lên ước mơ khát vọng vượt qua khó khăn để đạt được danh vọng qua nhân vật Cá chép. Qua đó, mong thế hệ mai sau tiếp nối, giữ gìn và thực hiện.

 

Lời giải

Dàn ý

a. Mở bài

Trong văn hóa thần thoại việt nam, luôn lưu truyền nhiều thần thoại về vác vị thần khai phá ra vũ trụ như giải thích vì sao có Thần Trụ Trời và tiếp theo đó là ác vị thần gió, vị thần sáng tạo ra muôn loài. Nhưng qua đó cũng không thể thiếu vị Thần Mưa, cung cấp nguồn nước để duy trì sự sống cho muôn loài dưới trần thế.

  b. Thân Bài

* Hình dáng và công việc của Thần Mưa

- Thần có hình Rồng, thường bay xuống hạ giới hút nước biển vào bụng rồi bay lên trời cao phun nước làm mưa.

- Thần Mưa thường theo lệnh Trời đi phân phát nước ở các nơi.

- Thần Mưa có tính hay quên, có vùng cả năm không đến, sinh ra hạn hán ở hạ giới, có vùng lại đến luôn, làm thành lụt lội. Do đó mà có lần ở hạ giới phải lên kiện trời vì Thần Mưa vắng mặt lâu ngày.

- Công việc nặng nhọc, Thần Mưa làm không xuể.

* Cuộc thi tuyển chọn Thủy loài hóa Rồng và Cá chép vượt Vũ Môn

- Công việc phân phối nước cho khắp mặt đất rất nặng nề, một mình thần Mưa có khi không làm hết, nên có lần Trời mở một cuộc thi chọn các giống thủy tộc có tài trở thành rồng hút nước phun mưa giúp sức thần Mưa.

- Hạch có ba kỳ, mỗi kỳ vượt qua một đợt sóng, con vật nào đủ sức đủ tài, vượt được cả ba đợt, thì mới lấy đỗ mà cho hóa Rồng.

- Trong một tháng trời, bao nhiêu loài Thủy tộc. đến thi đều bị loại cả.

- Cá rô nhảy qua được một đợt song thì rơi; tôm nhảy được hai đợt ruột, gan, vây, vẩy, râu, đuôi đã gần hóa Rồng thì đến lượt thứ ba, đuối sức ngã bổ xuống lưng cong khoăm lại và chất thải lộn lên đầu. Hai con cùng phải trở lại yên nghiệp ở đồng như trước.

  - Cá chép vào thi qua cả ba đợt thành công qua cửa Vũ Môn hóa Rồng cùng Thần Mưa phun nước làm mưa.

c. Kết bài

Tổng kết lại giá trị của truyện Thần Thoại cũng như tác phẩm Thần Mưa muốn truyền đạt.

Mẫu 1

Trong nền văn hóa của dân tộc Việt Nam, từ bao đời nay, ông cha ta luôn lưu truyền những câu chuyện thần thoại kỳ ảo huyền bí để có thể giải thích cho sự hình thành quê hương đất tổ. giải thích được cho con cháu đời sau về sự hình thành của trời đất, của nước non hùng vĩ. Trong hệ thống thần thoại đó, ông cha ta đã giải thích về việc sáng lập vũ trụ. Và tác phẩm Thần Trụ Trời là mở đầu, tiếp theo là một loại các thần thoại khác như Thần Mưa, Thần Biển, Thần Mặt Trời, Mặt Trăng lần lượt ra đời. Tiếp chân của những thần thoại khai phá ra vũ trụ kia là các thần thoại về các vị thần sáng tạo ra muôn loài….

Qua tác phẩm Thần Trụ Trời, ta có thể biết được để tách biệt trời đất như ngày nay. Thần trụ trời đã phải đào đất, khiêng đá đắp thành cột để chóng trời, từ đó mới hình thành ra các vị thần khác cùng thần trụ trời cai quản. và một trong các vị thần cùng cai quản và nối tiếp cho khoảng vũ trụ được hình thành đó có sự sống thì phải kể đến vị Thần Mưa - vị thần tạo ra sự sinh thái cân bằng cho trời đất, là tiền đề duy trì sự sống cho muôn loài do các vị thần sáng tạo ra muôn loài tạo lên.

Đầu tác phẩm, tác giả đã giải thích vị Thần Mưa có hình rồng, thường bay lượn xuống hạ giới hút nước biển, nước sông vào bụng rồi bay lên trời để tạo ra mưa. Qua lời giải thích đó, ta có thể biết được vị thần có hình dáng là một con rồng, được Trời giao phó là hút nước dưới trần thế để tạo ra mưa cho loài người cày cấy, sinh hoạt. Cho cây cỏ sinh sôi và phát triển, muôn thú có nước để duy trì hệ sinh thái của mình. Đây là một công việc vô cùng quan trọng, ấy nhưng vị thần này lại có tính hay quên, có vùng đất cả năm không ghé mặt để phân phát nước khiến nhiều vùng bị hạn hán nghiêm trọng. Muôn thú, cỏ cây khó có thể duy trì sự sống. Điều đó được tác giả nói rõ “Thần Mưa có tính hay quên, có vùng cả năm không đến, sinh ra hạn hán ở hạ giới, có vùng lại đến luôn, làm thành lụt lội. Do đó mà có lần ở hạ giới phải lên kiện trời vì Thần Mưa vắng mặt lâu ngày”. Qua đó ta có thể thấy rõ vị Thần này đãng trí đến nỗi khiến Muôn loài ở các vùng đất hạn hán đó bất mãn đến mức nào, khiến họ phải kiện đến cả trời xanh. Điều này được thể hiện khá rõ tại tác phẩm “cóc kiện Trời”, bởi sự trễ nải này mà khiến cỏ cây héo úa, muôn thú khát khô cả cổ chỉ vì sự văng mặt lâu ngày của Thần Mưa.

  Nhưng tiếp đó, tác phẩm cũng đã giải thích một phần lí do sự trễ nải này của thần Mưa “Công việc phân phối nước cho khắp mặt đất rất nặng nề, một mình thần Mưa có khi không làm hết”. Một phần vì tính hay quên của Thần, một phần vì trời đất bao la rộng lớn quá, công việc nặng nhọc này cũng chỉ có mỗi Thần đảm nhiệm nên nhất thời lo không xuể. Chính vì lo không hết khiến công việc quá tải, muôn loài oán than. Vì để giảm bớt gánh nặng cho Thần Mưa, cũng như xoa dịu được sự nóng giận của muôn loài dưới hạ dưới, nên Trời đã mở cuộc thi chọn loài giúp sức cho công việc của Thần Mưa qua việc mở cuộc thi chọn giống loài thủy tộc có tài năng để giúp Rồng hút nước tạo mưa. Cuộc thi được Nhà Trời chọn đại điểm là ở cửa Vũ (Vũ Môn) thuộc tỉnh Hà Tĩnh ngày nay để có thể lên Thần hóa rồng trợ giúp Nhà Trời và Thần Mưa tạo mưa cho muôn loài.

Mồng ba cá đi ăn thề,

Mồng bốn cá về cá vượt Vũ Môn

Qua hai câu thơ trên, cho thấy Nhà Trời rất coi trọng cuộc thi này, vì trước kia khi mới sáng lập ra trời và đất, công việc tạo mưa là do đích than Trời làm để cho muôn loài, cỏ cây phía dưới tồn tại sinh sống và làm ăn. Sau đó vì đất trời tạo ra bao la quá, công việc khó nhọc không thể đảm nhiệm được nữa nên mới sai rồng lấy nước để làm ra mưa. Nhưng trong chính tác phẩm cũng đã nêu rõ vì số lượng rồng trên trời quá ít không thể đảm nhiệm nổi công việc nên Trời đã ban lệnh Xuống cho Thủy Phủ để kén chọn loài có thể cùng rồng làm công việc điều hòa sự sống cho muôn loài.

Mẫu 2

Qua lời bộc bạch của tác giả qua từng câu chữ trong tác phẩm, ta có thể thấy được yếu tố kỳ ảo của tác phẩm, sự sinh động từng câu chữ khiến cho tác phẩm thật sinh động hiện ra trước mắt để có thể đi sâu vào tâm hồn người đọc.

Tác phẩm thể hiện rõ yếu tố truyền kỳ qua từng câu chữ qua việc vua Thủy Tể loan tin để cho muôn loài dưới Thủy cung ganh đua mà dự thi. Cuộc thi được phân chia làm ba kỳ, mỗi kỳ lại nâng một độ khó khác nhau mỗi kỳ vượt qua một đợt sóng, con vật nào đủ sức đủ tài, vượt được cả ba đợt, thì mới lấy đỗ mà cho hóa Rồng” có thể thấy tính chất của cuộc thi nghe thì dễ nhưng mà thực hiện thì khó qua việc phải vượt qua cả ba đợt song mới lấy làm đỗ để có thể hóa rồng. Cả một đoạn của tác phẩm đã thể hiện cản tượng tranh tài của bao loài Thủy sinh dưới nước thể hiện hết sức mình nhưng đều bị loại cả vì không thể vượt qua đợt sống. Từ “sống” được đặt ở cuối câu như vậy để thể hiện tính chất của cuộc thi thật khắc nghiệt, để có thể vượt qua cuộc sát hạnh này, với mong muốn được hóa rồng mà có thể nhiều loài đã từ bỏ mạng sống của mình. Có loài cá rô nhảy qua được một đợt nên chỉ được một điểm, điều này khiến cá rô nhà ta mất đi cơ hội hóa rồng đành phải về yên vị ở đồng như trước. Tiếp đến, có con tôm nhảy qua được hai đợt hóa được một nửa rồng rồi, điều đó được tác giả nêu rõ “Có con tôm nhẩy qua được hai đợt, ruột, gan, vây, vẩy, râu, đuôi đã gần hóa Rồng thì đến lượt thứ ba, đuối sức ngã bổ xuống lưng cong khoăm lại và chất thải lộn lên đầu.” Qua câu từ như vậy, ta cũng có thể hiểu được lí do tại sao tôm lại bơi giật lùi, thân cong và chất thải lại bị lộn lên đầu như vậy. Qua lời kể trên, ta đã học hiểu được nhiều điều qua lời kể đầy xúc tích, dễ hiểu đến như vậy qua việc diễn tả tôm, cá rô, cá chép vượt qua như thế nào. Điều đó ngầm ý muốn cho khung cảnh cuộc thi trở lên sinh động trước mắt người đọc.

  Sau nhiều đợt tuyển chọn, tưởng chừng chẳng có con vật nào có thể qua được. Đến lượt cá chép vào thi thì thì vô cùng thuận lợi. Tác giả đã dung từ “ào ào” đề diễn tả sự thiên tàng địa lợi của cá chép, cá chép nhờ đó mà vượt cả ba phần sát hạch và vào được cửa Vũ Môn. Qua lời miêu tả của tác phẩm, cá chép đỗ, đuôi, râu, sừng tự nhiên đầy đủ như rồng. Một hình dáng oai nghi, cùng với Thần mưa đảm nhiệm công việc ban phát mưa xuống trần thế.

Việt Nam ta hình thành qua bao nhiêu đời nay luôn gắn liền với một kho tàng thần thoại khổng lồ gắn liền với sự hình thành của Đất Việt - sự trường tồn, phồn vinh và lưu truyền muôn đời để thế hệ mai sau có thể biết được sự thiêng liêng của Đất Nước, trong các tác phẩm đó thì Thần Mưa cũng là một trong những thần thoại to lớn luôn trường tồn với thời gian. Nó vẫn luôn tồn tại những giá trị tinh thần mà người xưa muốn gửi gắm lại cho đời sau những giá trị nhân văn của dân tộc, nói lên ước mơ khát vọng vượt qua khó khăn để đạt được danh vọng qua nhân vật Cá chép. Qua đó, mong thế hệ mai sau tiếp nối, giữ gìn và thực hiện.

Mẫu 3

Có thể thấy trong nền văn hóa của dân tộc ta, ông cha luôn truyền tai nhau những câu chuyện thần thoại mang nhiều yếu tố kì ảo huyền bí để giải thích cho con cháu sau này về những hiện tượng đời sống quanh ta. Trong những câu chuyện thần thoại được lưu truyền đó có các câu chuyện kể về sự hình thành lên vũ trụ. Đó là các tác phẩm Thần Trụ Trời, Thần Biển, Thần Mưa, Thần Mặt Trời, Mặt Trăng lần lượt ra đời. Qua tác phẩm thần Thần Trụ Trời có nhắc đến Thần Mưa.

Thần Mưa có hình rồng, ông tạo ra mưa bằng cách bay lượn xuống hạ giới uống nước biển, nước sông rồi bay quay lại bầu trời để tạo mưa cho nhân loại. Thần Mưa tạo nên sự cân bằng sinh thái cho hệ thống sinh thái trên Trái Đất., đây cũng là vị thần duy trì sự sống cho toàn nhân loại được các vị thần khác tạo lên. Thần Mưa tạo mưa giúp cho các hoạt động sinh hoạt, nuôi trồng của người dân được thuận lợi hơn. Thần Mưa là vị thần đảm nhiệm công việc vô cùng quan trọng nhưng lại có tính hay quên. Những lúc như vậy, vùng đất không được ông ghé qua sẽ bị hạn hán vô cùng nghiêm trọng, ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển của muôn thú hay cây cỏ ở đó. 

Tác phẩm còn giải thích lí do tại sao lại có sự việc như trên là do trần đất quá bao la, rộng lớn mà một một thần Mưa không thể đảm nhiệm được hết. Nhưng lòng dân không hiểu, luôn trách móc, oán than nên Trời đã phải mở một cuộc thi để tìm ra một loài thủy tộc có khả năng hút nước và tạo mưa để giúp Thần Mưa trong công việc. Cửa Vũ (Vũ Môn) thuộc tỉnh Hà Tĩnh chính là địa điểm được chọn làm điểm thi. Nhà Trời rất coi trọng cuộc thi này, vì đó sẽ giúp cuộc sống của muôn loài, sinh vật được sinh sống trên Trái Đất được thuận lợi và bớt khó khăn hơn. Sau nhiều đợt tuyển chọn, cá chép là nhân vật duy nhất có thể thuận lợi vượt qua được cửa Vũ Môn. Tác giả miêu tả ngoại hình của cá chép có đầy đủ yếu tố như rồng - hình dáng toát lên vẻ oai nghi, oai phong. Vì vậy, cá chép đã được đảm nhiệm vai trò ban phát mưa xuống trần thế cùng với Thần Mưa. Các yếu tố kì ảo mà tác giả viết lên khiến cho tác phẩm trở nên sinh động, để lại dấu ấn trong lòng người đọc. Cũng là để lí giải hiện tượng gây mưa trên toàn nhân gian này.

Mẫu 4

Kho tàng truyện thần thoại Việt Nam được gắn liền với quá trình hình thành đất nước, với sự phát triển, phồn vinh và sẽ được lưu truyền mãi đến cho các thế hệ sau này. Nó mang giá trị tinh thần lớn, đó cũng có thể là món quà mà người xưa muốn gửi gắm đến cho thế hệ sau này. Đó là những giá trị nhân văn của cả dân tộc, nói lên được sự khát vọng, ước mơ và kiên cường, mạnh mẽ của cá chép mà vượt qua được tất cả khó khăn trước mắt. Đấy chính là tinh thần, sức mạnh của người con Đất Việt và mong các thế hệ mai sau sẽ luôn tiếp nối những truyền thống tốt đẹp đó.

Mỗi câu chuyện thần thoại đều mang đến cho chúng ta hiểu biết về một vị thần nào đó. Câu chuyện " Thần mưa" sẽ làm cho chúng ta hiểu rõ về nó và lý giải được về hiện tượng mưa.

Đặc điểm nổi bật của truyện thần thoại là luôn luôn nhân vật chính là một vị thần. Thần mưa có ngoại hình mang hình rồng. Công việc của thần Mưa là bay xuống hạ giới hút hết nước biển, nước sống rồi bay lên trời phun xuống để tưới cho cây cối, muôn loài Nhưng một đặc điểm của thần mưa đó là hay quên. Việc này cũng đã phần nào lý giải được hiện tượng lũ lụt và hạn hán. Có nơi thần mưa quên mà cả vùng đó cả năm không có mưa, đất khi khô cằn, hạn hán. Có vùng lại phun quá nhiều khiến lũ lụt. 

Chúng ta đã lý giải được nhiều hiện tượng của thiên nhiên như lũ lụt và hạn hán ở dưới hạ giới. Đó cũng là những kiến thức hữu ích cho cuộc sống của mỗi chúng ta.

Mẫu 5

Mỗi câu chuyện thần thoại đều mang đến cho chúng ta hiểu biết về một vị thần nào đó. Câu chuyện " Thần mưa" sẽ làm cho chúng ta hiểu rõ về nó và lý giải được về hiện tượng mưa.

Đặc điểm nổi bật của truyện thần thoại là luôn luôn nhân vật chính là một vị thần. Thần mưa có ngoại hình mang hình rồng. Công việc của thần Mưa là bay xuống hạ giới hút hết nước biển, nước sống rồi bay lên trời phun xuống để tưới cho cây cối, muôn loài Nhưng một đặc điểm của thần mưa đó là hay quên. Việc này cũng đã phần nào lý giải được hiện tượng lũ lụt và hạn hán. Có nơi thần mưa quên mà cả vùng đó cả năm không có mưa, đất khi khô cằn, hạn hán. Có vùng lại phun quá nhiều khiến lũ lụt. 

Chúng ta đã lý giải được nhiều hiện tượng của thiên nhiên như lũ lụt và hạn hán ở dưới hạ giới. Đó cũng là những kiến thức hữu ích cho cuộc sống của mỗi chúng ta.

 

Lời giải

Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.

Nâng cấp VIP

Lời giải

Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.

Nâng cấp VIP

Lời giải

Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.

Nâng cấp VIP

Lời giải

Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.

Nâng cấp VIP

Lời giải

Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.

Nâng cấp VIP