Câu hỏi:
13/07/2024 181II. LÀM VĂN:
Từ nội dung đoạn trích phần Đọc hiểu, hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ về ý nghĩa của việc tuổi trẻ chuẩn bị hành trang tương lai.
Sách mới 2k7: 30 đề đánh giá năng lực DHQG Hà Nội, Tp. Hồ Chí Minh, BKHN 2025 mới nhất (600 trang - chỉ từ 140k).
Quảng cáo
Trả lời:
Phương pháp:
- Phân tích (Phân tích đề để xác định thể loại, yêu cầu, phạm vi dẫn chứng).
- Sử dụng các thao tác lập luận (phân tích, tổng hợp, bàn luận,…) để tạo lập một văn bản nghị luận xã hội.
Cách giải:
Yêu cầu hình thức:
- Viết đúng một đoạn văn nghị luận xã hội theo cấu trúc.
- Bài viết phải có bố cục đầy đủ, rõ ràng; văn viết có cảm xúc; diễn đạt trôi chảy, bảo đảm tính liên kết; không mắc lỗi chính tả, từ ngữ, ngữ pháp.
Yêu cầu nội dung:
* Nêu vấn đề: Ý nghĩa của việc tuổi trẻ chuẩn bị hành trang tương lai.
* Bàn luận:
- Tuổi trẻ là độ tuổi có nhiều năng lượng, có nhiều trí lực để phát triển bản thân.
- Tuổi trẻ chuẩn bị hành trang vào tương lai là điều vô cùng cần thiết bởi:
+ Mọi việc đều cần có sự chuẩn bị, sự chuẩn bị sẽ giúp mọi việc diễn ra thuận lợi, suôn sẻ hơn. Bước vào cuộc sống cũng vậy, nếu được chuẩn bị một cách kĩ lưỡng thì bản thân mỗi người sẽ có sự phát triển tốt hơn, chắc chắn hơn so với việc không có sự chuẩn bị.
+ Tuổi trẻ là tuổi có khả năng tiếp thu kiến thức, kĩ năng tốt nhất vì vậy sự chuẩn bị ngay từ lúc còn trẻ là rất cần thiết.
- Cần chuẩn bị hành trang để bước vào cuộc sống như thế nào?
+ Tích cực học hỏi: Học hỏi có thể trong đời sống cũng có thể học hỏi trong sách vở, từ thầy cô, bạn bè những người đi trước.
+ Hiểu rõ bản thân mình thích gì, thế mạnh của bản thân là gì, tự vạch cho mình con đường hoặc tham khảo ý kiến của những người đi trước để vạch ra đường đi phù hợp.
……
* Tổng kết:
CÂU HỎI HOT CÙNG CHỦ ĐỀ
Câu 2:
II. LÀM VĂN:
Trong tùy bút Người lái đò sông Đà, Nguyễn Tuân viết:
Ông đò hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng trận địa phóng thẳng vào mình. Mặt nước hò la vang dậy quanh mình, ùa vào mà bẻ gãy cán chèo võ khí trên cánh tay mình. Sóng nước như thể quân liều mạng vào sát nách mà đả trái mà thúc gối vào bụng và hông thuyền. Có lúc chủng đội cả thuyền lên. Nước bám lấy thuyền như đổ vật túm thắt lưng ông đò đòi lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời thanh la não bạt. Sóng thác đã đánh đến miếng đòn hiểm độc nhất, cả cái luồng nước vô sở bất chi ấy bóp chặt lấy hạ bộ người lái đò [...]. Mặt sông trong tích tắc lòe sáng lên như một cửa bể đom đóm rừng ùa xuống mà châm lửa vào đầu sóng. Nhưng ông đò cổ nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái, mặt méo bệch đi như cái luồng sóng đánh hồi lung, đánh đòn tia, đánh đòn âm vào chỗ hiểm. Tăng thêm mãi lên tiếng hỗn chiến của nước của đá thác. Nhưng trên cái thuyền sáu bơi chèo, vẫn nghe rõ tiếng chỉ huy ngắn gọn tinh tảo của người cầm lái. Vậy là phả xong cải trùng vi thạch trận vòng thứ nhất. Không một phút nghỉ tay nghi mắt, phải phả luôn vòng vây thứ hai và đổi luôn chiến thuật. Ông lái đã nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Ông đã thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này. Vòng đầu vừa rồi, nó mở ra năm cửa trận, có bốn cửa tử một cửa sinh cửa, sinh nằm lập lờ phía tả ngạn sông. Vòng thứ hai này tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, và cửa sinh lại bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn. Cưỡi lên thác Sông Đà, phải cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ. Dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá. Nắm chặt lấy được cải bờm sóng đúng luồng rồi, ông đò ghì cương lái, bám chắc lấy luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh, mà lái miết một đường chéo về phía cửa đá ấy. Bốn năm bọn thuỷ quân cửa ải nước bên bờ trái liền xô ra cảnh níu thuyền lôi vào tập đoàn cửa tử. Ông đò vẫn nhớ mặt bọn này, đứa thì ông tránh mà rảo bơi chèo lên, đứa thì ông đè sấn lên mà chặt đôi ra để mở đường tiến. Những luồng tử đã bỏ hết lại sau thuyền. Chỉ còn vắng reo tiếng hò của sóng thác luồng sinh. Chúng vẫn không ngớt khiêu khích, mặc dầu cái thằng đá tướng đứng chiến ở cửa vào đã tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng thua cái thuyền đã đánh trúng vào cửa sinh nó trấn lấy...
(Trích Người lái đò sông Đà, Nguyễn Tuân, Ngữ văn 12, Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2016, tr.188-189)
Cảm nhận của anh/ chị về đoạn trích trên; từ đó nhận xét nét đặc sắc trong nghệ thuật viết tùy bút của nhà văn Nguyễn Tuân được thể hiện qua đoạn trích.
Câu 3:
Chỉ ra các từ ngữ, hình ảnh miêu tả căn nhà trong kí ức của nhà thơ.
Câu 4:
Nêu tác dụng của phép điệp được sử dụng trong hai dòng thơ sau:
nền cũ thành bệ phóng
kỷ niệm thành sức bay
về câu hỏi!