a. Đảm bảo cấu trúc bài nghị luận
Mở bài nêu được vấn đề, Thân bài triển khai được vấn đề, Kết bài khái quát được vấn đề.
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận
Phân tích đoạn trích; nhận xét phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân.
c. Triển khai vấn đề nghị luận thành các luận điểm
Thí sinh có thể triển khai theo nhiều cách, nhưng cần vận dụng tốt các thao tác lập luận, kết hợp chặt chẽ giữa lý lẽ và dẫn chứng; bảo đảm các yêu cầu sau:
* Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm, vấn đề cần nghị luận: tác giả Nguyễn Tuân, tác phẩm Người lái đò sông Đà và đoạn trích.
* Phân tích đoạn trích
- Khái quát đoạn trích: Con Sông Đà hiện lên qua ngòi bút của Nguyễn Tuân không chỉ là một loài thủy quái khổng lồ mà còn mang một nét đẹp thơ mộng và trữ tình. Đoạn trích trên đã cho thấy con Sông Đà êm đềm thơ mộng, dịu dàng, khả ái, đầy quyến rũ, như một người bạn thân thiết của con người.
- Hình dáng của con sông Đà:
+ Dáng điệu mềm mại, uyển chuyển của sông Đà làm ngây ngất lòng người qua hình ảnh “con Sông Đà tuôn dài, tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nử hoa ban, hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”. Không phải vô cớ tác giả lại đặt vào câu văn hai cụm động từ “tuôn dài. Với điệp từ này, sự miên man bất tận của dòng sông trải ra vô tận dọc khắp chiều dài biên giới phía Tây của Tổ quốc. Sự mềm nại của dòng sông được ví như mái tóc mượt mà, nữ tính của người con gái.
+ Dòng sông còn mang nét đẹp huyền bí làm đắm say lòng người. Sông Đà đang “bung nở” sức xuân trên nền trắng của “hoa ban” và sắc đỏ của “hoa gạo”. Qua dáng vẻ ấy, Đà giang của Nguyễn Tuân hiện lên như người con gái Tây Bắc dịu dàng, e ấp, kín đáo và đầy bí ẩn.
- Sắc nước của con sông Đà:
+ Nhìn sông Đà từ nhiều thời điểm khác nhau, nhà văn phát hiện màu nước sông Đà thay đổi theo mùa xuân và thu. Hai mùa để thương để nhớ, để nhà văn ngắm nhìn và gọi tà thấp thoáng cái dòng nước ngọt ngào mang đặc trưng riêng biệt: “Tôi đã nhìn say sưa làn mây mùa xuân bay trên Sông Đà, tôi đã xuyên qua đám mây mùa thu mà nhìn xuống dòng nước Sông Đà."
+ Tây Bắc vào xuân, sự biến ảo của đất trời, thiên nhiên khiến sắc nước sông Đà cũng xanh trong kì lạ. Ông say sưa đắm chìm trong sắc xanh của làn nước mùa xuân - “dòng xanh ngọc bích" trong xanh, quý phái và êm nhẹ. Màu xanh “ngọc bích” khiến dòng nước không chỉ xanh sắc trời mà còn là sự hòa lẫn của rong rêu, lá cây, ...; tạo nên độ trong vắt, long lanh như tấm gương phản chiếu vẻ đẹp của đất trời nơi đây.
+ Đến khi Tây Bắc vào thu, vẻ trầm mặc của thiên nhiên khiến dòng nước sông đỏ hẳn đi: “Mùa thu nước Sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì ruợu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về”. Cách so sánh màu nước sông Đà mùa thu với màu da của một người nghiện rượu khiến dòng sông có sắc thái, có linh hồn, có xúc cảm hơn. Đó là màu nước đỏ giận dỗi, hờn trách “của một người bất mãn, bực bội gì mỗi độ thu về”. Nhà văn khéo léo khi so sánh dòng sông với tâm trạng con người, trao thần sắc, tâm tình của con người vào dòng sông vô tri, vô giác, từ đó làm nổi bật cái chất men ngấm vào cảnh sắc thiên nhiên thơ mộng.
Chất thơ mộng, gợi cảm của con sông Đà được gợi lên từ nhiều góc độ:
+ Dòng sông mang vẻ đẹp của một “cố nhân”.
+ Con sông Đà gợi nhớ đến một trò chơi của con trẻ “trước mắt thấy loang loáng như trẻ con nghịch chiếu gương vào mắt mình rồi bỏ chạy”, đẹp một cách hồn nhiên và trong sáng.
+ Gợi nhớ đến thơ Đường “Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu”.
+ Gợi nhớ đến những giấc mơ đẹp diệu kỳ “bờ sông Đà, bãi sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm trên sông Đà. Chao ôi, trông con sông, vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng”.
→ Sông Đà là một công trình nghệ thuật tuyệt vời của tạo hóa, vừa hùng vĩ, vừa thơ mộng tạo nên chất men trong cuộc sống.
- Nghệ thuật:
+ Nghệ thuật so sánh tài tình.
+ Kết hợp nhân hóa độc đáo và điêu luyện.
+ Ngôn từ đặc sắc với những câu văn dài ngắn biến đổi linh hoạt.
+ Vận dụng tri thức nhiều lĩnh vực để khám phá, thể hiện hình tượng.
- Đánh giá: Bằng trí tưởng tượng phong phú, tác giả giúp người đọc dễ dàng liên tưởng và hình dung ra hình ảnh một con sông êm đềm thơ mộng, dịu dàng, khả ái, đầy quyến rũ, như một người bạn thân thiết của con người. Sông Đà là một thực thể tự nhiên nhưng không vô tri vô giác. Qua ngòi bút của tác giả Nguyễn Tuân, sông Đà thật sống động như một sinh thể có linh hồn có tình cảm.
* Nhận xét về phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân thể hiện qua đoạn trích.
- Đoạn trích đã thể hiện phong cách nghệ thuật tài hoa, uyên bác của Nguyễn Tuân. Nhà văn đã sử dụng trí tưởng tượng phong phú một cách rất tài tình và khéo léo để khắc họa lên hình tượng con sông Đà trữ tình.
- Nghệ thuật nhân hóa, so sánh được nhà văn sử dụng tài tình, rất lôi cuốn, hấp dẫn. Mỗi so sánh về sông Đà của Nguyễn Tuân trong tác phẩm thực sự là một phát hiện sắc sảo, độc đáo về thiên nhiên Tây Bắc.
- Việc sử dụng thể tùy bút pha chất bút kí với kết cấu phóng túng, câu văn dài, nghệ thuật dùng từ độc đáo đã in đậm cá tính sáng tạo của bậc thầy ngôn từ Nguyễn Tuân.
- Sức hấp dẫn của ngòi bút Nguyễn Tuân trong bài tuỳ bút “Người lái đò Sông Đà” còn ở “cái tôi” độc đáo, sự tài hoa, uyên bác. Tất cả đã làm nên phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân.
Hãy Đăng nhập hoặc Tạo tài khoản để gửi bình luận