Câu hỏi:

13/12/2022 1,393

Viết bài văn nghị luận phân tích, đánh giá một tác phẩm văn học (chủ đề và nhân vật trong tác phẩm truyện)
(10 mẫu)

Sách mới 2k7: Tổng ôn Toán, Lí, Hóa, Văn, Sử, Địa…. kỳ thi tốt nghiệp THPT Quốc gia 2025, đánh giá năng lực (chỉ từ 110k).

Tổng ôn toán Tổng ôn sử Các môn khác

Quảng cáo

Trả lời:

verified
Giải bởi Vietjack

Dàn ý phân tích, đánh giá một tác phẩm truyện chuẩn nhất

1. Mở bài: Giới thiệu ngắn gọn về tác phẩm (nhan đề, tên tác giả,...) và ý kiến khái quát của người viết về tác phẩm. Chia sẻ với người đọc lí do bạn lựa chọn tác phẩm này để phân tích, đánh giá, điều khiến bạn yêu thích tác phẩm.

2. Thân bài:

+ Tóm tắt nội dung chính của truyện.

+ Phân tích, đánh giá về chủ đề của truyện dựa trên cứ liệu dẫn ra từ tác phẩm.

+ Phân tích, đánh giá những nét đặc sắc về nghệ thuật của tác phẩm. Mỗi phân tích, đánh giá đều cần có những chi tiết tiêu biểu được dẫn ra từ tác phẩm.

3. Kết bài:

Tóm lược các nhận định trong phần thân bài, khẳng định giá trị của tác phẩm, đưa ra một số ý tưởng mở rộng, ...

Mẫu 1

Nguyễn Tuân được đánh giá là “nhà văn lớn, một nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp”, ông có vị trí và ý nghĩa quan trọng đối với nền văn học Việt Nam. Trước cách mạng ông thoát li hiện thực, tìm về một thời vang bóng, tập “Vang bóng một thời” chính là tập truyện tiêu biểu nhất cho phong cách của ông trước cách mạng. Trong đó ta không thể không nhắc đến “Chữ người tử tù” với niềm trân trọng thú viết chữ tao nhã truyền thống.

“Chữ người tử tù” được in trong tập “Vang bóng một thời” xuất bản năm 1940, tác phẩm khi xuất hiện trên tạp chí Tao đàn có tên “Dòng chữ cuối cùng”, sau in thành sách đổi thành “Chữ người tử tù”. Tác phẩm đã truyền tải đầy đủ tinh thần của tác giả, cũng như giá trị nhân văn của tác phẩm. “Chữ” là hiện thân của cái đẹp, cái tài sáng tạo ra cái đẹp, cần được tôn vinh, ngợi ca. “Người tử tù” là đại diện của cái xấu, cái ác, cần phải loại bỏ khỏi xã hội. Ngay từ nhan đề đã chứa đựng những mâu thuẫn gợi ra tình huống truyện éo le, gợi dậy sự tò mò của người đọc. Qua đó làm nổi bật chủ đề tư tưởng của tác phẩm: tôn vinh cái đẹp, cái tài, khẳng định sự bất tử của cái đẹp trong cuộc đời.

Tác phẩm có tình huống gặp gỡ hết sức độc đáo, lạ, chúng diễn ra trong hoàn cảnh nhà tù, vào những ngày cuối cùng của người tử tù Huấn Cao, một người mang chí lớn và tài năng lớn nhưng không gặp thời. Vị thế xã hội của hai nhân vật cũng có nhiều đối nghịch. Huấn Cao kẻ tử từ, muốn lật đổ trật tự xã hội đương thời. Còn quản ngục là người đứng đầu trại giam tỉnh Sơn, đại diện cho luật lệ, trật tự xã hội đương thời. Nhưng ở bình diện nghệ thuật, vị thế của họ lại đảo ngược nhau hoàn toàn: Huấn Cao là người có tài viết thư pháp, người sáng tạo ra cái đẹp, còn quản ngục là người yêu và trân trọng cái đẹp và người sáng tạo ra cái đẹp. Đó là mối quan hệ gắn bó khăng khít chặt chẽ với nhau. Với tình huống truyện đầy độc đáo, đã giúp câu chuyện phát triển logic, hợp lí đẩy lên đến cao trào. Qua đó giúp bộc lộ tính cách nhân vật và làm nổi bật chủ đề của truyện: Sự bất tử của cái đẹp, sự chiến thắng của cái đẹp. Sức mạnh cảm hóa của cái đẹp.

Nổi bật trong tác phẩm chính là Huấn Cao, người có tài viết chữ đẹp và nổi tiếng khắp nơi: “người mà vùng tỉnh Sơn ta vẫn khen cái tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp” tiếng tăm của ai khiến ai ai cũng biết đến. Cái tài của ông còn gắn liền với khát khao, sự nể trọng của người đời. Có được chữ của Huấn Cao là niềm mong mỏi của bất cứ ai, được treo chữ của ông trong nhà là niềm vui, niềm vinh dự lớn. Cái tài của Huấn Cao không chỉ dừng lại ở mức độ bình thường mà đã đạt đến độ phi thường, siêu phàm.

Không chỉ tài năng, vẻ đẹp của Huấn Cao còn là vẻ đẹp của thiên lương trong sáng: “Tính ông vốn khoảnh, trừ chỗ tri kỉ, ông ít chịu cho chữ”. “Khoảnh” ở đây có thể hiểu là sự kiêu ngạo về tài năng viết chữ, bởi ông ý thức được giá trị của tài năng, luôn tôn trọng từng con chữ mình viết ra. Mỗi chữ ông viết như một món quà mà thượng đế trao cho bản thân nên chỉ có thể dùng những chữ ấy để trao cho những tấm lòng trong thiên hạ. Trong đời ông, ông không vì uy quyền mà trao chữ cho ai bao giờ: “Ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình viết câu đối bao giờ”. Đặc biệt, tấm lòng thiên lương ấy còn thể hiện trong việc ông đồng ý cho chữ viên quản ngục: “Ta cảm tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các người. Thiếu chút nữa ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”, tấm lòng của Huấn Cao với những con người quý trọng cái đẹp, cái tài.

Ở Huấn Cao ta còn thấy được trong ông vẻ đẹp của một con người có nghĩa khí, khí phách hơn người. Ông là người giỏi chữ nghĩa nhưng không đi theo lối mòn, dám cầm đầu một cuộc đại phản, đối đầu với triều đình. Khi bị bắt ông vẫn giữ tư thế hiên ngang, trước lời đe dọa của tên lính áp giải tù, Huấn Cao không hề để tâm, coi thường, vẫn lạnh lùng chúc mũi gông đánh thuỳnh một cái xuống nền đá tảng… Khi viên quản ngục xuống tận phòng giam hỏi han ân cần, chu đáo, Huấn Cao tỏ ra khinh bạc đến điều: “Ngươi hỏi ta muốn gì, ta chỉ muốn có một điều, là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây”. Vào thời điểm nhận tin dữ (ngày mai vào kinh chịu án chém), Huấn Cao bình tĩnh, mỉm cười.

Và đẹp đẽ nhất là cảnh cho chữ, cả ba vẻ đẹp của ông được hội tụ và tỏa sáng. Trên tấm vải trắng còn nguyên vẹn lần hồ, chữ Huấn Cao “vuông tươi tắn” nói lên hoài bão, tung hoành của một con người có khí phách. Ông không để tâm đến mọi điều xung quanh chỉ tập trung vào việc tạo ra những nét chữ tuyệt tác. Với việc quản ngục xin chữ, Huấn Cao cũng hiểu ra tấm lòng của quản ngục, trong những giây phút cuối đời đã viết chữ dành tặng viên quản ngục, dành tặng cho tấm lòng biệt nhỡn liên tài trong thiên hạ.

Viên quản ngục là người có số phận bi kịch. Ông vốn có tính cách dịu dàng, biết trọng những người ngay thẳng, nhưng lại phải sống trong tù – môi trường chỉ có tàn nhẫn, lừa lọc. Nhân cách cao đẹp của ông đối lập với hoàn cảnh sống tù đầy, bị giam hãm. Ông tự nhận thức về ki kịch của mình, bi kịch của sự lầm đường lạc lối, nhầm nghề. Nhưng dù vậy, trong quản ngục vẫn giữ được tâm hồn cao đẹp, tâm hồn của một người nghệ sĩ. Ông khao khát có được chữ của Huấn Cao để treo trong nhà, và nếu không xin được chữ ông Huấn quả là điều đáng tiếc. Nhưng xin được chữ của Huấn Cao là điều vô cùng khó khăn: bản thân ông là quản ngục, nếu có thái độ biệt nhỡn, hay xin chữ kẻ tử tù – Huấn Cao, chắc chắn sẽ gặp tai vạ. Hơn nữa Huấn Cao vốn “khoảnh” không phải ai cũng cho chữ.

Trong những ngày cuối cùng của ông Huấn, quản ngục có hành động bất thường, biệt nhỡn với người tử tù. Cũng như Huấn Cao, vẻ đẹp tâm hồn của quản ngục được thể hiện rõ nhất ở đoạn cho chữ. Ông trân trọng, ngưỡng mộ nên đã bất chấp tất cả để tổ chức một đêm xin chữ chưa từng có. Ba con người, ba nhân cách cao đẹp chụm lại chứng kiến những nét chữ dần dần hiện ra…, viên quản ngục khúm lúm cất từng đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ, với thái độ sùng kính, ngưỡng mộ cái đẹp. Trước những lời giảng giải của Huấn Cao, viên quản ngục chắp tay vái người tù một vái, “kẻ mê muội này xin bái lĩnh”.

Tác phẩm đã sáng tạo tình huống truyện vô cùng độc đáo. Với nghệ thuật xây dựng nhân vật đặc sắc, mỗi nhân vật mang một vẻ đẹp riêng, vẻ đẹp thiên lương, khí phách và trọng đãi người tài. Đồng thời tác phẩm cũng thành công khi Nguyễn Tuân đã gợi lên không khí cổ xưa nay chỉ còn vang bóng. Nhịp điệu câu văn chậm, thong thả, góp phần phục chế lại không khí cổ xưa của tác phẩm. Bút pháp đối lập tương phản vận dụng thành thục, tài hoa.

Qua truyện ngắn Chữ người tử tù, Nguyễn Tuân đã thể hiện niềm tin vào sự chiến thắng tất yếu của cái đẹp, cái thiên lương với cái xấu xa, tàn nhẫn. Đồng thời ông cũng thể hiện tấm lòng trân trọng những giá trị văn hóa truyền thống, qua đó kín đáo bộc lộ lòng yêu nước. Với nghệ thuật xây dựng tình huống đắc sắc, ngôn ngữ tài hoa đã góp phần tạo nên sự thành công cho tác phẩm.

Mẫu 2

Từ trước đến nay, tôi đã học được rất nhiều câu chuyện thần thoại hay và thú vị, nhưng câu chuyện tôi thích nhất vẫn là Thần Trụ Trời. Đọc câu chuyện đó, tôi không khỏi suy nghĩ và không khỏi xúc động. Truyện kể rằng vào thời trời đất còn hỗn loạn, tăm tối, có một vị thần khổng lồ. Thần dựng trời cao, rồi đào đất, nặn đá, dựng cột chống trời, khi trời đất phân tranh thì thần phá trụ. Sau khi hoàn thành công việc, xác bay lên trời để các vị thần khác tiếp tục xây dựng thế giới. Ồ! Tôi thích thân hình to lớn của thần rất nhiều vì tôi thấp và gầy. Tôi đã nhìn thấy những người to cao, nhưng không ai giống như thần. Tôi cứ ước, giá như mình có một thân hình và đôi tay như thần thánh, tôi sẽ là một cầu thủ xuất sắc, chỉ cần một bước chân là tôi có thể sút bóng vào khung thành đối phương. Thật thú vị! Không những thế, tôi còn ngưỡng mộ Chúa vô cùng. Chúa có rất nhiều đức tính tốt mà tôi không có. Trước hết, tôi yêu tất cả các loài động vật. Nếu không có tình yêu, tôi đã không nhọc công ngẩng đầu lên trời, kiên nhẫn đào đất, dựng cột chống trời. Làm công việc đó, thần vừa thể hiện tình yêu thương muôn loài, vừa thể hiện sự quyết tâm, cần cù, chịu khó. Khi xong việc, thần không đợi muôn loài báo đáp, lặng lẽ bay về trời, để lại những công việc còn lại cho các vị thần khác tiếp tục xây dựng cho thế giới, cho muôn loài có cuộc sống tốt đẹp hơn. Tôi nghĩ không có ai trên thế giới này có những đức tính tốt như Chúa. Câu chuyện về Thần Trụ Trời. là một câu chuyện thần thoại mà em thích, giúp em hiểu được quan niệm cổ xưa về sự hình thành của trời và đất.


Mẫu 3

 

Truyện Thần Trụ Trời nằm trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam thuộc nhóm truyện thần thoại suy vi, kể về nguồn gốc vũ trụ và muôn loài. Truyện không chỉ thu hút người đọc bởi cốt truyện đơn giản, dễ hiểu mà còn bởi những tình tiết kỳ ảo. Nổi bật trong truyện là chi tiết thần Cột dùng đầu đội trời rồi dùng tay bới đất dựng lên một cây cột vừa cao vừa to chống trời. Sau một thời gian, thấy cột khô cứng, thần phá cột ném đất đá đi khắp nơi tạo thành nhiều bề mặt khác nhau. Chi tiết này có ý nghĩa quan trọng trong việc giải thích sự phân chia của trời đất, nguyên nhân hình thành nhiều bề mặt địa hình như sông, hồ, núi, cao nguyên và di tích Cột Trời ở Hải Dương. Đồng thời, chi tiết đó đã thể hiện trí tưởng tượng phong phú của tác giả dân gian.

"Thần Trụ trời" với những đặc sắc trong chủ đề và hình thức nghệ thuật đã mang đến cho bạn đọc câu chuyện thú vị lí giải về nguồn gốc các sự vật trong tự nhiên. Đồng thời truyện cũng phản ánh mong muốn, khát khao được tìm tòi, khám phá của con người trong buổi đầu sơ khai. Mong rằng tác phẩm sẽ mãi để lại dấu ấn trong lòng bạn đọc yêu thích văn học dân gian của dân tộc.

Mẫu 4

Nguyễn Dữ sống ở thế kỉ XVI, quê ở Hải Dương, ông là "danh sĩ thời Lê Sơ". "Truyền kì mạn lục" do ông sáng tác đã đem lại nhiều ấn tượng trong lòng người đọc. Truyện được viết bằng chữ Hán gồm hai mươi truyện, ra đời vào nửa đầu thế kỉ XVI. Nguyễn Dữ đã ghi chép tản mạn những câu chuyện lạ trong dân gian thời Lý, Trần, Hồ, Lê Sơ với sự gia công, sáng tạo. Nổi bật trong tập truyện này, ta có thể kể đến "Chuyện chức Phán sự đền Tản Viên". Tác phẩm thể hiện rõ sự ngợi ca và khát vọng công lí của nhân dân trong đời sống, đồng thời lên án xã hội phong kiến đương thời với những kẻ tham lam, tàn bạo.

Câu chuyện kể về nhân vật Ngô Tử Văn với chiến thắng oanh liệt trước cái xấu, cái ác. Ngô Tử Văn tên là Soạn, người huyện Yên Dũng, Lạng Giang, chàng nổi tiếng trong vùng với "tính cách cương trực, khảng khái". Ở nơi chàng sinh sống có một ngôi đền rất thiêng. Vậy mà vào cuối đời nhà Hồ, khi "quân Ngô sang lấn cướp", "viên Bách hộ họ Thôi tử trận gần đó đã chiếm lấy ngôi đền và làm yêu làm quái trong dân gian". Ngô Tử Văn rất tức giận vì điều này, vì thế, chàng đã quyết định đốt đền. Sau khi về nhà, chàng lên cơn sốt, trong cơn mê man chàng thấy hồn ma tên bại tướng phương Bắc. Mặc cho tên tướng giặc đe dọa, uy hiếp rằng nếu không trả lại ngôi đền Tử Văn sẽ gặp phải tai vạ, chàng vẫn ung dung, bình thản. Thổ Công hiện lên kể lại toàn bộ sự việc mình bị hại cho Tử Văn và những tội ác tên hung thần gây ra. Vì vậy, trước mặt Diêm Vương, chàng đã dũng cảm tố cáo hồn ma viên Bách hộ. Cuối cùng, Tử Văn được Diêm Vương cho sống lại. Sau này, để đáp lại lời đề bạt của Thổ công, chàng đã nhận chức Phán sự ở đền Tản Viên.

Nguyễn Dữ đã thành công xây dựng nhân vật Ngô Tử Văn với tính cách thẳng thắn, dũng cảm. Không thể làm ngơ trước sự quấy phá của tên hung thần, Tử Văn đã "tắm gội sạch sẽ, khấn trời rồi châm lửa đốt đền". Hành động đốt đền của chàng có chủ đích, cẩn trọng và không phải là hành động bộc phát. Chàng tin rằng hành động của bản thân xuất phát từ những mục đích tốt đẹp, chàng muốn trừ khử tên tướng giặc để người dân có cuộc sống yên bình. Điều này cho thấy Ngô Tử Văn là một người dũng cảm, Tử Văn tin hành động chính nghĩa của mình sẽ được ông trời ủng hộ. Trước lời đe dọa của tên bại tướng phương Bắc, chàng vẫn tỏ ra điềm tĩnh, tự nhiên "Tử Văn mặc kệ, vẫn cứ "ngồi ngất ngưởng tự nhiên". Chàng đã vạch trần tội ác của tên hung thần và trả lại ngôi đền cho Thổ Công "Ngô Soạn này là một kẻ sĩ ngay thẳng ở trần gian, có tội lỗi gì xin bảo cho, không nên bắt phải chết một cách oan uổng", "Nếu nhà vua không tin lời tôi, xin tư giấy đến đền Tản Viên để hỏi; không đúng như thế, tôi xin chịu thêm cái tội nói càn". Từ nhân vật Ngô Tử Văn, tác giả muốn đề cao sự nhân nghĩa, dũng cảm của con người. Những đức tính này giúp con người có thể sống vì cộng đồng, vì hạnh phúc nhân dân. Việc Ngô Tử Văn nhận chức Phán sự đền Tản Viên còn thể hiện ước mơ của nhân dân về sự công bằng trong xã hội.

Trái ngược với Tử Văn, viên Bách hộ họ Thôi đại diện cho sự gian xảo. Một tên tướng bại trận lưu vong nơi đất khách mà cướp ngôi đền của Thổ thần để tác oai, tác quái, gây bao phiền nhiễu cho dân lành, hắn còn xảo trá tới mức đút lót, dọa nạt những tên quỷ Dạ Xoa.

Tác phẩm còn lên án, tố cáo chế độ phong kiến đương thời với những tên tham quan, chà đạp lên đời sống của người dân. Điều này được thể hiện rõ nhất qua không gian kì ảo ở thế giới âm ti. Nhân vật kì ảo Diêm Vương được khắc họa là một người chính trực, phán xử đúng tội. Khi biết được lũ quỷ sai thông đồng với hồn ma tên hung thần, người đã "sai lấy lồng sắt chụp vào đầu, khẩu gỗ nhét vào miệng, bỏ người ấy vào ngục Cửu U". Câu nói của Diêm Vương thể hiện sự răn đe những tên tham quan "Lũ các ngươi chia tòa sở, giữ chức sự, cầm lệnh chí công, làm phép chí công, thưởng thì xứng đáng mà không thiên vị, phạt thì đích xác mà không nghiệt ngã, vậy mà còn có sự dối trá càn bậy như thế; huống chi về đời nhà Hán, nhà Đường buôn quan bán ngục, thì những mối tệ còn nói sao hết được!"

Cốt truyện kịch tính, hấp dẫn, sự đan xen giữa các yếu tố thực và ảo dày đặc cũng làm nên sức hút cho tác phẩm. Yếu tố kì áo có thể kể đến như: nhân vật kì ảo (hồn ma tên tướng giặc, quỷ Dạ Xoa, Diêm Vương, Thổ công), chi tiết kì ảo: Tử Văn chết đi sống lại; chàng nhận chức Phán sự đền Tản Viên. Yếu tố thực trong tác phẩm: địa danh có thật (vùng đất Lạng Giang), thời gian lịch sử (cuối đời nhà Hồ). Ngoài ra, lối kể chuyện lôi cuốn và việc sử dụng ngôi kể thứ ba cũng góp phần giúp người đọc hình dung ra một cách khái quát sự kiện được nhắc tới. Lời bình cuối truyện đã góp phần thể hiện quan niệm của tác giả về kẻ sĩ.

Truyện ngầm phản ánh xã hội phong kiến đương thời nhiều bao nhiêu bất công với người dân nghèo khổ. Qua cuộc đấu tranh chống lại cái xấu, cái ác của Ngô Tử Văn, tác giả đã khẳng định niềm tin về sự chiến thắng của cái thiện. Đồng thời, tác giả cũng thể hiện khát vọng sống công bằng của nhân dân. Truyện đem lại cho chúng ta nhiều bài học ý nghĩa trong cuộc sống về sự dũng cảm, kiên cường, khảng khái khi đấu tranh trước cái xấu, cái ác.

Mẫu 5

Nguyễn Tuân là nhà văn "Suốt đời đi tìm cái đẹp". Nhà phê bình Nguyễn Đăng Mạnh đã nhận định rằng: "Nguyễn Tuân là một cái định nghĩa về người nghệ sĩ. Đối với ông, văn chương trước hết phải là văn chương, nghệ thuật trước hết phải là nghệ thuật, và đã là nghệ thuật thì phải có phong cách độc đáo. Nhưng Nguyễn Tuân, xét từ bản chất, không phải là người theo chủ nghĩa hình thức. Tài phải đi đôi với tâm. Ấy là "thiên lương" trong sạch, là lòng yêu nước thiết tha, là nhân cách cứng cỏi trước uy quyền phi nghĩa và đồng tiền phàm tục". Trước cách mạng tháng Tám, những tác phẩm của ông "thoát li khỏi hiện thực, tìm về một thời vang bóng" với những thú vui hết sức tao nhã: thưởng trà, uống rượu,... một trong số đó là thú chơi chữ. Thú vui này được tái hiện trong "Chữ người tử tù" in trong tập "Vang bóng một thời".

Tác phẩm ban đầu có tên là "Dòng chữ cuối cùng" và được in trên "tạp chí Tao Đàn", khi xuất bản thành sách, Nguyễn Tuân mới đổi tên truyện ngắn thành "Chữ người tử tù". Chủ đề tác phẩm được Nguyễn Tuân đề cập là "Cái đẹp có thể sinh ra từ cái xấu, cái ác nhưng không thể sống chung với cái xấu, cái ác".

"Chữ người tử tù" kể về nhân vật Huấn Cao với những phẩm chất cao đẹp và tài năng đặc biệt. Ông Huấn có tài viết chữ rất đẹp. Vì chống lại triều đình, Huấn Cao bị giam ở nhà ngục tỉnh Sơn, tại đây, ông đã có cuộc gặp gỡ éo le với viên quản ngục. Khi viên quản ngục biệt đãi với Huấn Cao, ông tỏ ra khinh thường. Nhưng sau khi thấy được tấm lòng "biệt nhỡn liên tài" của viên quản ngục, ông quyết định cho chữ. Vào buổi tối trước khi Huấn Cao bị xử tử, một cảnh tượng xưa nay chưa từng có đã xuất hiện. Người tử tù mang trên mình đầy xiềng xích đang viết ra những nét phóng khoáng trên nền lụa trắng còn viên quản ngục lại khúm núm, run rẩy chờ đợi. Sau khi viết xong, Huấn Cao khuyên viên quản ngục nên tìm một nơi yên bình sống để giữ gìn tấm lòng thanh cao, yêu cái đẹp. Cảm động trước lời nói của Huấn Cao, viên quản ngục đã cúi đầu lạy tạ người tử tù với sự biết ơn, trân trọng.

Nghệ thuật xây dựng nhân vật được Nguyễn Tuân sử dụng một cách tài tình. Truyện ngắn đã khắc họa nhân vật Huấn Cao nổi bật lên với ý chí anh hùng, bất khuất, tài hoa, uyên bác, lương thiện. Ông cầm đầu cuộc khởi nghĩa phản đối triều đình, khi bị bắt, ông vẫn giữ tư thế hiên ngang. Trong phần trò chuyện giữa viên quản ngục và thầy thơ lại đầu truyện, ta cũng có thể nhận thấy được tài năng của ông Huấn "Huấn Cao! Hay là cái người mà vùng tỉnh Sơn ta vẫn khen cái tài viết chữ nhanh và rất đẹp đó không?". Tài năng của ông được nhiều người biết đến và ca tụng. Chữ của ông chỉ trao cho những "tấm lòng trong thiên hạ", ông không vì quyền lực, vàng bạc mà ép mình viết chữ "Ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình viết câu đối bao giờ". Không chỉ có tài năng, Huấn Cao còn mang trong mình tấm lòng lương thiện, sau khi nhận thấy tấm lòng viên quản ngục, ông đã quyết định cho chữ "Ta cảm tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các ngươi. Nào ta có biết đâu một người như thầy quản đây mà lại có những sở thích cao quý như vậy. Thiếu chút nữa ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ". Qua nhân vật Huấn Cao, ta có thể nhận thấy quan điểm nghệ thuật của Nguyễn Tuân "cái đẹp đi liền với cái tâm".

Viên quản ngục cũng được khắc họa một cách ấn tượng trong tác phẩm. Ông là người ngay thẳng, yêu cái đẹp nhưng phải sống ở nơi đầy gian dối, tàn nhẫn. Trong hoàn cảnh đó, viên quản ngục vẫn cố giữ sự trong sạch cho tâm hồn, ông mong muốn có được chữ của Huấn Cao để treo trong nhà. Khi nghe lời khuyên của Huấn Cao, hành động của viên quản ngục đã thể hiện vẻ đẹp tâm hồn ông "Ngục quan cảm động, vái người tù một vái, chắp tay nói một câu mà dòng nước mắt rỉ vào kẽ miệng làm cho nghẹn ngào: "Kẻ mê muội này xin bái lĩnh".".

Với tình huống truyện độc đáo, cuộc gặp gỡ đầy éo le giữa Huấn Cao và viên quản ngục đã để lại dấu ấn khó phai cho người đọc. Thủ pháp đối lập cũng là một điểm nhấn. Ta có thể nhận thấy sự đối lập về địa vị xã hội và bản tính của hai nhân vật: một người là tử tù với tài năng và khí phách hiên ngang, một người là viên quản ngục đại diện cho luật lệ, trật tự xã hội đương thời. Tác phẩm còn làm nổi bật sự đối lập giữa cái đẹp với cái dơ bẩn, giữa ánh sáng và bóng tối trong cảnh cho chữ. Không gian cho chữ là một phòng giam tối tăm, đối lập với "tấm lụa bạch còn nguyên vẹn lần hồ". Sự đối lập, đảo ngược vị thế của người tử tù và viên quản ngục: Người tù thì hiên ngang phóng những nét bút thể hiện hoài bão tung hoành của một đời người, còn viên quản ngục lại khúm núm chờ đợi "Một người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng, đang dậm tô nét chữ trên tấm lụa trắng tinh căng phẳng trên mảnh ván. Người tù viết xong một chữ, viên quản ngục lại vội khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ đặt trên phiến lụa óng". Bằng ngôn ngữ tinh tế, nhịp điệu câu văn chậm, truyện ngắn gợi lên cho người đọc không gian cổ xưa của một thời vang bóng. Ngôi kể thứ ba được sử dụng giúp người đọc có hình dung khái quát về hoàn cảnh, tính cách mỗi nhân vật.

Xuyên suốt tác phẩm, Nguyễn Tuân đã thể hiện niềm tin về sự tỏa sáng của cái đẹp ngay cả trong không gian tồn tại của cái xấu, cái ác. Qua "Chữ người tử tù", nhà văn muốn khẳng định sự tồn tại của cái đẹp trong cuộc sống, nó có thể cứu rỗi linh hồn và giúp người với người gần gũi, hiểu nhau hơn. Truyện ngắn đã đem lại cho chúng ta những ấn tượng khó quên.

Mẫu 6

Chiến tranh qua đi, để lại biết bao mất mát tổn thương. Đó không chỉ là những nỗi đau về vật chất mà còn là nỗi đau về tinh thần. Như vết cứa rất sâu vào trái tim của con người, đặc biệt là những người phụ nữ. Truyện ngắn Người ở bến sông Châu là một truyện ngắn như thế, thấm đượm giá trị nhân văn và tình yêu thương, ca ngợi con người mà đặc biệt là những người phụ nữ.

Câu truyện xoay quanh về nhân vật dì Mây. Cô gái trẻ trung xinh đẹp, tóc dì đen dài, óng mượt "Dì đẹp gái nhất làng, có khối trai làng ra bến sông ngó trộm dì mày tắm”. Trước khi đi xung phong dì có mối tình đẹp đẽ, trong trẻo với chú San. Nhưng phải chia tay nhau vì chú San đi học nghề ở nước ngoài. Còn dì thì xung phong làm cô y sĩ Trường Sơn. Hoàn cảnh trớ trêu đã đẩy chú dì vào cảnh người mỗi ngả chia li cách biệt. Có thể thấy chiến tranh, bom đạn thật tàn nhẫn khi đã đẩy họ vào hoàn cảnh tách biệt.

Khi từ chiến trường bom đạn chờ về. Dì Mây bị đạn phạt vào chân, phải đi tập tễnh, bằng chân giả. Tuy nhiên nỗi đau thể chất đó không thấm vào đâu khi ngày dì trở về cũng là ngày dì phải chứng kiến người đàn ông mình yêu thương, nghĩ tới nhiều nhất, người đàn ông mà dì viết tên hằng ngày vào cuốn nhật kí ở Trường Sơn đã đi lấy người phụ nữ khác. Thử hỏi làm sao dì có thể chịu đựng được cú sốc tinh thần dã man tới vậy, lòng người con gái giờ đây là sự hụt hẫng, bàng hoàng, trớ trêu và đầy tuyệt vọng. Nhưng trong hoàn cảnh tuyệt vọng đó ta vẫn thấy được sự kiên cường, mạnh mẽ của dì Mây. Thái độ của dì rất cương quyết, thể hiện sự bản lĩnh kiên cường của người phụ nữ. Dì nhất quyết không đồng ý trước lời đề nghị “Mây, chúng ta sẽ làm lại” của chú San. Trước sự thể đã rồi dì nhận phần thiệt thòi về mình, dì chỉ muốn một người đàn bà khổ. Có thể thấy dù đau đớn, tuyệt vọng nhưng dì vẫn nén vào trong, dì là đại diện cho phẩm chất kiên cường của những người phụ nữ bước ra từ chiến tranh và bom đạn

Ở dì Mây còn nổi bật lên phẩm chất tốt bụng, vị tha và bao dung. Khi dì Mây nghe tin cô Thanh vợ chú San khó sinh cô Thanh đẻ thiếu tháng lại tràng hoa quấn cổ dì đã ngay lập tức giúp đỡ không hề suy nghĩa, đắn đo điều gì. Mặc dù ở vào hoàn cảnh của dì việc làm đó chẳng hề dễ dàng, nhưng dì vẫn không chút e ngại, chần chừ, suy nghĩ gì mà lập tức tới giúp đỡ cô Thanh vượt qua cơn nguy hiểm, để mẹ tròn con vuông.

Có thể thấy dì Mây hiện lên với rất nhiều những phẩm chất cao thượng, tốt đẹp, dì đại diện cho những người con gái Việt Nam sẵn sàng hi sinh thầm lặng, đánh đổi cả thanh xuân tuổi trẻ và hạnh phúc của cá nhân mình vì những điều lớn lao khác.

Mẫu 7

Không phải ai cứ muốn là có thể trở thành nghệ sĩ, dù niềm mong muốn đó có mãnh liệt, thiết tha đến đâu. Để trở thành một nghệ sĩ, điều kiện cần thiết đầu tiên là phải có tài, hay nói cách khác là một cái gì đó thuộc về năng khiếu bẩm sinh. Nhưng tài chưa đủ, người đó cần phải có một cái tâm trong sáng, một nhân cách cao đẹp. Thương đời, lo cho đời, cho con người, từ đó nhà văn mới có những mong ước cao đẹp, ý thức trách nhiệm, ý thức thiên chức của một “kĩ sư tâm hồn” và tài năng của mình được phát huy cao độ. Cái tài chính là khả năng tối ưu của nhà nghệ sĩ thực hiện những dự định cao cả, để đáp ứng những đòi hỏi khắt khe của nghệ thuật. “Nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo, vì vậy nó đòi hỏi người sáng tác phải có phong cách nổi bật, tức là có nét gì đó rất riêng, mới lạ thể hiện trong tác phẩm của mình”.

Nghệ thuật nói chung và văn học nói riêng là “lĩnh vực của cái độc đáo”. Đó chính là một hoạt động của con người ở lĩnh vực văn hoá tinh thần. Người sáng tạo và hoạt động sáng tạo, sản phẩm sáng tạo phải đáp ứng được những đòi hỏi đặc thù của lĩnh vực nghệ thuật đó: sự “độc đáo”. Đối với lĩnh vực khoa học thực nghiệm điều khác là rõ ràng, nhưng ngay trong từng bộ môn nghệ thuậi cũng phải có những đặc trưng riêng. Trong văn chương cũng phải như thế.

Bán thân nghệ thuật (trong đó có văn chương) là lĩnh vực của cái mới lạ, cái đẹp mà trong cái đẹp đã bao hàm sự độc đáo. Vì thế, nó đòi hỏi rất cao ở người nghệ sĩ năng lực sáng tạo.

Quá trình sáng tạo tác phẩm văn học là một quá trình sản xuất riêng lẻ, cá biệt. Nó không chấp nhận sự sản xuất hàng loạt rập khuôn, máy móc. Người nghệ sĩ phải là người vừa thiết kế vừa thi công công trình của mình chứ không phải là ai khác. Nói như Xuân Diệu “sáng tác thơ là một việc do cá nhân thi sĩ làm”. Và khi thơ ra đời, nó phải đem lại cho người đọc những điều người ta chưa biết, chưa rõ, những điều mới lạ trong cuộc sống. Mà muốn thực hiện được điều đó thì không dễ dàng một chút nào, “nó đòi hỏi người sáng tác phải có phong cách nổi bật”.

Con người thường có những mơ ước sáng tạo. Và người nghệ sĩ cũng vậy Nói như Xuân Quỳnh, làm thơ viết văn trước hết là “đáp ứng nhu cầu sáng tạo và nhu cầu nối liền mình với thế giới và sự vặt xung quanh”. Bản thân một nhà văn chân chính không thể giẫm chân lên con đường mà người khác đã mở. Họ muốn tìm tòi, khám phá, sáng tạo, “khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những cái gì chưa có” (Nam Cao). Nếu không có phong cách thì, trước hết là không khẳng định được mình, bản ngã mình, cái tôi của mình. Phong cách cũng là sức mạnh của người nghệ sĩ trong thiên chức của mình, bởi phong cách “tức là có nét gì đó rất riêng, mới lạ thể hiện trong tác phẩm của mình”.

Nếu như khoa học đôi khi loại bỏ cái “tôi” của người sáng tạo thì nghệ thuật nói chung và văn chương nói riêng lại ngược lại. Đến với tác phẩm là ta đến với đứa con tinh thần của người nghệ sĩ. Người nghệ sĩ muốn thể hiện bản sắc riêng của mình qua tác phẩm. Đó là nét gì đó “rất riêng, mới lạ” mà không ai có được. Có thể là cách cảm, cách nghĩ, cách nhìn và cách viết. Sự độc đáo, mới lạ đó có từ trong tư tưởng của nhà văn và thể hiện qua những biểu hiện riêng. Nói “nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo, vì vậy nó đòi hỏi người sáng tác phải có phong cách nổi bật” tức là đòi hỏi điều đó. Phong cách là yêu cầu của nghệ thuật và cũng là ước muốn chủ quan của người nghệ sĩ. Độc đáo trong nghệ thuật, trước hết là sự độc đáo trong cách nghĩ, cách biểu hiện của nhà vãn.

Nhưng không phải ai cũng tạo được cho mình một phong cách riêng độc đáo. Đối với những tác giả không có tài năng hoặc mới có quá ít tác phẩm thì phong cách chưa thể có một cách trọn vẹn. Chỉ có những nhà văn lớn, thực sự có tài thì mới có phong cách riêng của mình. Nam Cao là một trong số ít tên tuổi đó.

Nam Cao mất khi còn trẻ. Nhưng sự nghiệp văn học của ông để lại khiến bất cứ ai cũng phải kính nể. Mấy chục truyện ngắn về đề tài người nông dân rất xuất sắc trong đó có kiệt tác Chí Phèo, và hàng loạt tác phẩm về đề tài người trí thức trong đó có những tác phẩm được đánh giá cao như Đời thừa, sống mòn,... Trong những đứa con tinh thần đó, Nam Cao đã để lại cái “tôi” sắc nét của mình, cái “tôi” của nhà văn chân chính luôn có những sự “đào sâu suy nghĩ, khơi những nguồn chưa ai khơi, và sáng lạo những cái gì chưa có”, tạo nên cái “gì đó rất riêng, mới lạ ” trong tác phẩm của ông.

Cũng là một nhà văn hiện thực phê phán cùng thời với Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Nguyên Hồng... nhưng Nam Cao lại có những nét rất khác biệt với những tác giả ấy. Nếu họ thường tiếp cận đời sống ở những bình diện xã hội rộng lớn thì Nam Cao lại khám phá ở góc độ đời thường, với những số phận nhỏ bé. Đi vào tác phẩm của Nam Cao, ta toàn gặp những chuyện đời thường nhỏ nhặt như Một bữa no, Một chuyện xúvơnia, Một đám cưới, Nửa đêm, Làm tổ,...; với những số phận rất cụ thể hiện nay ở đầu đề như Lão Hạc, Chí Phèo, Dì Hảo...; với nhữg trạng thái sinh động của con người như Cười, Nước mắt, Đời thừa,… Ngay cả trong tiểu thuyết của ông như Chuyện người hàng xóm, sống mòn cũng vậy. Phạm vi bao quát của các tác phẩm tiểu thuyết có thể có quy mô rộng lớn hơn, nhưng trong văn của ông ta cũng chỉ gặp một xóm. Bài thơ, một ngôi trường ngoại ô. Và trong đó, con người vẫn hiện lên trong cuộc sống đời thường, với những gì thật nhất, quen thuộc nhất. Họ sống với nhau, họ yêu thương nhau, cãi lộn nhau và còn hằm hè, khinh bỉ nhau nữa. Dường như đối với Nam Cao, quan tâm đến số phận con người thì trước hết hãy quan tâm đến con người đời thường, xem họ sống ra sao, trước khi có thể gợi họ là con người giai cấp, con người xã hội.

Nhưng vượt khỏi cái phạm vi đời thường nhỏ hẹp, quanh quẩn bên cuộc sống của người nông dân và người trí thức nghèo, Nam Cao luôn gửi gắm qua tác phẩm một ý nghĩa triết lí nhân sinh, triết lí xã hội sâu sắc và thâm trầm. Chính sự tìm tòi, khám phá, phát hiện từng cảnh đời, mảnh đời nhỏ bé đó mà Nam Cao đã thấy sâu sắc hơn hết chiều sâu tội ác của xã hội. “Ngươi nọ, người kia không đáng để ta khinh ghét. Cái đáng nguyền rủa là cái xã hội kia. Nó đã tạo ra những con người tham lam và ích kỉ” (Sống mòn). Chính xã hội xấu xa là nguyên nhân đẩy con người tới chỗ cùng cực về vật chất, tha hoá vẻ tâm hồn. Tiếng kêu từ tác phẩm của ông là tiếng kêu đòi phá tan cái xã hội vô nhân đạo để trả lại quyền sống cho con người. Nhưng tiếng nói bức thiết hơn trong tác phẩm của ông lại chính là lời cảnh tỉnh con người hãy giữ lấy nhân cách, nhân phẩm của mình trước những lo toan tủn mủn. những tính toán vật chất đời thường, cụ thể hơn là nỗi lo để có được sự sống, có miếng cơm manh áo. Không có nổi đau đời, không có cái tâm với con người, làm sao nhà văn viết được những tác phẩm gây xúc động như sống mòn, Nước mắt hay Quên điều độ..

Nam Cao nhìn nhận con người dưới góc độ nhân cách. Nói như Giáo sư Nguyền Đăng Mạnh, “Nam Cao là người hay bân khoăn về vấn đề nhân phẩm của con người". Ông khám phá ra họ, soi sáng nhân cách của họ bằng những thử thách của miếng cơm manh áo, của vật chất đời thường. Cái đó và miếng ăn là những vấn đề nổi cộm trong sáng tác của Nam Cao. Con naười trí thức hay người nông dân cũng vậy, họ đều trong một cuộc giằng đấu quyết liệt vì cái chuyện cơm áo hằng ngày. Đọc tác phẩm Nam Cao, nhiều khi ta trào nước mắt vì thương cảm. Chao ôi, trong tác phẩm của ông, hầu hết các sương mặt đều nhợt nhạt đi vì đói. Bộ điệu của họ mới thảm hại, xốc xếch làm sao. Họ đang phải đấu tranh cho sự sinh tồn của mình trước cái đói ghê gớm. Họ đang đứng trước bờ vực thẳm, ranh giới giữa nhân phẩm và cái xấu xa, đê tiện của con người. Mà theo Nam Cao, ai vượt qua được thử thách khốc liệt của miếng cơm manh áo này thì mới là con người, còn ai gục ngã trước nó thì là những con người tha hoá về nhân cách, nhân phẩm. Ông đã làm như vậy để cứu con người khỏi sự xấu xa, đê tiện, gọi con người về với cái thiện lương tối đẹp của mình bằng cách làm cho con người tự hổ thẹn vì những chuyện mà ông “không muốn viết” của mình.

Đúng là nhân vật của Nam Cao quằn quại trong miếng cơm manh áo, con người ta xấu đi, ti tiện và bị lăng nhục cũng vì Trẻ con không được ăn thịt chó tham lam và ích kỉ đến độ quên cả những đứa trẻ khốn khổ chờ một chút ăn thừa. Là bà cụ trong Một bữa no chỉ vì đói quá, ăn chực bữa cơm để rồi “chết no” một cách khốn khổ để bia miệng ở đời, bị người ta lôi ra mà xỉ vả, mà làm gương răn dạy kẻ hầu người hạ. Rồi cụ Lộ trong Tư cách mõ từ một con người hiền lành, lương thiện bỗng trở thành "mõ chính tông” cũng đê tiện, lì lợm tham ăn, hễ thấy nhà nào lách cách mâm bát là đến ngay, để rồi bị người đời khinh rẻ. Chí Phèo trong truyện ngắn cùng lên cũng bị người ta xa lánh bởi Chí đã nhận tiền của Bá Kiến rồi đi sây gổ. Đau đớn lắm, thương xót lắm, nhưng ta cũng giận họ biết bao nhiêu. Và xót xa hơn là những con người trí thức cũng bị cắn rút bởi miếng cơm manh áo. Điền khổ, Hộ khổ, Thứ khổ vì không đủ tiền nuôi gia đình; khổ vì cứ muốn bay cao lên với những ước mơ cao đẹp nhưng lại bị miếng cơm manh áo “ghì sát đất”. Hộ đâm ra giận dữ với vợ con, mang tất cả cái khổ nghề nghiệp vì cuộc sống ra mà đổ lên đầu những người thân yêu. Anh đối xử phũ phàng, thậm chí có lúc anh đã nguyền rủa họ. Thứ trong tiểu thuyết sống mòn cũng khổ sở không kém. Cả một nhóm trí thức đến bữa ăn cãi nhau toang toang như họp làng, chi li từng đồng liền bát gạo, nghĩ xấu về nhau, chơi xỏ nhau, xỉ nhục nhau,... Nhìn nhừng con người như thế ta không đớn đau sao được?

Lạnh lùng miêu là họ, nhưng Nam Cao không vùi dập họ, ông chỉ cảnh tỉnh con người hãy giữ vững nhân cách của mình trước hiện thực xấu xa, đầy những độc tố. Ông mô tả những con người tha hoá, lưu manh và ông cũng rất thiết tha ca ngợi những con người đã biết vươn lên hoàn cảnh để giữ vững nhân cách tốt đẹp. Anh Đĩ chuột (Nghèo) thà thắt cổ tự tử chứ không để vợ con nợ nần thêm những món tiền để phục dịch mình. Lão Hạc dù nghèo dù khổ, dù không muốn động vào món tiền của con lão cũng không làm những việc như xin bả đánh chó. Lão chết bằng nắm bả xin của Binh Tư để giữ phẩm giá của mình. Cách giải quyết như thế là tiêu cực, nhưng biết làm sao được khi lão sống trong một xã hội phi nhân tính. Lão chết nhưng nhân cách trong sáng và cao đẹp của lão còn mãi. Hay những Thứ, những Hộ,... cũng vậy, dù có bị cuộc đời quăng quật, có lúc đã không giữ được tư cách một trí thức chân chính, nhưng rồi rốt cuộc, những con người đó đều biết hổ thẹn, tự vấn lòng và thấy mình như “một thằng khốn nạn” rồi họ khóc vì hối hận, để rồi ngày mai họ có thể sẽ sống đẹp hơn, tốt hơn.

Với Nam Cao, nhân phẩm của con người là nỗi niềm trăn trở day dứt nhất. Ông luôn muốn con người ta phải sống đẹp hơn, thiện hơn trong mỗi giây phút của đời minh và không hao giờ bị sai ngã vì những cái nhỏ mọn. Ông cảnh tỉnh những kẻ đánh mất nhân cách, ông xót xa cho những người bị lăng nhục và ông ca ngợi những tâm hồn cao đẹp. Phải chăng đó là điều tạo nên giá trị nhân đạo sâu sắc trong sáng tác của Nam Cao?

Tôn trọng hiện thực khách quan là đặc điểm của văn học hiện thực phê phán. Nhưng không giống như các nhà văn đương thời, Nam Cao tái lạo hiện thực bằng một bút pháp khách quan, lạnh lùng đến độ tàn nhẫn chứ không đến mức cay chua, phẫn uất như Vũ Trọng Phụng hay yêu thương biểu hiện ngay trên từng câu, từng chữ, dù chỉ đọc được một đoạn cũng có thể cảm nhận được chủ nghĩa nhân đạo thống thiết như các tác phẩm của Nguyên Hồng. Còn nhà văn Nam Cao thì lại tâm niệm: Tôi đóng cũi sắt tình cảm của tôi. Ông viết như để người đọc tưởng không có tình cảm của mình trong đó. Rất hiếm hoi trong tác phẩm ông bộc lộ cảm xúc trực tiếp của mình. Tác phẩm của ông là những trang đời chân thực nghiệt ngã tựa hồ có ý để mặc cho người đọc suy ngẫm và chiêm nghiệm.

Nam Cao chủ trương lách ngòi bút vào đáy sâu của sự thật để phanh phui tất cả hiện thực phũ phàng, tàn nhẫn nhuộm đen tầm hồn con ngưòi, phá vỡ quan hệ tốt đẹp giữa người với người. Tất cả những cái đẹp tốt hay dở của con người, từ chuyện người ta chết chỉ vì một bữa ăn quá no, chuyện một con người bị lưu manh hoá, đến những chuyện cơm áo thường nhật, những ý nghĩ xấu xa, cả những chuyện ti tiện của con người như cãi nhau, hằm hè nhau,... đều được phơi bày ra một cách không thương tiếc. Có người trách Nam Cao sao tàn nhẫn quá, tàn nhẫn tưởng như bôi xấu con người, hạ thấp con người. Trước những cảnh khổ mà nhà văn phải dửng dưng, phải mổ xẻ mà phân tích. Truyện của Nam Cao nhiều lúc kết thúc không có hậu, con người thì toàn những “cái mặt không chơi được”, có khi xấu xí đến dị hình dị dạng. Nhà văn dám nói những điều người ta không dám nói, lại bằng cái giọng lạnh lùng, tàn nhẫn nên có lúc ai đó đã nghi ngờ giá trị nhân đạo trong tác phẩm Nam Cao. Không, Nam Cao là một con người cao cả, một con người “biết tin ở tài mình, ở thiên chức của mình” (Hà Minh Đức), ẩn sau cái lạnh lùng, tàn nhẫn ấy là một tấm lòng thiết tha, sôi nổi với đời, với người. Ông làm cho người thấy xấu hổ vì cái xấu để mà sống tốt. Nếu không phải là người có một tấm lòng nhân ái cao độ thì ông đã chẳng thấu hiểu được bi kịch trong những nhân vật như Hộ, như Điền, như Thứ. Chính bút pháp khách quan, lạnh lùng này đã khiến ngòi bút Nam Cao lách sâu được vào sự thật, có sự đào sâu, tìm tòi mới mẻ trong cả đề tài người nông dân và đề tài người trí thức - những đề tài đã quá quen thuộc trong văn học; nhưng chưa ai nói được một cách sâu sắc, thâm thía bi kịch tinh thần trong cuộc sống của người trí thức hay thảm hoạ bị lưu manh hoá, bị xã hội làm thay đổi cả nhân hình lẫn nhân tính của người nông dân như nhà văn Nam Cao.

Những nhà văn hiện thực khác thường xây dựng nhân vật qua hành động, bằng cốl truyện. Nam Cao khắc hoạ nhân vật của mình bằng cách đi sâu vào nội tâm nhân vật. Ông có năng lực phân tích tâm lí sắc sảo để làm rõ bản chất nhân vật. Nam Cao sử dụng những dòng độc thoại nội tâm để nhân vật tự thể hiện mình, vì vậy, nhân vật cùa Nam Cao thường hiện lên qua tác phẩm trong những dòng suy tưởng. Chẳng ai có thể tin Hộ là người thương vợ con, có ý thức trách nhiệm với nghề nghiệp nếu chỉ toàn thấy những hành động cục cằn. thô lỗ của anh mà không đọc những suy ngẫm của anh về gia đình, về nghề nghiệp qua những đoạn nhà văn để cho Hộ tự độc thoại. Hộ không thể tàn nhẫn với Từ, và Hộ không cẩu thả trong văn chương, bởi anh nghĩ rằng sự cẩu thả trong văn chương là đê tiện.

Nam Cao rất ít khi miêu tả thiên nhiên, miêu tả ngoại hình nhưng nếu có thì cũng chỉ để khắc hoạ tâm lí nhân vật. Chí Phèo đang trong trạng thái say, chân bước loạng choạng, nên tàu lá chuối cũng được tả như “giẫy đành đạch" Thứ (Sống mòn) đang buồn khổ vì cuộc đời, tâm lí đang có phần suy sụp nền Nam Cao viết: “Mắt y đã nghiêm trang, trán y đã lo âu”... Và có lẽ chính việc để nhân vất, đặc biệt là nhân vật trí thức, suy tưởng nhiều nên trong tác phẩm của Nam Cao luôn có giọng điệu triết lí sâu sắc. Những triết lí về đời, về thái độ của con người như “nước mắt là miếng kính biến hình của vũ trụ”, “con người ta chỉ xấu xa trước đôi mắt ráo hoảnh cùa phường ích kỉ” (Nước mắt) hay “văn chương không cần đến những người thợ khéo tay, làm theo một kiểu mẫu đưa cho...” (Đời thừa). Những triết lí về nghề nghiệp là những điều thường gặp trong tác phẩm của ông. Đó cũng là một nét “rất riêng, mới lạ” của nhà văn này.

Phong cách cùa nam Cao - những cái nét “rất riêng, mới lạ" thể hiện trong sáng tác của ông - chính là hướng tiếp cận cuộc sống rất đặc biệt. Ông có cách nhìn nhận và đánh giá, quan làm đến con người không giống ai. Tất cả những trăn trở, suy tư tưởng hiện thực, cách cảm, cách nghĩ của ông lại được thể hiện trong một lối đặc sắc. Người ta không thể lẫn Nam Cao với một ai khác.

Sau Cách mạng tháng Tám, trong tư tưởng nghệ thuật của Nam Cao có nhiều thay đổi nhưng tài năng, phong cách của ông không vì thế mà phai nhạt đi. Dù cơ bản chỉ để lại truyện Đôi mắt nhưng Nam Cao vẫn chứng tỏ được mình. Đôi mắt vẫn mang những nét cơ bản trong phong cách Nam Cao. Ông viết về những vấn đề rất lớn lao cùa đất nước nhưng lại thể hiện nó trong môi trường nhỏ hẹp: trong gia đình của nhân vật Hoàng. Câu chuyện có ý nghĩa rất lớn lao nhưng lại được thể hiện chủ yếu qua đối thoại của hai văn sĩ lâu ngày gặp nhau nhận xét về người nông dân mình. Ông ít để cho nhân vật hành động mà để cho nhân vật tự nói nhiều, như một thủ pháp độc thoại vậy. Và ông vẫn dùng ngòi bút miêu tả khắc hoạ tâm lí sắc sảo của mình đối với từng nhân vật.

Phong cách của Nam Cao được thể hiện khá rõ ràng và nhất quán, chỉ tiếc ông hi sinh quá sớm, khi tài năng đang ở độ chín. Nhưng với những gì còn để lại cho đời, ông đã chứng tỏ được phong cách của mình, cái tài, cái tâm của mình. Nam Cao đúng là một trong số không nhiều nhà văn đáp ứng được đòi hỏi khắt khe của sự sáng tạo nghệ thuật.

Mẫu 8

Thần Trụ Trời” là một tác phẩm dân gian truyền miệng của người Việt cổ được sản sinh từ thời tối cổ và còn tồn tại đến ngày nay, được nhà khảo cứu văn hóa dân gian Nguyễn Đổng Chi sưu tầm, kể lại bằng bản văn trong “Lược khảo về thần thoại Việt Nam”. Qua truyện thần thoại này, người Việt cổ muốn giải thích nguồn gốc các hiện tượng thiên nhiên như vì sao có trời, có đất và vì sao trời với đất lại được phân đôi, vì sao mặt đất lại không bằng phẳng có chỗ lõm có chỗ lồi, vì sao có sông, núi, biển, đảo.

Cho thấy người Việt cổ cũng như nhiều dân tộc khác trên thế giới này đã cố gắng tìm để hiểu rõ những gì có xung quanh họ. Vì cũng chưa tìm hiểu được nhưng họ lại không chịu bó tay, họ bèn sáng tạo ra một vị thần khổng lồ để giải thích tự nhiên vũ trụ một cách hết sức ngây thơ và đáng yêu. Độc giả ngày nay cảm nhận được trong đó cái hồn nhiên và ước mơ của những người Việt cổ muốn vươn lên để giải thích thế giới tự nhiên quanh mình.Mọi chi tiết kể và tả Thần Trụ Trời đều gợi những vòng hào quang, điểm tô tính chất kỳ lạ, phi thường của nhân vật, thần thoại. Truyện đã nhân cách hóa vũ trụ thành một vị thần.

Hành động đầu tiên khi Thần Trụ Trời xuất hiện là “vươn vai đứng dậy, ngẩng cao đầu đội trời lên, giang chân đạp đất xuống,…” cũng là hành động và việc làm có tính phổ biến của nhiều vị thần tạo thiên lập địa khác trên thế giới. như ông Bàn Cổ trong thần thoại Trung Quốc cũng đã làm giống hệt như vậy. Tuy nhiên vẫn có điểm khác biệt chính là sau khi đã xuất hiện trong cõi hỗn độn giống như quả trứng của vũ trụ, ông đạp cho quả trứng tách đôi, nửa trên là trời, nửa dưới là đất và ông tiếp tục đẩy trời lên cao, đạp đất xuống thấp bằng sự biến hóa, lớn lên không ngừng của bản thân ông chứ không phải như Thần Trụ Trời đã xây cột chống trời.

Như vậy cho thấy việc khai thiên lập địa của ông Thần Trụ Trời ở Việt Nam và ông Bàn Cổ ở Trung Quốc vừa có điểm giống nhau vừa có điểm khác nhau. Và đó cũng chính là nét chung và nét riêng có ở trong thần thoại của các dân tộc. Từ cái ban đầu vốn ít ỏi, người Việt cổ cũng như các dân tộc khác trên thế giới không ngừng bổ sung, sáng tạo làm cho nền văn học, nghệ thuật ngày một đa dạng hơn. Chúng ta cũng có thể đánh giá về kho tàng thần thoại Việt Nam đối với nền nghệ thuật Việt Nam như thế nào. Cũng nhờ nghệ thuật phóng đại mà các nhân vật thần thoại có được sức sống lâu bền, vượt qua mọi thời gian để còn lại với chúng ta ngày nay. Thần thoại đã tạo nên cho con người Việt Nam nếp cảm, nếp nghĩ, nếp tư duy đầy hình tượng phóng đại và khoáng đạt.

Truyện thần thoại “Thần Trụ Trời” vừa cho các bạn đọc biết được sự hình thành của trời đất, sông, núi, đá,…vừa cho thấy sự sáng tạo của người Việt cổ. Tuy truyện có nhiều yếu tố hoang đường, phóng đại nhưng cũng có cái lõi của sự thật là con người thời cổ đã khai khẩn, xây dựng, tạo lập đất nước.

Mẫu 9

Nhắc đến những câu chuyện cổ tích của nước ta, không thể bỏ qua truyện “Cây khế”. Đây được xem là một trong những tác phẩm truyện cổ tích đặc sắc nhất trong kho tàng truyện dân gian của nước ta.

Truyện kể về hai anh em nhà nọ mồ côi cha mẹ từ nhỏ, sống nương tựa vào nhau. Cha mẹ mất để lại cho hai anh em một cây khế và một chút ruộng vườn, của cải, tuy không khá giả nhưng hai anh em vẫn có cuộc sống no đủ. Từ khi người anh trai lấy vợ bỗng sinh ra lười nhác, mọi việc đều đổ hết lên đầu vợ chồng người em. Thậm chí sợ em tranh công nên anh trai đã chia gia tài, chiếm hết của nải, đẩy vợ chồng em ra túp lều nát với cây khế của cha mẹ để lại. Vợ chồng người em chăm chỉ làm lụng, chăm bẵm cho cây khế ra quả, chim quý đến ăn và đã trả công vợ chồng em trai bằng vàng bạc. Tiếng đồn đến tai người anh, người anh tham lam nên gạ đổi gia tài lấy cây khế. Chim quý cũng đến ăn và hứa trả ơn bằng vàng, nhưng vì tính tham lam vô độ của người anh nên đã bị chim quý hất xuống biển sâu. Cốt truyện tuy rất đơn giản, ngắn gọn nhưng chất chứa trong đó những bài học về cuộc sống vô cùng sâu sắc và thấm thía.

Truyện “Cây khế” phản ánh cuộc xung đột giữa hai tuyến nhân vật trong một gia đình, một bên là vợ chồng người em trai hiền lành, chăm chỉ, chịu khó; một bên là vợ chồng người anh trai tham lam, ích kỉ, chỉ nghĩ đến đồng tiền. Thông qua khai thác xung đột trong gia đình này, tác giả dân gian đã phản ánh chủ đề của chuyện đó là phê phán sự tham lam, ích kỉ của con người, ca ngợi những con người chịu khó, chăm chỉ, biết sống lương thiện, biết thế nào là đủ. Câu chuyện còn là lời cảnh tỉnh cho những ai đã và đang xem nhẹ tình anh em trong gia đình, cắt đứt tình máu mủ ruột rà chỉ vì những cái lợi trước mắt. Chủ đề truyện này không mới nhưng nó vẫn có giá trị không riêng với thế giới cổ tích mà còn cả xã hội hiện thực bây giờ.

Góp phần tạo nên thành công cho câu chuyện, ngoài giá trị của chủ đề và bài học sâu sắc trong truyện Cây khế thì không thể quên sự đóng góp của các hình thức nghệ thuật. Chính những hình thức nghệ thuật đặc sắc ấy đã giúp cho chủ đề và bài học trong truyện trở nên sâu sắc, thấm thía hơn và hấp dẫn độc giả hơn.

Yếu tố nghệ thuật đầu tiên cần kể đến đó là nghệ thuật tạo tình huống. Tình huống truyện chia gia tài, vốn rất quen thuộc trong truyện kể dân gian. Nhờ tình huống này bản chất xấu xa tham lam của vợ chồng người anh trai được bộc lộ. Tình huống thứ hai, góp phần giúp mạch truyện tiến triển là tình huống chim quý xuất hiện và ăn khế của vợ chồng em trai. Nhờ chim quý vợ chồng em trai được đền đáp xứng đáng cho tấm lòng, sự lương thiện của mình. Cũng nhờ chim quý mà vợ chồng người anh trai đã bị trừng trị thích đáng cho bản tính tham lam, mờ mắt vì tiền của mình. Nhân vật chim quý đóng vai trò là nhân vật chức năng, thế lực siêu nhiên, thay nhân dân thực hiện mong ước của họ. Đây cũng là kiểu nhân vật khá quen thuộc trong truyện cổ tích Việt Nam.

Xây dựng nhân vật giàu tính biểu trưng cũng là một nét nổi bật cho truyện cổ tích Việt Nam. Trong đó người anh trai là tuyến nhân vật đại diện cho kiểu người tham lam, chỉ nghĩ đến đồng tiền; nhân vật em trai là đại diện cho tuyến nhân vật bất hạnh, mồ côi, chịu nhiều thiệt thòi, cam chịu. Hai tuyến nhân vật chính - tà khá quen thuộc trong truyện cổ tích, là đại diện cho các kiểu người trong xã hội phân chia giai cấp thời bấy giờ.

Nét đặc sắc cuối cùng em muốn nói đến trong bài viết là cách khắc họa tính cách nhân vật thông qua ngôn ngữ, hành động của nhân vật. Nhân vật trong truyện cổ tích vốn chưa có những tâm lý hay nét tính cách độc đáo, riêng biệt như trong văn xuôi của các tác giả văn học. Nhưng thông qua lời thoại, ngôn ngữ, hành động chúng ta cũng thấy được phần nào những nét tính cách đặc trưng của nhân vật. Chẳng hạn qua thái độ “rối rít, mừng quýnh, vái lấy vái để “ khi gặp chim thần của vợ chồng anh trai cũng đủ thấy vợ chồng anh ta là người tham lam, ích kỉ, tôn sùng vật chất, luôn trông chờ vào vận may; hành động “nhét đầy vàng vào tay áo, ống quần, lết mãi mới ra khỏi hang” đủ thấy anh trai tham lam đến mờ lý trí… còn vợ chồng người em trai thấy con chim thần chỉ biết than “ ông chim ơi, ông ăn hết khế nhà cháu…” rồi hành động “chỉ nhặt vừa đủ vàng bạc nhét vào túi rồi ra về” cũng đủ thấy người em trai vốn bản tính lương thiện, hiền lành. Nhân vật chỉ được khắc họa qua hành động, ngôn ngữ nhưng những nét tính cách nổi bật vẫn hiện lên tương đối đậm nét.

Những phân tích ở trên đây cho thấy Cây khế là một truyện cổ tích tiêu biểu trong kho tàng truyện cổ Việt Nam. Về chủ đề, truyện chính là lời cảnh tỉnh, phê phán đến những người có lối sống ham vật chất, coi thường tình cảm máu mủ. Về hình thức nghệ thuật, tác giả đã kết hợp hài hòa các yếu tố về tình huống truyện, ngôn ngữ, hành động để nhân vật bộc lộ rõ cá tính của mình, thông qua đó chủ đề truyện cũng được tô đậm.

Câu chuyện là một bài học đắt giá cảnh tỉnh những người tham lam, không coi trọng tình cảm gia đình, sớm hay muộn cũng sẽ nhận phải một kết cục không may mắn.

Mẫu 10

Truyện "Thần Trụ trời" cũng vậy, những sáng tạo hình thức nghệ thuật về cốt truyện, nhân vật đã đóng góp vào thành công trong việc làm nổi bật chủ đề truyện. Là truyện thần thoại, cốt truyện "Thần Trụ trời" được xây dựng hết sức đơn giản và gần gũi, xoay quanh việc thần Trụ trời làm công việc phân chia đất, trời và tạo nên những dạng địa hình tự nhiên khác nhau. Dựa vào trí tưởng tượng của con người cùng những yếu tố kì ảo, truyện đã giải thích quá trình tạo lập vũ trụ và thế giới tự nhiên. Qua đó, ta cũng thấy được khát khao tìm hiểu và khám phá của con người trong buổi đầu sơ khai. Đặc sắc nghệ thuật còn được thể hiện trong việc xây dựng nhân vật kết hợp sử dụng thủ pháp cường điệu, phóng đại kết hợp với các chi tiết hư cấu. Hình ảnh Thần Trụ trời có kích thước "khổng lồ" với những bước chân rộng lớn, sở hữu sức mạnh phi thường, đã giúp cho người đọc hình dung rõ ràng, sắc nét về một vị thần trong thần thoại.

 

CÂU HỎI HOT CÙNG CHỦ ĐỀ

Câu 1:

Viết bài văn nghị luận phân tích, đánh giá về chủ đề và nhân vật trong truyện Dưới bóng hoàng lan (Thạch Lam).

Xem đáp án » 24/12/2022 8,611

Câu 2:

Chủ đề của “Chữ người tử tù” đã được tác giả bài viết khái quát qua những câu nào?

Xem đáp án » 09/06/2022 3,325

Câu 3:

Để tô đậm ý tưởng của bài viết, tác giả đã chọn cách dẫn dắt như thế nào?

Xem đáp án » 11/07/2024 2,404

Câu 4:

Ý nghĩa của chủ đề và nhân vật được khẳng định như thế nào qua bài viết?

Xem đáp án » 09/06/2022 2,205

Câu 5:

Viết bài văn nghị luận phân tích, đánh giá về chủ đề và nhân vật trong truyện Một chuyện đùa nho nhỏ (Sê-khốp)

Xem đáp án » 24/12/2022 2,203

Câu 6:

Viết bài văn nghị luận phân tích, đánh giá về chủ đề và nhân vật trong truyện Người cầm quyền khôi phục uy quyền (V.Huy-gô) (10 mẫu)

Xem đáp án » 24/12/2022 782

Bình luận


Bình luận
Đăng ký gói thi VIP

VIP 1 - Luyện thi tất cả các đề có trên Website trong 1 tháng

  • Được thi tất cả các đề của các lớp có trên Khoahoc.vietjack.com
  • Ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm theo các mức độ Nhận biết, Thông hiểu, Vận dụng, Vận dụng cao.
  • Luyện chuyên sâu, rèn tốc độ với trọn bộ đề thi thử, đề minh họa, chính thức các năm.
  • Hỏi bài tập với đội ngũ chuyên môn cao của chúng tôi.

Đặt mua

VIP 2 - Luyện thi tất cả các đề có trên Website trong 3 tháng

  • Được thi tất cả các đề của các lớp có trên Khoahoc.vietjack.com
  • Ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm theo các mức độ Nhận biết, Thông hiểu, Vận dụng, Vận dụng cao.
  • Luyện chuyên sâu, rèn tốc độ với trọn bộ đề thi thử, đề minh họa, chính thức các năm.
  • Hỏi bài tập với đội ngũ chuyên môn cao của chúng tôi.

Đặt mua

VIP 3 - Luyện thi tất cả các đề có trên Website trong 6 tháng

  • Được thi tất cả các đề của các lớp có trên Khoahoc.vietjack.com
  • Ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm theo các mức độ Nhận biết, Thông hiểu, Vận dụng, Vận dụng cao.
  • Luyện chuyên sâu, rèn tốc độ với trọn bộ đề thi thử, đề minh họa, chính thức các năm.
  • Hỏi bài tập với đội ngũ chuyên môn cao của chúng tôi.

Đặt mua

VIP 4 - Luyện thi tất cả các đề có trên Website trong 12 tháng

  • Siêu tiết kiệm - Được thi tất cả các đề của các lớp có trên Khoahoc.vietjack.com
  • Ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm theo các mức độ Nhận biết, Thông hiểu, Vận dụng, Vận dụng cao.
  • Luyện chuyên sâu, rèn tốc độ với trọn bộ đề thi thử, đề minh họa, chính thức các năm.
  • Hỏi bài tập với đội ngũ chuyên môn cao của chúng tôi.

Đặt mua

Vietjack official store