Danh sách câu hỏi tự luận ( Có 534,650 câu hỏi trên 10,693 trang )

Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới: BỆNH SĨ Lưu Quang Vũ Cảnh V (trích) Tại trụ sở Liên hợp Xã, trong một buổi lễ trọng thể. Lược thuật. Trong lúc chờ lãnh đạo và quan khách đến dự lễ, người ta nghe những lời ca thán về sự đình trệ canh tác thời vụ, những đảo lộn trong sinh hoạt của xã viên trong Liên hợp Xã,... do cách huy động nhân lực, kinh phí vào việc tổ chức buổi lễ. Rồi ông Toản Nha cùng khách khứa xuất hiện trong tiếng vỗ tay, tiếng trống rền vang. Cảnh tượng sân khấu rất long trọng, nhận nhịp. Đúng lúc Hung — Thuyền trưởng tàu viễn dương”, người yêu cô Nhân - kĩ sư chăn nuôi, con gái ông Toàn Nha xuất hiện, buổi lễ bắt đầu. Sau lời khai mạc của ông chủ tịch Toàn Nha, phát biểu của ông “nhà văn Chu Văn” là tiết mục hợp xướng bài Ngọn đuốc Hùng Tâm (hát theo điệu bài Diệt phát xít), tiết mục hợp ca bài Hùng Tâm viễn đường (hát, múa theo điệu Cây trúc xinh). (Nhàn và Long xuất hiện, cô đứng lặng nhìn Hưng. Hưng cũng đã nhìn thấy Nhàn) Hưng: - (bối rối, sững sờ) Nhàn! Nhàn: - Anh! (đăm đăm nhìn Hưng) (Ông Nha ra hiệu, mọi người lui dần, chỉ còn Hưng và Nhàn). Nhàn: - Anh đã về... Hưng: - Tôi… tôi... Nhàn: - Mọi người đón anh thật trọng thể và trông anh cũng thật là anh rất ít viết thư cho Nhàn. Hưng: - Tôi... tôi muốn dành cho ngày ta gặp nhau. Nhàn: - Như ta đã hẹn lúc chia tay phải không? Hưng: - Đúng thế. Nhàn: - Hiện... anh ra sao? Hưng: - Như Nhân đã thấy đấy (trỏ bộ quần áo trên người mình) Nhàn: - Không phải bộ quần áo. Bộ quần áo chẳng nói lên điều gì… Nhàn muốn hỏi anh đã sống ra sao. Hưng: - Dù sao thì … cũng không đến nỗi. Không phải kẻ vô tích sự. Nhàn: - Thật chứ? Lấy gì làm bằng? Hưng: - Nhàn… Sao lại nói thế? Tôi đã học hỏi, đã làm việc, tôi tự thấy không hổ thẹn … tôi đã đổi khác nhiều. Nhàn: - Nhàn lại thấy anh không đổi khác gì lắm. Hưng: - Nhàn chưa biết đấy thôi. Tôi đã không còn là gã trai vụng về yếu đuối. Tôi đã trở thành … thủy thủ … dù sao cũng đã thành thủy thủ … đã biết bơi …. Bơi hàng mấy chục cây số mà không cần chuồn chuồn cắn rốn. Nhàn: - Bây giờ anh cũng đang bơi phải không? Hưng: - Kìa Nhàn. Nhàn: - Anh đã trở thành một người có danh vọng, một ông thuyền trưởng viễn dương giàu có sang trọng như mọi người thèm khát. Chúc mừng anh. Hưng: - (định mở va-li) Có quà cho Nhàn đây. Nhân: - Không . Còn em chỉ là một cô gái bình thường, một cô kĩ sư chăn muối của xã. Công việc của em ở đây là tìm thuốc ăn thích hợp cho ga, vit, truyền giống và thu tỉnh nhân tạo cho lợn. Em đã không thành Páp-lốp hay Mít-su-rin... em không xứng với anh. Hưng: - Kia Nhàn: - Em không phải xấu hổ về mình. Em đã không trở thành nữ bác học mà chỉ là cô kĩ sư chăn nuôi bình thường. Có sao đâu, miễn ta là người có ích. Là gỗ thật còn hơn là bạo giả. Em rất buồn. Hưng: - Vì sao? Nhàn: - Ở đây, mọi người không đổ sức vào làm việc, không được tổ chức tốt để làm việc, bị xô đẩy chạy theo những thủ hão huyền và làm khổ nhau vì những thứ đó. Ở đây, người ta sống bằng những cái giả, đổi mới giả, tiên tiến giả, và rất buồn là chính cha em là người có lỗi lớn về tình trạng đó. Còn anh, anh thì sao? Hưng: - Tôi nhớ Nhàn, nhớ lời hẹn với nhau, tôi về đây là để... Chú tôi bảo ngày hôm nay sẽ là lễ ăn hỏi của chúng ta. Nhàn: - Sao vội thế? Hưng: - Tôi mang quà cho Nhàn. Nhàn: - Những thứ sang trọng, những thứ đắt tiền... Không, Nhàn cần điều khác cơ. Điều gì thì anh hiểu đấy! Bây giờ... xin phép ông thuyền trưởng, em phải đi làm đây, phải cùng với các bạn thanh niên để làm những công việc hữu ích hơn là ở đây tâng bốc ông thuyền trưởng... Tạm biệt anh! (cô ra nhanh). Hưng: - Nhàn! (sững sờ) Thế là thế nào? (Ông Nha, Sửu và Long ra) Văn Sửu: - (hát hát) Bác Nha ra đây. Có tin lạ lắm: chú Long vừa bảo tin chú ấy vừa gọi điện lên huyện, họ bảo rằng: nhà văn Chu Văn đang trên đường về xã ta. Ông Nha: - Sao? Nhà văn Chu Văn nào? Long: - Nhà văn Chu Văn đầu hói ấy, chắc ông ta nghe nói có một người tự xưng là Chu Văn ở đây, nên ông ta về để xem mặt. Văn Sửu: - Thế là thế nào hả bác? Ông Nha: - Số là thể này chủ Sứu ai ở trên tỉnh vừa xuất hiện một tên bịp giả danh là nhà văn Chu Văn, cái tên đầu hỏi ấy chính là nhà văn Chu Văn giả, trong khi nhà văn Chu Văn thật đang ở đây với chúng ta. Ông ấy đầu rồi? Văn Sửu: - Báo cáo bác, vừa chở lợn đi rồi, anh ay hẹn mấy hôm nữa sẽ quay lại, còn giờ phải đưa lợn về để kịp tiếp đoàn nhà văn Lào. Ông Nha: - Tốt. Còn tên Chu Văn giả thì lại đang trên đường về đây Ta phải vạch mặt hắn. Tôi chỉ thị: cử người chặn đường bắt giữ tên Chu Văn đầu hỏi, giao cho công an để họ xử lí tội bịp bạn. Văn Sửu: - Rõ. Long: - Kìa bố! Ông Nha: -  (với Sửu) Ta đi thôi! (cùng Sửu ra nhanh). Long: - Thế đấy! Bố em không chịu nghe ai cả. Đi bảo bắt ông Chu Văn thật, còn thằng giả mạo thì đã kịp chuồn rồi, cái thằng khốn khiếp ấy! Hưng: - Ai? Long: - Tên bịp, tên lừa dối! Hưng: - Nhưng mà ai? Long: - Hắn ta. Tên giả mạo. Không phải nhà văn mà dám mạo tên Chu Văn. Em biết ngay mà. Một thằng chuyên đi lừa. Hưng: - Để làm gì? Long: - Để sĩ, nhưng cái chính là để kiếm lợi. Bây giờ ối kẻ như thế đấy. Hưng: - Không có khi là vì hoàn cảnh... vì bị ép... không muốn mà phải làm... Vì nếu là mình thì không được trọng, nên phải sắm vai .. là của dởm, vì mọi người ưa của dởm hơn của thật. Long: - Đúng thế. Nhưng em thì không muốn mình như thế. Anh Hưng ạ, em rất quý anh. Anh là bạn thân, là người yêu của chị Nhàn em. Ở đây chỉ có anh là người em phục, em tin. Hưng: - Tin tôi? Long: -  Vâng, anh là thuỷ thủ, là thuyền trưởng, là người đã đi nhiều, biết nhiều, đã vượt qua sóng to bão lớn hiểm nguy, và nhất là người trung thực. Em nói thật với anh điều này nhé. Hưng: - Điều gì? Long: -  (tháo băng ở tay) Em chả bị đau tay đau tiếc gì cả. Em vờ thôi! Hưng: - Sao? Long: -  Em không phải là học sinh nhạc viện, không phải là người kéo vĩ cầm. Bố em bắt em phải thi vào trưởng nghệ thuật nhưng em không có năng khiếu và cũng không thích nên em đã đi làm thợ. Em nói dối mọi người đấy, em hiện nay là thợ mộc ở xí nghiệp gỗ trên tỉnh, một thợ mộc loại cừ... Em vờ vịt xách cái hộp đàn cho ra vẻ thôi. (Mở hộp đàn vi-ô-lông ở trong là cưa bào, đồ lề của thợ mộc) Thế đấy! Em thù lão Văn Sửu vô cùng, chính nó xui bố em bắt em phải đi học đàn, em khổ quá! Khổ vô cùng! Lão Sim xui bố em làm nhiều việc quái gở, bố em u mê nghe theo, không ai can được. Trong mỗi việc ấy, lão Sửu là kẻ kiếm lợi nhất. Cứ ba đồng chè chén đón khách, thì phải vào túi lão Sửu một... Cũng vì muốn tống cổ em đi cho khuất mắt mà lão xui bố em bắt em di học đàn. Em sợ bố em. Nhưng em không chịu, từ bé em đã thích làm thợ mộc, có hoa tay thợ mộc... Hưng: -  Làm người kéo đàn cũng thích chứ sao? Long: - Nhưng em không có tài. Ai giỏi làm gì thì phải để cho người ta làm việc đó. Làm thơ mộc mỗi tháng lương em hơn mười lăm ngàn. Lâu này chỉ vì sợ bố em mà em không dám nói thật. Mỗi lần về quê cứ phải xách cái hộp này... Mà phải nói một phần em cũng sĩ, em thấy chị em là nhà khoa học, anh là thuyền trưởng, còn em chỉ là thằng thợ mộc. Em sợ bọn con gái ở làng nó chê . Nhưng em không muốn như cái thằng còn giả vở là ông Chu Văn kia ... Em cứ mở cái hộp dụng cưa bào này để đây... Để lát nữa bố em và mọi người vào, em nói thật hết. Nên thế chứ anh nhỉ? Hưng: - Tôi …  Tôi không biết. Long: - Giờ em chuồn đây (ra khuất). (Ông Thình vào) Ông Thình – Hưng, chuẩn bị đi... Lát nữa, sau là lễ rước đuốc từ phòng truyền thống về trụ sở, đúng ba giờ này sẽ là lễ ăn hỏi của cháu với Nhàn. Chú và bác Nha đã chuẩn bị hết rồi. Lễ ăn hỏi tiến hành thật trang nghiêm trà ấm cúng. Ông Nha có mời cả các quan khách và phỏng viên chứng kiến... Quái, cô Nhàn đâu rồi, ông Nha đang tìm cô ấy. Hưng: - Nhàn... Nhàn vẫn không biết gì cả… Ông Thình: - Không biết gì? Hưng: - Cháu là kẻ mạo nhận, kẻ lừa gạt… Ông Thình: - Cái gì? Hưng: - Có kẻ giả mạo vì có người sùng bởi sự giả mạo, coi thường cái chân thật. Không! Cháu đã gặp Nhàn, đã nhìn thấy Nhàn, thấy gương mặt, đôi mắt cô ấy, cháu không thể... thà rằng cô ấy không yêu cháu còn hơn cháu lừa dối để có được lễ ăn hỏi này... Ông Thình: - Cháu nói sao? Hưng: - Cháu đi đây. Ông Thình: - Đi đâu? Hưng: - Đi về tàu. Ông Thình: - Ơ! Nhưng còn hai tiếng nữa là bắt đầu... Hưng! Hưng: - Không chú ạ, cháu không làm Vuốt-cô giả nữa, cháu sợ... Ông Thình: - Sợ gì? Hưng: - Sợ cô Nhàn thật. Sợ ông Chu Văn thật và sợ chính cả cháu thật, thằng Hưng thật nữa. Cháu về với con tàu thật của cháu đây. Mặc tất cả! (Anh chạy mất). Ông Thình: - Kìa, Hưng! (Có tiếng ồn ào, bà Độp hớt hải chạy vào) Bà Độp: - Ông Thình ơi, bác Nha đâu? Ông Thình: - Có chuyện gì? Bà Độp: - Nguy quá! Lợn mượn về nhốt vào lớp học, nó lạ chuồng lạ đàn, cắn nhau lung tung. Đúng vào lúc đoàn tham quan đến thì nó phá tung cửa chuồng, tức là cửa lớp học mới làm tạm, chạy ùa ra, một con lợn to tức tối xông vào cắn đúng chân anh phóng viên truyền hình, khiến anh ấy rơi cả máy, chảy cả máu chân... Ông Thình: - Chết thật! Phải gọi bác Nha! (Lần sau dìu anh phóng viên vào, anh thứ hai đi sau cầm máy) Phóng viên A: - (tập tễnh, xuýt xoan) Giời ơi, lợn gì mà dữ như hùm ấy.. chảy máu chân tôi rồi … khéo lớn dại thì chết. Văn Sửu: - Không sao đâu ạ, y tá xã sẽ băng cho anh ngay, có cả thuốc tiêm phòng dại. Phóng viên A: - Ôi giời, tiêm quanh rốn á? Chết tôi mất thôi! (Ông Nha hấp tấp đi vào) Ông Nha: - Không sao, lợn rất lành mạnh, chúng tôi xin bảo dăm... Chúng tôi sẽ bồi thưởng ạ, sẽ rất chu đáo! Bà Độp, cho người bắt con lợn to ấy… giao cho các đồng chí truyền hình, lặng luôn các đồng chỉ ấy, để các đồng chí thịt bồi dưỡng cho đồng chí bị thương. Phóng viên B: - Thật ạ. Thế thì thật là …. Thôi cậu gắng chịu, bị chảy máu có tí mà cơ quan được cả con lợn, giá nó cần cả tớ có phải hay không? (Anh Tị hớt hải chạy vào) Anh Tị: - Bác Nha ơi, anh Sửu ơi, cậu Đại… tức là võ sĩ Đại Dương, bị đấm bất tỉnh nhân sự. Văn Sửu: - Sao? Anh Tị: - Nằm thẳng cẳng giữa đài. Vừa khai mạc hội thi quyền Anh, theo lời anh, em đưa vô sĩ Đại Dương ra giữa bãi, gọi loa thạch đầu với thanh miền có huyện. Thì có thẳng Tích còi ở xã Ca Thượng cạnh xứ ta, nở mới 14 tuổi, nhưng biết quyển Anh, nó học dấu trên tỉnh, thể là chỉ mươi phút, nó đầu thế nào mà thắng Đại như mình ngôn quay lơ. Em đội nước mãi mới tỉnh mọi người xúm vào xem, nó khóc hu hu bảo rằng nó có biết quyền Anh quyền em bao đầu, tại bảo Nha với chủ Sửu bắt nó. Ông Nha: - Chết thật (với Sửu) Tình hình này, phải bắt đầu lễ rước đuốc ngay cho khí thế! Văn Sửu: - Vâng, phương án rước đuốc là như thế này, đuốc sẽ do mười hai thành môn truyền tay nhau đưa từ nhà truyền thống xã, chạy quanh xã một vòng, băng qua cầu Cá, tiến vào thị trấn, dùng lại cho lệnh bác rồi sẽ tiến vào đây. Bác sẽ nhận ngọn đuốc trước lễ đài ngoài sân kia, chấm vào ngon duoc “Thắng lợi" đặt trong chiếc lư đồng trên thềm trụ sở đây. Mọi việc sẽ rất khớp rất đẹp, Em đi dự phỏng cả ô che nếu trời bỗng muốn, cả đuốc dự bị nếu đuốc chính bị giỏ tắt. Kia, đuốc đã về tới! (Tiếng trống. Tiếng hộ "Ngọn đuốc truyền thống đã về tới trụ sở!” Tiếng trống to hơn) Văn Sửu: - (cao giọng) Thưa các vị đại biểu, đoàn nước đuốc đốt ngọn đuốc chấm từ bật lửa ga ở thêm nhà truyền thống đã về tới đây. Bác Nha sẽ đón nhận!... (với các phóng viên) Các đồng chí chụp ảnh cảnh đó cho! Sẽ là một cảnh rất có ý nghĩa. Ông Nha: - Anh Hưng đâu nhỉ? Tôi muốn cả tôi cả anh ấy cung cầm ngọn đuốc. Anh Tị: - Anh Hưng vừa ở đây biển đâu rồi ấy ạ. Cả cô Nhàn cũng không thấy đâu. Ông Nha:  Hừ, đúng lúc cần thì lại.... Thôi, tôi cầm đuốc một mình vậy. (Tiếng nhạc, tiếng trống. Trung lên bài hát "Ngọn đuốc Hieu Tim “Hong Tâm bên con đường đổi mới từ đây Tiến bước hiên ngang cầm ngọn đuốc tiên phong". Những người rước đuốc xuất hiện. Người đi giữa giờ cao ngọn đuốc cháy đùng đùng. Họ bước đều đi vòng quanh sân khấu) Văn Sửu: - Mới bác ra ngoài kia. Lễ “nhận đuốc và châm đuốc" thắp vào ngọn lửa “Thắng lợi” sẽ tiến hành ngoài thêm kia. Mời các đồng chí! (Ông Toàn Nha cùng những người rước đuốc trịnh trọng tiến ra hiện trong tiếng nhạc vũ tiếng trống cùng bài hát rầm rộ: “Hùng Tâm, Hùng Tâm vinh quang!") ĐÈN TẮT (Lưu Quang Vũ, Bệnh sĩ) a. Những nhân vật nào trong văn bản là hiện thân cho cái thấp kém? Dựa vào đâu để em khẳng định như vậy?

Xem chi tiết 2 K lượt xem 2 năm trước

Đọc văn bản sau và trả lời các câu hỏi bên dưới: ĐẤT NỨT CON BỌ HUNG Từ bé Quỳnh đã nổi tiếng học giỏi và đối đáp nhanh. Trong làng có ông Tú Cát rất hợm hĩnh mình, đi đâu cũng khoe mình hay chữ. Quỳnh rất ghét những loại người như vậy. Một hôm Quỳnh đang đứng xem đàn lợn ăn cám trong chuồng, Tú Cát đi qua trông thấy, liền gọi Quỳnh lại và bảo: - Ta nghe đồn mày thông minh và có tài đối đáp. Bây giờ ta ra cho mày một câu đối, nếu không đối được, ta sẽ đánh đòn. Nói rồi, Tú Cát lên giọng, gật gù ngâm nga: - Lợn cấn ăn cám tốn. Tú Cát nghĩ rằng câu này rất khó đối, ví “cấn” và “tốn” là hai quẻ trong kinh Dịch nào ngờ. Quỳnh đối lại ngay: “Chó khôn chớ cắn càn.” Vế này cũng có “khôn” và “càn” là tên hai quẻ trong kinh Dịch, đồng thời lại có ý xỏ Tú Cát là chó. Không ngờ bị chơi đau như vậy, Tú Cát tức lắm, hằm hằm bảo: - Được! Ta ra thêm vế nữa, phải đối lại ngay – rồi đọc – Trời sinh ông Tú Cát. Quỳnh đối luôn: - Đất nứt con bọ hung. Tú Cát tức đến sặc tiết nhưng không làm gì được, vì Quỳnh đối rất chỉnh, đành lùi thủi bỏ đi. a. Nhân vật Quỳnh và ông Tú Cát thể hiện đặc điểm nào của nhân vật truyện cười? Chỉ ra thái độ, cách nhìn nhận của tác giả dân gian với hai nhân vật này.

Xem chi tiết 1.6 K lượt xem 1 năm trước

Đọc văn bản sau và trả lời các câu hỏi bên dưới: THÀ CHẾT CÒN HƠN Xưa có anh keo kiệt, ăn chẳng dám ăn, mặc chẳng dám mặc, cứ khư khư tích của làm giàu. Một hôm có người bạn rủ ra tỉnh chơi. Trước anh ta còn từ chối, sau người bạn nài mãi, anh ta mới vào phòng lấy ba quan tiền giắt lưng rồi cùng đi. Khi ra đến tỉnh, trông thấy cái gì anh ta cũng muốn mua nhưng sợ mất tiền lại thôi. Trời nắng quá, muốn vào hàng uống nước lại sợ phải thiết bạn, không dám vào.  Đến chiều trở về, kkhi qua đò đến giữa sông, anh keo kiệt khát nước quá mới cúi xuống uống nước, chẳng may ngã lộn cổ xuống sông. Anh bạn trên thuyền kêu: - Ai cứu xin thưởng năm quan! Anh keo kiệt ở giữa dòng sông, nghe tiếng cố ngoi lên, nói: - Năm quan đắt quá! Anh bạn chữa lại: - Ba quan vậy! Anh hà tiện lại ngoi đầu lên lần nữa: - Ba quan vẫn đắt, thà chết còn hơn! (In trong Văn học dân gian những tác phẩm chọn lọc, Bùi Mạnh Nhị (Chủ biên), NXB Giáo dục, 2004) a. Nhân vật chính của truyện mang nét tính cách gì? Nét tính cách ấy được thể hiện qua những chi tiết nào?

Xem chi tiết 2.5 K lượt xem 1 năm trước

Đọc văn bản sau và trả lời các câu hỏi bên dưới: TIẾNG THU - MỘT TÂM HỒN CÔ ĐƠN Trần Đình Sử Người Việt Nam yêu Thơ mới không ai không ám ảnh bởi Tiếng thu, không ai không yêu Tiếng thu của Lưu Trọng Lư. Người quen yêu thơ Đường với giá trị hội hoạ, nhìn thấy ở đó một bức tranh phương Đông thuần tuý. Người yêu thơ lãng mạn nhận thấy âm nhạc là đặc trưng nổi bật, là nhịp mạnh của Thơ mới liền hiểu Tiếng thu là thơ nhạc của Lưu Trọng Lư. Bên cạnh đó, phần lớn các bài phân tích, bình giảng về tác phẩm Tiếng thu đều đọc thơ qua nhạc, qua hoạ mà ít đọc nó như là một tác phẩm thơ - thể loại không chỉ nói bằng hoạ, nhạc mà còn nói một cách mạnh mẽ, tha thiết bằng chính giọng và lời, lời của con người, của cảnh vật. Với ba câu hỏi dồn dập và hệ thống hình ảnh tương phản, phi đối xứng, tiếng thu của Lưu Trọng Lư, tiếng nói của một tâm hồn cô đơn, đã được cất lên một cách mãnh liệt và tha thiết. Trước tiên, không thể không nhận thấy cả bài thơ được tổ chức bằng ba câu hỏi. Nhà nghiên cứu Văn Tâm đã khảo sát văn bản và cho biết: 9 dòng thơ viết liền mạch, không chia khổ, chỉ có 3 chữ "Em” đứng đầu dòng viết hoa, và cuối mỗi câu hỏi có một dấu hỏi. Nó chứng tỏ đây là 3 câu hỏi trọn vẹn được ngắt ra, tổ chức thành dòng thơ. Cái đặc biệt của bài thơ này là câu hỏi được đặt bằng từ phủ định: Em không nghe mùa thu/ Em không nghe rạo rực/ Em không nghe rừng thu. Nếu thay từ “có” vào vị trí của từ “không” thì mới đọc qua tưởng không có gì khác biệt nhưng suy ngẫm sẽ thấy khác nhiều. “Em có nghe mùa thu” có một tiền giả định là có sự đồng cảm giữa người hỏi và người được hỏi mà câu hỏi nêu ra để khêu gợi và khẳng định. Còn Em không nghe mùa thu là tiền giả định rằng thiếu một sự đồng cảm ở bên trong, một câu hỏi có vẻ ngạc nhiên, xa lạ. Ba câu hỏi đồn dập, tha thiết nhưng có hỏi mà không có đáp - có người nghe và có người không nghe. Tiếng thu là tiếng buồn, tiếng rạo rực trong lòng người cô phụ đơn chiếc, tiếng thời gian ra đi. Nhưng tiếng thu còn buồn hơn vì nỗi buồn không được chia sẻ. Nó không chỉ buồn mà còn cô đơn. Những gì anh nghe, em không nghe chăng? Cụm từ Em không nghe lặp lại ba lần nhấn mạnh một tiếng lòng lẻ lơi. Em không nghe thổn thức, em không nghe rạo rực, em không nghe lá kêu. Thổn thức, rạo rực là những trạng thái nội tăm thầm kín mà người ta chỉ có thể nghe được bằng chính tâm hồn minh. Hay là em không nghe thấy cả chính tiếng lòng em? Điều đó càng buồn hơn. Ngoài ra, bài thơ còn được xảy dựng theo nguyên tắc phi đối xứng. Về mặt hình ảnh, đây không phải là bức tranh hài hoà. Rạo rực hình ảnh kẻ chinh phu trong lòng người cô phụ là không hài hòa. Con nai vàng ngơ ngác, đạp trên lá thu kêu là không hài hòa. "Lá thu kêu” chính là tiếng mùa thu của Lưu Trọng Lư. Nó không "reo" mà "kêu", một tiếng kêu buồn. Còn con nai vàng thì như không nghe thấy gì, nó ngơ ngác đạp trên là vàng khô. [ ... ] Theo chúng tôi, con nai vàng đạp trên lá vàng khô, trông bề ngoài là bức tranh đồng màu, nhưng không đồng cảm. Nó làm cho sự tương phản trong bài thơ trở nên trọn vẹn. Một bên thì "thổn thức", "rạo rực", "kêu xào xạc", một bên thì "không nghe", "không nghe", "không nghe” và đỉnh cao của sự không nghe ấy là con nai vàng ngơ ngắc - đạp trên là vàng khô. Có cái gì giống như cảnh của Huy Cận: Không cầu gợi chút niềm thân mật/ Lăng lẽ bở xanh tiềp bãi vàng (Tràng giang). Bài thơ không diễn tà sự hài hoà, trái lại nó diễn tả sự tương phản, phi đối xứng để từ đó thức tỉnh tình cảm và khát vọng về sự hài hòa mới - sự đồng cảm của các cá nhân. Nhà thơ lãng mạn Đức Hen-rích Hai-nơ (Henrich Heine) nói: "Toàn thế giới nổ tung ở khoảng giữa, và vết nứt thế giới vĩ đại ấy chạy qua trái tim nhà thơ". Cùng với ý thức về cái TÔI, các nhà thơ lãng mạn đã cảm thấy vết nứt qua trái tim mình - sự cô đơn, thiếu thông cảm. Tiếng thu có tự ngàn xưa. Nhưng trong thơ cổ, tiếng thu là tiếng gợi niềm hoài niệm, là tiếng chày đập vải gợi nỗi nhớ chồng, là các lễ tiết mùa thu gợi tình huynh đệ, bạn bè, là mùa gợi sự tàn tạ của cỏ cây hoa lá. Tiếng thu của Lưu Trọng Lư gợi niềm rạo rực yêu đương chưa được thoá mãn, gợi tiếng “kêu” của bao kiếp lá lìa cành, gợi sự thổn thức phổ biến của sự sống giữa thời tiết thay đổi. Tiếng thu xưa là tiếng buồn của cái tôi bị tách rời cái toàn bộ. Tiếng thu nay là tiếng buồn, cô đơn của cái tôi thức tỉnh nhưng không được chia sẻ. (Trích bài viết Tiếng thu - Một tâm hồn cô đơn, Trần Đình Sử, Những thế giới nghệ thuật thơ, NXB Giáo dục, 1997) a. Vẽ sơ đồ để xác định hệ thống luận điểm, lí lẽ và bằng chứng của văn bản.

Xem chi tiết 3.4 K lượt xem 1 năm trước