Câu hỏi:
12/09/2024 26Trong quá trình giải quyết vụ án hành chính, nếu phát hiện văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến việc giải quyết vụ án có dấu hiệu trái với Hiến pháp; luật, văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên thì Tòa án có quyền sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ văn bản quy phạm pháp luật.
Sách mới 2k7: Tổng ôn Toán, Lí, Hóa, Văn, Sử, Địa…. kỳ thi tốt nghiệp THPT Quốc gia 2025, đánh giá năng lực (chỉ từ 110k).
Quảng cáo
Trả lời:
Chọn đáp án B.
Tòa án chỉ có quyền kiến nghị yêu cầu sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ văn bản quy phạm pháp luật có dấu hiệu trái pháp luật.
Theo khoản 1 Điều 111 Luật TTHC năm 2015 quy định: Trong quá trình giải quyết vụ án hành chính, nếu phát hiện văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến việc giải quyết vụ án có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên thì Tòa án thực hiện như sau:
Trường hợp chưa có quyết định đưa vụ án ra xét xử thì Chánh án tòa án đang giải quyết vụ án thực hiện việc kiến nghị theo thẩm quyền hoặc đề nghị người có thẩm quyền theo qui định tại Điều 112 luật này thực hiện việc kiến nghị.
Trường hợp đã có quyết định đưa vụ án ra xét xử hoặc vụ án đang được xem xét theo trình tự giám đốc thẩm hoặc tái thẩm thì hội đồng xét xử đề nghị Chánh án tòa án đang giải quyết vụ án đó thực hiện việc kiến nghị hoặc đề nghị người có thẩm quyền qui định tại điều 112 của Luật TTHC năm 2015 thực hiện kiến nghị.
Điều 12 Luật TTHC năm 2015 quy địnH. Chánh án Tòa án cấp huyện có quyền kiến nghị sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước từ cấp huyện trở xuống; đề nghị Chánh án Tòa án cấp tỉnh kiến nghị sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp tỉnh; báo cáo Chánh án Tòa án cấp tỉnh đề nghị Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kiến nghị sửa đổi, bổ sung hoặc hãi bỏ văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan Nhà nước ở trung ương;
Chánh án Tòa án cấp tỉnh, Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao có quyền kiến nghị sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước từ cấp tỉnh trở xuống; đề nghị Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kiến nghị sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước ở trung ươnG.
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao tự trình hoặc theo đề nghị của Chánh án Tòa án quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này kiến nghị sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước ở trung ươnG.
Trường hợp tại phiên tòa, Hội đồng xét xử phát hiện văn bản quy phạm pháp luật có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên thì Hội đồng xét xử có văn bản báo cáo Chánh án Tòa án theo quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều này để thực hiện quyền kiến nghị, trường hợp này, Hội đồng xét xử có quyền tạm ngừng phiên tòa theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 187 của Luật này để chờ ý kiến của Chánh án Tòa án hoặc tạm đình chỉ giải quyết vụ án khi có văn bản kiến nghị của Chánh án Tòa án có thẩm quyền theo quy định tại điểm e khoản 1 Điều 141 của Luật này.
CÂU HỎI HOT CÙNG CHỦ ĐỀ
Câu 1:
Đối với vụ án hành chính đang giải quyết theo thủ tục rút gọn, nếu chuyển sang thủ tục thông thường thì thời hạn chuẩn bị xét xử được tính từ khi thụ lý vụ án?..
Câu 2:
Những quyết định hành chính của người có thẩm quyền buộc tháo dỡ nhà ở, công trình vật kiến trúc có giá trị từ bao nhiêu tiền trở lên khi có khiếu kiện thì Tòa án có thẩm quyền thụ lý giải quyết
Câu 3:
Thời hạn kháng nghị đối với bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm theo thủ tục rút gọn của VKS cung cấp, của VKS cấp trên trực tiếp?
Câu 5:
Đối với phiên tòa xét xử phúc thẩm vụ án hành chính, nếu vắng mặt Kiểm sát viên thì HĐXX vẫn tiếp tục tiến hành xét xử, không hoãn phiên tòa?.
Câu 6:
Theo quy định của Luật tố tụng hành chính, căn cứ để kháng nghị giám đốc thẩm đối với bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật là:
Câu 7:
Ngày 10/7/2016, ông Nguyễn Văn B (là đương sự trong vụ án hành chính kiện UBND quận H đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính trái pháp luật) đã nhờ ông Nguyễn Văn A (là công chức công tác tại Vụ pháp chế - Bộ Tài chính) làm người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mìnH. Khi đến Tòa án làm thủ tục đăng ký người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp thì Tòa án từ chối đăng ký với lý do ông Nguyễn Văn A là công chức. Việc Tòa án từ chối không cho ông A đăng ký làm người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho ông B là Đúng hay Sai?
về câu hỏi!