Câu hỏi:

15/08/2021 7,224 Lưu

Trong suốt quá trình tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam lần thứ hai (1945 – 1954), thực dân Pháp luôn phải đối mặt với khó khăn nào?

Quảng cáo

Trả lời:

verified
Giải bởi Vietjack

Đáp án D

* Trong suốt quá trình tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam lần thứ hai (1945 – 1954), thực dân Pháp luôn phải đối mặt với mâu thuẫn giữa việc tập trung và phân tán lực lượng.

- Để đặt ách thống trị trên đất nước Việt Nam, ngay từ đầu sự điều hành mang tính chiến lược của thực dân Pháp là: từ tập trung binh lực (để tiến công nhằm chiếm đất, giành dân) rồi chuyển sang phân tán binh lực (để giữ đất, giữ dân).

- Trong vài năm đầu của cuộc chiến, mâu thuẫn giữa tập trung và phân tán binh lực của thực dân Pháp chưa bộc lộ sâu sắc, một phần vì khả năng tăng viện từ Pháp sang còn nhiều, phạm vi chiếm đóng của quân Pháp chưa mở rộng, nhưng chủ yếu là do chiến tranh du kích của lực lượng cách mạng Việt Nam chưa phát triển tới mức buộc Pháp phải căng nhiều lực lượng ra để đối phó rộng khắp.

- Tuy nhiên, từ sau chiến dịch Việt Bắc thu – đông (1947), tình hình chiến sự đã thay đổi ngày càng rõ rệt. Kết quả việc phía Việt Nam phát động chiến tranh du kích rộng khắp nhằm thực hiện chủ trương “biến hậu phương của địch thành tiền phương của ta” đã buộc thực dân Pháp phải rải quân ra, lập hàng ngàn đồn bốt để “duy trì an ninh” trong vùng Pháp kiểm soát, trong khi đó thì một bộ phận quan trọng lực lượng của Pháp lại bị thu hút ra mặt trận phía trước để đối phó với các “chiến dịch” nhỏ của bộ đội chủ lực Việt Nam.

=> Lực lượng dần dần bị căng mỏng không cho phép Pháp có thể tập trung binh lực để tiếp tục mở các chiến dịch tiến công có ý nghĩa chiến lược hòng “tiêu diệt chủ lực đối phương” như trước.

- Theo tiến trình phát triển của cuộc chiến, mâu thuẫn giữa phân tán binh lực (để giữ đất) và tập trung binh lực (để mở các chiến dịch tiến công lớn) của thực dân Pháp ngày càng sâu sắc và làm nảy sinh ra mâu thuẫn khác – mâu thuẫn giữa tiến công và phòng ngự về mặt chiến lược.

- Bằng “chiến thuật vết dầu loang”, dùng lực lượng nhỏ, lấn chiếm từng bước, củng cố từng bước, thực dân Pháp cố mở rộng phạm vi kiểm soát và hoàn thiện thế chiếm đóng của chúng. Nhưng đến giữa năm 1950, khi phạm vi chiếm đóng mở rộng nhất cũng là lúc lực lượng của Pháp bị căng mỏng nhất, lực lượng cơ động chiến lược bị hạn chế ở mức thấp nhất, mâu thuẫn giữa tập trung và phân tán binh lực, giữa tiến công và phòng ngự chiến lược đã lên tới mức sâu sắc. Lực lượng bị phân tán quá mỏng làm cho Pháp không đủ sức đối phó với hoạt động ngày càng mạnh của lực lượng vũ trang ba thứ quân đã trưởng thành của Việt Nam. Do đó, Pháp buộc phải thu hẹp dần phạm vi chiếm đóng để các vị trí chiến lược khỏi bị tiêu diệt và để tập trung được lực lượng tổ chức thành các binh đoàn cơ động, hòng đối phó với các chiến dịch tiến công quy mô ngày càng lớn của bộ đội chủ lực Việt Nam => Như vậy, từ phân tán binh lực giữ đất, Pháp lại bị động tập trung binh lực, dù phải mất đất (tức là đi ngược lại yêu cầu chiếm đất của cuộc chiến tranh xâm lược thuộc địa) => Lúc này, mâu thuẫn giữa tập trung và phân tán binh lực của Pháp lại tiếp tục làm nảy sinh mâu thuẫn khác – mâu thuẫn giữa việc muốn giữ đất nhưng cuối cùng buộc phải bỏ đất.

- Với việc triển khai kế hoạch Đờ Lát đơ Tátxinhi, từ cuối năm 1950, thực dân Pháp gấp rút tập trung quân Âu – Phi để xây dựng một lực lượng cơ động chiến lược mạnh. Tuy nhiên, thế trận rộng khắp, hiểm hóc và phát triển ngày càng cao của chiến tranh du kích phía Việt Nam lại buộc Pháp phải phân tán binh lực để càn quét, bình định, hòng cứu vãn cho vùng tạm chiếm. Cùng lúc đó, một bộ phận quan trọng lực lượng cơ động của Pháp cũng thường xuyên bị xé lẻ và ném đi ứng cứu trên các hướng tiến công chiến lược của bộ đội chủ lực Việt Nam. Vì vậy, tuy hình thức tổ chức là binh đoàn, sư đoàn cơ động nhưng lực lượng dự bị chiến lược của Pháp đã buộc phải hoạt động phân tán, phổ biến là cỡ tiểu đoàn.

- Càng về cuối cuộc chiến tranh, mâu thuẫn trong tập trung và điều động binh lực đã dồn các tướng lĩnh Pháp vào thế lúng túng. Quân Pháp muốn giữ vùng đồng bằng Bắc Bộ đông người nhiều của thì buộc phải bỏ nhiều địa bàn có ý nghĩa chiến lược trên chiến trường rừng núi; muốn đối phó với Việt Nam trên chiến trường chính (Bắc Bộ) thì phải rút bớt quân và tạo nên thế sơ hở trên các chiến trường khác; muốn đối phó với các chiến dịch tiến công của bộ đội chủ lực Việt Nam ở mặt trận phía trước thì phải điều lực lượng ở vùng tạm chiếm ra, nhưng khi chiến tranh du kích của Việt Nam làm cho vùng tạm chiếm của Pháp bị “ruỗng nát”, thì chúng lại phải đưa lực lượng từ mặt trận phía trước về đối phó,…

=> Chiến tranh du kích phát triển rộng rãi và phối hợp chặt chẽ với chiến tranh chính quy đã tạo nên thế trận chiến tranh nhân dân trên phạm vi cả nước (toàn dân đánh giặc, cả nước đánh giặc, Bắc – Nam chung một chiến hào), làm cho binh lực quân viễn chinh Pháp thường xuyên bị giằng xé, khiến lực lượng quân sự của Pháp tuy đông mà hóa ít, trang bị mạnh mà hóa yếu, thế trận luôn luôn bị sơ hở, việc tổ chức và điều động lực lượng thường xuyên bị động.

=> Mặc dù ra sức phát triển quân ngụy, ra sức xin thêm viện trở của Mỹ, các tướng lĩnh Pháp vẫn không sao thoát khỏi mâu thuẫn giữa tập trung và phân tán lực lượng trong suốt quá trình điều hành cuộc chiến tranh xâm lược.

* Nội dung các đáp án A, B, D không phù hợp, vì: trong quá trình tiến hành chiến tranh xâm lược Việt Nam, Pháp nhận được sự ủng hộ, viện trợ của Mĩ; lực lượng viễn chinh Pháp đóng vai trò chủ lực và được trang bị vũ khí, phương tiện chiến đấu tối tân, hiện đại

CÂU HỎI HOT CÙNG CHỦ ĐỀ

Câu 1

Lời giải

Đáp án A

Đặc điểm lớn nhất, độc đáo nhất của cách mạng Việt Nam thời kì 1954 – 1975 là một Đảng lãnh đạo nhân dân tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng ở hai miền Nam – Bắc:

+ Ở miền Bắc (đã được giải phóng) tiến lên thực hiện cách mạng xã hội chủ nghĩa.

+ Ở miền Nam (chưa được giải phóng) nên tiếp tục thực hiện cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân

Câu 2

Lời giải

Đáp án A

Nét nổi bật về nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh cách mạng của Đảng Lao động Việt Nam trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975 là lựa chọn đúng địa bàn và chủ động tạo thời cơ tiến công:

* Ví dụ về việc lựa chọn đúng địa bàn tiến công của Đảng Lao động Việt Nam:

- Bộ Chính trị Trung ương Đảng xác định rõ chọn Tây Nguyên làm hướng tiến công mở đầu, trọng điểm là Nam Tây Nguyên với mục tiêu chính là thị xã Buôn Ma Thuột. Thực tế đã chứng minh đây là mẫu mực về nghệ thuật lựa chọn hướng tiến công, địa bàn tiến công, nghệ thuật vận dụng không gian đặc sắc, sáng tạo. Bởi:

+ Tây Nguyên là chiến trường trải rộng, có vị trí hết sức quan trọng, nếu giải phóng được địa bàn này sẽ tạo bàn đạp tiến vào Đông Nam Bộ (nơi có Sài Gòn – thủ phủ của chính quyền Sài Gòn), hoặc dễ dàng tiến xuống giải phóng các tỉnh đồng bằng Nam Trung Bộ thực hiện chia cắt chiến lược địch, tạo sự rung chuyển chấn động mạnh.

+ Ở Nam Tây Nguyên, địa hình xung quanh Buôn Ma Thuột tương đối bằng phẳng, nhiều đường lâm nghiệp, tiếp cận với tuyến chi viện chiến lược Trường Sơn, nên rất thuận lợi cho việc cơ động tập trung binh lực, vật lực để tổ chức tác chiến hiệp đồng binh chủng quy mô lớn, đáp ứng yêu cầu đặt ra.

+ Trong khi đó, phán đoán sai hướng tiến công chủ yếu của Quân giải phóng là miền Đông Nam Bộ, do vậy, chính quyền Sài Gòn tập trung phòng thủ ở Quân khu 1 (khu vực Huế - Đà Nẵng) và Quân khu 3 (miền Đông Nam Bộ). Lực lượng địch ở Tây Nguyên tương đối mỏng, lại mất cân đối (tập trung nhiều ở phía Bắc, ít ở phía Nam), bố phòng sơ hở.

* Ví dụ về việc chủ động tạo thời cơ tiến công của Đảng Lao động Việt Nam:

- Cuối năm 1974, đầu năm 1975, cục diện chiến tranh có sự chuyển biến mau lẹ theo hướng thuận lợi, Đảng Lao động Việt Nam triệu tập Hội nghị Bộ Chính trị (từ 30/9/1974 – 7/10/1974) và Hội nghị Bộ Chính trị mở rộng (18/12/1974 – 8/01/1975) hạ quyết tâm: Động viên những nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ở cả hai miền, mở cuộc tổng tiến công và nổi dậy giải phóng hoàn toàn miền Nam trong hai năm 1975 – 1976; nếu thời cơ đến sớm hơn, thì lập tức giải phóng miền Nam ngay trong năm 1975.

- Thực hiện quyết tâm Bộ Chính trị đề ra, Bộ Tổng tư lệnh sớm chỉ đạo Bộ Tổng tham mưu xây dựng hoàn chỉnh dự thảo kế hoạch chiến lược giải phóng hoàn toàn miền Nam. Dự thảo này đã được Hội nghị Bộ Chính trị mở rộng (18/12/1974 – 8/01/1975) đồng ý thông qua (sau 8 lần xin ý kiến chỉnh sửa), chính thức trở thành “Kế hoạch chiến lược”, gồm hai phương án:

+ Phương án cơ bản, có hai bước: Bước 1 (năm 1975), mở nhiều đợt tiến công và nổi dật, làm cho lực lượng địch suy yếu nhanh chóng, mở ra thời cơ thuận lợi mới có lợi nhất cho cách mạng. Bước 2 (năm 1976), tiến hành tổng tiến công và nổi dậy đánh chiếm Sài Gòn, giành toàn thắng.

+ Phương án thời cơ: khi ta đánh mạnh, địch suy yếu nhanh có thể tạo ra thời cơ phát triển “đột biến”, lập tức tiến hành Tổng tiến công và nổi dậy giành toàn thắng trong năm 1975.

=> Như vậy, nhờ có sự chuẩn bị chu đáo cả 2 phương án, nên tình hình chiến trường dù có phát triển theo hướng nào, thì lực lượng cách mạng Việt Nam vẫn giữ được sự chủ động trong việc “điều binh, khiển tướng”. Và thực tế đã cho thấy sự chỉ đạo linh hoạt, tạo thời cơ và chớp thời cơ của Đảng: ngay sau thắng lợi bước đầu của chiến dịch Tây Nguyên, ngày 18/3/1975, Bộ Chính trị đã họp bàn, quyết định chuyển từ phương án cơ bản sang phương án thời cơ, thực hiện giải phóng hoàn toàn miền Nam ngay năm 1975

Câu 3

Lời giải

Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.

Nâng cấp VIP

Câu 4

Lời giải

Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.

Nâng cấp VIP

Câu 5

Lời giải

Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.

Nâng cấp VIP

Câu 6

Lời giải

Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.

Nâng cấp VIP

Lời giải

Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.

Nâng cấp VIP