Nỗi buồn làng chiếu (trích)
(Tiêu Dao – Bảo Anh)
Từng suy rồi thịnh, từng có cả trăm hộ làm nghề nhưng rồi bây giờ khung dệt bụi phủ, tay người chênh chao. Nỗi niềm của làng chiếu chẳng mấy người thấu tỏ khi chỉ duy nhất một bà lão còn dệt chiếu, nhưng cũng đầy chông chênh.
Gió buồn lay đồng cói
Làng Cẩm Nê (xã Hoà Tiến, Hoà Vang, Đà Nẵng) giờ đã khác khi đời sống người dẫn khấm khá hơn rất nhiều, bao quanh vẫn là đồng lúa đang chín vàng và chon von những ngôi nhà 2 – 3 tầng rợp bóng cây xanh. Làng từng nổi tiếng với nghề dệt chiếu, có những chiếc chiếu đặc biệt dệt để tiến vua. Người làng trong câu chuyện mỗi tối, vẫn cứ nhớ về cha ông mình với câu chuyện về một chiếc chiếu hoa được tiến kinh ngày trước. Chiếu rộng 2,5 mét và dài tới 25 mét, được những người dệt chiếu lão luyện làm trong gần một tháng. Nhờ chiếc chiếu ấy, người làng đã được ban thưởng trọng hậu và sau kì tích đó, tiếng tăm chiếu Cẩm Nê đã bay đi khắp nước.
[...] Nhưng làng chiếu bây giờ dường như chỉ còn cái tên, bởi chẳng còn những lách cách thoi đưa, những sợi cói rực rỡ trong nắng, những bãi đay bãi lúc rì rào trong gió, tất cả chỉ là một thời quả vãng. Những cơn lốc của thị trường đã cuốn làng chiếu lao đao. Nào là những sản phẩm đệm, rồi chiếu nhựa, chiếu công nghiệp, thảm các loại với giá rẻ đã đánh sập cái nghề truyền thống mấy trăm năm của làng.
Quả trưa, bà Dương Thị Thông (65 tuổi) mới tất tả đạp xe về. Bà là con gái cụ Ngô Thị Thân – một nghệ nhân dệt chiếu hơn 70 năm làm nghề của làng. Bà Thông, con gái cụ, cũng là một nghệ nhân, nhưng lại là người cuối cùng còn dệt chiếu ở làng. Trước cửa, tấm biển giới thiệu sản phẩm làng nghề chiếu Cẩm Nê của bà đã bạc như cái nghề của cha ông đang lay lắt ở chính nơi này. Giờ bà Thông chỉ thi thoảng mới dệt chiếu, khi có khách đặt hàng, hay khi có đoàn du lịch tới thăm và chỉ những dịp cuối năm, khi việc nông đã vãn, việc làm thuê cũng vơi, còn lại ngày ngày bà đi phụ hồ, đi nấu đám tiệc, hay làm các công việc lặt vặt khác. Bởi, nghề gia truyền giờ không còn nuôi sống nổi thân mình, bỏ thì cũng tiếc lắm chứ! Cái nghề dệt chiếu như máu như thịt, là nghề gia truyền khi ông bà nội và cha mẹ bà cũng là những nghệ nhân dệt chiếu trong làng. Tuy trải nhiều giai đoạn thăng trầm, gia đình bà vẫn cố gắng giữ cho được nghề. Ngay từ năm 10 tuổi, bà Thông đã được cha mẹ truyền lại và cho đến nay, bà đã gắn bó với nghề hơn 55 năm qua.
Trong mạch ngầm trí nhớ, bà Thông vẫn mường tượng ra cảnh người làng từ già đến trẻ, người trồng lác, người chăm đay, người xe sợi, người nhuộm cói,... tiếng gọi tiếng cười, tiếng thoi tiếng cửu rộn ràng với cả tiếng mua bán giăng kín cả làng chiếu này. [...]
Công làm một chiếc chiếu không hề nhỏ, từ việc gặt lác, chặt đay về đem phơi, rồi nấu phẩm lên và nhúng sợi lác vào, nhúng từng nắm một và mang phơi nắng. [...] Mỗi khung dệt có hai người tham gia. Trong đó, một người luồn cói và người kia dùng go dệt cói vào đay cho chắc chắn. Chiếu dệt xong mang phơi khắp sân, rồi cuối cùng ghim các đầu dây đay để cho hai đầu chiếu khỏi bung ra. [...] Mỗi đôi chiếu đặt làm đặc biệt thì giá 700.000 – 800.000 đồng, tương đương với chiếu trúc làm máy. Sau khi trừ tiền thuê nhân công và nguyên vật liệu thì gần như không còn một đồng lời. Do không có nguồn nguyên liệu tại chỗ, người làng chiếu phải đặt mua sợi cói từ địa phương khác, lấy công phơi, nhuộm cói, dệt chiếu làm lời. Mỗi chiếc chiếu thủ công thông thường được bán với giá khoảng 250.000 300.000 đồng. Sau khi trừ các khoản chi phí, số tiền bán được có khi cũng không đủ trang trải cuộc sống. Bởi vậy, cái nghề cứ dần lụi đi trông thấy.
Người còn nhớ tiếng thoi đưa
Tôi đi khắp làng, ngang qua những xóm Đùng, xóm Đồng Khánh, xóm Bến Đò, xóm Bến Bắc, xóm Dinh, xóm Làng,... chẳng còn vang tiếng loạch xoạch của người làm chiếu nữa. Nhiều người già trong làng cũng đau đáu với cái nghề của cha ông. Nhưng, đành chịu. Cuộc sống của những người làm chiếu rơi vào khó khăn, người làng lần lượt bỏ nghề, những khung dệt dần đóng bụi. “Cách đây 5 – 7 năm, sau nhiều năm cất giữ với ước mong hồi sinh làng nghề, nhiều nhà đành phá khung dệt vì chật nhà. Người làng cái tay không còn quen đưa thoi, bàn chân không còn quen dập, con mắt không còn quen nhìn màu nhuộm nữa. Đau lòng lắm!”, bà Ngô Thị Mua (66 tuổi, trú thôn Cẩm Nê), người phụ làm chiếu với bà Thông bộc bạch.
Còn bà Thông gắn bó với nghề hơn 50 năm, trải qua biết bao những thăng trầm cùng khung dệt, bà Thông vẫn không nỡ rời xa. Ngày trước cả làng có khoảng 200 hộ nhưng hộ nào cũng dệt chiếu mưu sinh. Khung cảnh làng quê nhộn nhịp lắm. Còn bây giờ, gần 700 hộ dân mà chỉ còn mình bà Thông bám trụ. Nguyện vọng duy nhất của bà là giữ nghề cho đến khi nằm xuống. Không làm thường xuyên nữa nhưng cần thì vẫn dệt chiếu để giữ lấy thương hiệu làng nghề. Dù vậy, tuổi đã cao, thỉnh thoảng bà Thông mới ngồi vào khung dệt. Chiếc khung dệt hầu như nằm lặng lẽ ở góc sân mà nhớ bàn tay đưa thoi.
(Trích Nỗi buồn làng chiếu, https://antg.cand.com.vn/Phong-su/noi-buon-lang- chieu-i733372/, 06/06/2024)
Nỗi buồn làng chiếu (trích)
(Tiêu Dao – Bảo Anh)
Từng suy rồi thịnh, từng có cả trăm hộ làm nghề nhưng rồi bây giờ khung dệt bụi phủ, tay người chênh chao. Nỗi niềm của làng chiếu chẳng mấy người thấu tỏ khi chỉ duy nhất một bà lão còn dệt chiếu, nhưng cũng đầy chông chênh.
Gió buồn lay đồng cói
Làng Cẩm Nê (xã Hoà Tiến, Hoà Vang, Đà Nẵng) giờ đã khác khi đời sống người dẫn khấm khá hơn rất nhiều, bao quanh vẫn là đồng lúa đang chín vàng và chon von những ngôi nhà 2 – 3 tầng rợp bóng cây xanh. Làng từng nổi tiếng với nghề dệt chiếu, có những chiếc chiếu đặc biệt dệt để tiến vua. Người làng trong câu chuyện mỗi tối, vẫn cứ nhớ về cha ông mình với câu chuyện về một chiếc chiếu hoa được tiến kinh ngày trước. Chiếu rộng 2,5 mét và dài tới 25 mét, được những người dệt chiếu lão luyện làm trong gần một tháng. Nhờ chiếc chiếu ấy, người làng đã được ban thưởng trọng hậu và sau kì tích đó, tiếng tăm chiếu Cẩm Nê đã bay đi khắp nước.
[...] Nhưng làng chiếu bây giờ dường như chỉ còn cái tên, bởi chẳng còn những lách cách thoi đưa, những sợi cói rực rỡ trong nắng, những bãi đay bãi lúc rì rào trong gió, tất cả chỉ là một thời quả vãng. Những cơn lốc của thị trường đã cuốn làng chiếu lao đao. Nào là những sản phẩm đệm, rồi chiếu nhựa, chiếu công nghiệp, thảm các loại với giá rẻ đã đánh sập cái nghề truyền thống mấy trăm năm của làng.
Quả trưa, bà Dương Thị Thông (65 tuổi) mới tất tả đạp xe về. Bà là con gái cụ Ngô Thị Thân – một nghệ nhân dệt chiếu hơn 70 năm làm nghề của làng. Bà Thông, con gái cụ, cũng là một nghệ nhân, nhưng lại là người cuối cùng còn dệt chiếu ở làng. Trước cửa, tấm biển giới thiệu sản phẩm làng nghề chiếu Cẩm Nê của bà đã bạc như cái nghề của cha ông đang lay lắt ở chính nơi này. Giờ bà Thông chỉ thi thoảng mới dệt chiếu, khi có khách đặt hàng, hay khi có đoàn du lịch tới thăm và chỉ những dịp cuối năm, khi việc nông đã vãn, việc làm thuê cũng vơi, còn lại ngày ngày bà đi phụ hồ, đi nấu đám tiệc, hay làm các công việc lặt vặt khác. Bởi, nghề gia truyền giờ không còn nuôi sống nổi thân mình, bỏ thì cũng tiếc lắm chứ! Cái nghề dệt chiếu như máu như thịt, là nghề gia truyền khi ông bà nội và cha mẹ bà cũng là những nghệ nhân dệt chiếu trong làng. Tuy trải nhiều giai đoạn thăng trầm, gia đình bà vẫn cố gắng giữ cho được nghề. Ngay từ năm 10 tuổi, bà Thông đã được cha mẹ truyền lại và cho đến nay, bà đã gắn bó với nghề hơn 55 năm qua.
Trong mạch ngầm trí nhớ, bà Thông vẫn mường tượng ra cảnh người làng từ già đến trẻ, người trồng lác, người chăm đay, người xe sợi, người nhuộm cói,... tiếng gọi tiếng cười, tiếng thoi tiếng cửu rộn ràng với cả tiếng mua bán giăng kín cả làng chiếu này. [...]
Công làm một chiếc chiếu không hề nhỏ, từ việc gặt lác, chặt đay về đem phơi, rồi nấu phẩm lên và nhúng sợi lác vào, nhúng từng nắm một và mang phơi nắng. [...] Mỗi khung dệt có hai người tham gia. Trong đó, một người luồn cói và người kia dùng go dệt cói vào đay cho chắc chắn. Chiếu dệt xong mang phơi khắp sân, rồi cuối cùng ghim các đầu dây đay để cho hai đầu chiếu khỏi bung ra. [...] Mỗi đôi chiếu đặt làm đặc biệt thì giá 700.000 – 800.000 đồng, tương đương với chiếu trúc làm máy. Sau khi trừ tiền thuê nhân công và nguyên vật liệu thì gần như không còn một đồng lời. Do không có nguồn nguyên liệu tại chỗ, người làng chiếu phải đặt mua sợi cói từ địa phương khác, lấy công phơi, nhuộm cói, dệt chiếu làm lời. Mỗi chiếc chiếu thủ công thông thường được bán với giá khoảng 250.000 300.000 đồng. Sau khi trừ các khoản chi phí, số tiền bán được có khi cũng không đủ trang trải cuộc sống. Bởi vậy, cái nghề cứ dần lụi đi trông thấy.
Người còn nhớ tiếng thoi đưa
Tôi đi khắp làng, ngang qua những xóm Đùng, xóm Đồng Khánh, xóm Bến Đò, xóm Bến Bắc, xóm Dinh, xóm Làng,... chẳng còn vang tiếng loạch xoạch của người làm chiếu nữa. Nhiều người già trong làng cũng đau đáu với cái nghề của cha ông. Nhưng, đành chịu. Cuộc sống của những người làm chiếu rơi vào khó khăn, người làng lần lượt bỏ nghề, những khung dệt dần đóng bụi. “Cách đây 5 – 7 năm, sau nhiều năm cất giữ với ước mong hồi sinh làng nghề, nhiều nhà đành phá khung dệt vì chật nhà. Người làng cái tay không còn quen đưa thoi, bàn chân không còn quen dập, con mắt không còn quen nhìn màu nhuộm nữa. Đau lòng lắm!”, bà Ngô Thị Mua (66 tuổi, trú thôn Cẩm Nê), người phụ làm chiếu với bà Thông bộc bạch.
Còn bà Thông gắn bó với nghề hơn 50 năm, trải qua biết bao những thăng trầm cùng khung dệt, bà Thông vẫn không nỡ rời xa. Ngày trước cả làng có khoảng 200 hộ nhưng hộ nào cũng dệt chiếu mưu sinh. Khung cảnh làng quê nhộn nhịp lắm. Còn bây giờ, gần 700 hộ dân mà chỉ còn mình bà Thông bám trụ. Nguyện vọng duy nhất của bà là giữ nghề cho đến khi nằm xuống. Không làm thường xuyên nữa nhưng cần thì vẫn dệt chiếu để giữ lấy thương hiệu làng nghề. Dù vậy, tuổi đã cao, thỉnh thoảng bà Thông mới ngồi vào khung dệt. Chiếc khung dệt hầu như nằm lặng lẽ ở góc sân mà nhớ bàn tay đưa thoi.
(Trích Nỗi buồn làng chiếu, https://antg.cand.com.vn/Phong-su/noi-buon-lang- chieu-i733372/, 06/06/2024)
Xác định thể loại văn bản “Nỗi buồn làng chiếu” và nêu đặc điểm nổi bật.
Câu hỏi trong đề: 30 Ngữ liệu ngoài sách giáo khoa lớp 12 phần Kí !!
Quảng cáo
Trả lời:
- Đây là thể ký (phóng sự ký).
- Đặc điểm: ghi chép chân thực về hiện thực đời sống, có sự kết hợp giữa thông tin – cảm xúc, tạo ra giá trị nhận thức và giá trị nhân văn.
Câu hỏi cùng đoạn
Câu 2:
Chỉ ra ít nhất 2 dấu hiệu đặc trưng của thể ký trong đoạn trích trên.
- Có yếu tố ghi chép sự kiện, nhân vật, địa danh thực tế (làng Cẩm Nê, bà Thông, nghề chiếu…)
- Có sự kết hợp cảm xúc, suy tư của người viết (niềm xót xa, nỗi tiếc nuối cho làng nghề lụi tàn).
Câu 3:
Liệt kê các chi tiết, sự kiện xác thực được nhắc tới trong văn bản trên.
Các chi tiết, sự kiện xác thực được nhắc tới trong văn bản là thông tin được điều tra và ghi chép lại: Tên và địa chỉ của làng chiếu Cẩm Nê Làng Cẩm Nê giờ đã khấm khá hơn, nhưng không phải là nhờ nghề dệt chiếu; Tác giả vào làng, đi qua khắp các xóm (tên các xóm), nhưng không còn thấy dấu hiệu âm thanh, hình ảnh đẹp đẽ, tươi vui đặc trưng của làng chiếu nổi tiếng một thời nữa; Bà Dương Thị Thông là người dệt chiếu cuối cùng của làng nghề này, bà Ngô Thị Mua – người phụ làm chiếu với bà Thông – đã cung cấp các thông tin cho tác giả (thông tin về tên tuổi của người cung cấp thông tin, lời kể, giá cả, thu nhập từ nghề làm chiếu, nguyện vọng,... Theo lời bà Thông, tác giả ghi chép được các thông tin về nguyên nhân khiến nghề dệt chiếu dần tàn lụi, về thực trạng đau lòng của làng nghề Cẩm Nê, về nỗi niềm và khát vọng tha thiết của một nghệ nhân dệt chiếu đã 65 tuổi,...)
Câu 4:
Tác giả đã sử dụng những chi tiết nào để tái hiện quá khứ thịnh vượng của làng chiếu?
Câu chuyện về chiếc chiếu hoa dệt để tiến vua; cảnh làng chiếu nhộn nhịp từ trồng cói, nhuộm cói, dệt chiếu, tiếng thoi đưa rộn ràng, cả làng 200 hộ đều mưu sinh bằng nghề dệt.
Câu 5:
Chỉ ra biện pháp tu từ được sử dụng trong câu văn: Chiếc khung dệt hầu như nằm lặng lẽ ở góc sân mà nhớ bàn tay đưa thoi.
Học sinh chỉ ra được biện pháp tu từ nhân hoá được sử dụng trong câu văn (khung dệt nằm lặng lẽ; khung dệt nhớ bàn tay đưa thoi).
Câu 6:
Tác giả đã tái hiện hình tượng bà Dương Thị Thông với những chi tiết nào? Ý nghĩa của hình tượng này?
- Hình tượng bà Dương Thị Thông được tái hiện qua nhiều chi tiết cụ thể: bà là nghệ nhân cuối cùng còn gắn bó với nghề chiếu, đã có hơn 55 năm đưa thoi, dệt chiếu; dù nghề không còn nuôi sống bản thân, bà vẫn “không nỡ rời xa khung dệt” và tiếp tục giữ lấy chút hơi thở cuối cùng của làng nghề.
- Hình tượng này mang nhiều ý nghĩa: bà vừa là chứng nhân của một quá khứ vàng son, vừa là biểu tượng cho sự bền bỉ, lòng thủy chung với nghề tổ. Đồng thời, bà gợi lên nỗi buồn nhân thế trước sự mai một của văn hóa truyền thống, nhắc nhở chúng ta về trách nhiệm gìn giữ và bảo tồn những di sản tinh thần quý giá.
Câu 7:
Việc kết hợp thủ pháp trần thuật với miêu tả để kể về số phận những cái khung dệt ở các gia đình làm nghề dệt chiếu có tác dụng như thế nào trong việc thể hiện chủ đề của văn bản?
Người viết kể đan xen các sự việc trong quá khứ và hiện tại bằng lời tác giả và dẫn lời nhân vật, trong đó, số phận cái khung dệt được nhắc đến nhiều lần: Thời nghề dệt chiếu còn thịnh ở làng, “Mỗi khung dệt có hai người tham gia. Trong đó, một người luồn cói và người kia dùng go dệt cói vào đay cho chắc chắn”. Khi “Cuộc sống của những người làm chiếu rơi vào khó khăn, người làng lần lượt bỏ nghề, những khung dệt dần đóng bụi”. Bà Ngô Thị Mua bộc bạch: “Cách đây 5 7 năm, sau nhiều năm cất giữ với ước mong hồi sinh làng nghề, nhiều nhà đành phá khung dệt vì chật nhà”. Cuối cùng, qua điểm nhìn của nhân vật bà Thông, tác giả kể: “Chiếc khung dệt hầu như nằm lặng lẽ ở góc sân mà nhớ bàn tay đưa thoi”. Ở mỗi chi tiết được kể, tác giả đều miêu tả cái khung dệt một cách cặn kể: mỗi khung dệt có hai người tham gia, một người luồn cói, một người dùng go dệt cói vào đay cho chắc chắn; những khung dệt dần đóng bụi; khung dệt bị phá vì vô dụng, để chỉ “chật nhà”; khung dệt nằm lặng lẽ ở góc sân mà nhớ bàn tay đưa thoi.
Sự miêu tả kĩ lưỡng, đầy xúc cảm kết hợp với việc trần thuật bao quát nhiều thời điểm, qua nhiều lời kể đã làm hình ảnh cái khung dệt hiện lên thật ấn tượng, qua đó, số phận những cái khung dệt ở các gia đình làm nghề dệt chiếu ở làng Cẩm Nê được khắc hoạ sinh động, giàu sức truyền cảm. Số phận của cái khung dệt cũng chính là số phận của làng nghề dệt chiếu Cẩm Nê. Việc kể và tả cái khung dệt làm nổi bật lên chủ đề của văn bản: cảm thương, chia sẻ với những nghệ nhân suốt một đời gắn bó với nghề; xót xa, tiếc nuối cho nghề dệt chiếu, làng nghề truyền thống Cẩm Nê đang có nguy cơ bị xoá bỏ trong cuộc sống hiện đại; tha thiết kêu gọi giải pháp thiết thực để khôi phục, giữ gìn những làng nghề truyền thống lâu đời như làng chiếu Cẩm Nê.
Câu 8:
Tác giả thể hiện thái độ và sự đánh giá như thế nào về vấn đề được phản ánh trong văn bản?
Trước thực trạng xuống cấp, bị lãng quên, có nguy cơ biến mất của làng nghề dệt chiếu Cẩm Nê, tác giả thể hiện sự chia sẻ với người dân làng chiếu, đồng cảm với nỗi niềm của nghệ nhân; tiếc nuối một làng nghề có truyền thống mấy trăm năm đang có nguy cơ bị xoá bỏ, sẽ rất đau lòng nếu sự thật này xảy ra; trăn trở, có phần bất lực trước thực trạng, sự thật khó thay đổi về nguy cơ làng chiếu biến mất; tha thiết lên tiếng kêu gọi tìm giải pháp tháo gỡ tình trạng này để cứu giữ làng nghề Cẩm Nê.
Câu 9:
Phân tích nghệ thuật đối lập trong tác phẩm và tác dụng.
- Đối lập giữa quá khứ huy hoàng (cả làng nhộn nhịp dệt chiếu, từng có chiếu tiến vua) và hiện tại hiu hắt (chỉ còn một bà lão giữ nghề).
- Tác dụng: làm nổi bật sự khắc nghiệt của thời gian, thị trường và khơi gợi nỗi buồn nhân văn.
Câu 10:
Văn bản Nỗi buồn làng chiếu gợi cho anh/ chị suy nghĩ gì? Vì sao?
Gợi ý:
(1) Xã hội thay đổi, cuộc sống hiện đại đặt các nghề thủ công trước nguy cơ tất yếu bị cạnh tranh dẫn đến dần xoá bỏ. Chúng ta cần chấp nhận hiện thực này và xã hội cần có giải pháp hỗ trợ việc mưu sinh cho người dân;
(2) Cần có giải pháp bảo tồn hợp lí cho các làng nghề và tôn vinh, hỗ trợ các nghệ nhân để các làng nghề “vui trở lại”;
(3) Cần thêm nhiều tiếng nói, bài phóng sự sâu sắc, xúc động như thế này, cần có thêm nhiều bàn tay chung sức để giải quyết các vấn đề chung của xã hội,...
Hot: 1000+ Đề thi giữa kì 1 file word cấu trúc mới 2025 Toán, Văn, Anh... lớp 1-12 (chỉ từ 60k). Tải ngay
- Sổ tay Ngữ Văn 12 (chương trình mới) ( 18.000₫ )
- 30 đề thi tốt nghiệp môn Ngữ Văn (có đáp án chi tiết) ( 38.000₫ )
- Sổ tay lớp 12 các môn Toán, Lí, Hóa, Văn, Sử, Địa, KTPL (chương trình mới) ( 36.000₫ )
- Tuyển tập 30 đề thi đánh giá năng lực Đại học Quốc gia Hà Nội, TP Hồ Chí Minh (2 cuốn) ( 150.000₫ )
CÂU HỎI HOT CÙNG CHỦ ĐỀ
Lời giải
Gợi ý:
- Đảm bảo yêu cầu về hình thức, dung lượng
+ Viết đúng hình thức bài văn đầy đủ ba phần Mở bài, Thân bài, Kết bài.
+ Đảm bảo dung lượng khoảng 600 chữ.
- Xác định đúng vấn đề nghị luận: nghệ thuật kết hợp giữa yếu tố tự sự và trữ tình trong văn bản “Nỗi buồn làng chiếu” của Tiêu Dao – Bảo Anh.
- Lựa chọn được các thao tác lập luận phù hợp; kết hợp nhuần nhuyễn lí lẽ và dẫn chứng; trình bày được hệ thống ý phù hợp theo bố cục ba phần của bài văn nghị luận. Có thể triển khai theo hướng:
* Mở bài:
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Tiêu Dao – Bảo Anh với phóng sự ký giàu chất trữ tình.
- Khái quát vấn đề: “Nỗi buồn làng chiếu” đặc sắc ở nghệ thuật kết hợp hài hòa tự sự (ghi chép sự kiện, số liệu, câu chuyện) và trữ tình (cảm xúc, hoài niệm, xót xa).
* Thân bài:
1. Yếu tố tự sự (ghi chép, kể, phản ánh hiện thực):
- Ghi chép trung thực về làng Cẩm Nê: từng nổi tiếng với nghề dệt chiếu, nay chỉ còn lại bà Thông duy trì.
- Cung cấp chi tiết cụ thể: số hộ dệt chiếu xưa và nay, quy trình dệt chiếu, giá bán, sự cạnh tranh của chiếu công nghiệp, đời sống khó khăn của người thợ.
- Câu chuyện về những người làng: bà Thông, bà Mua – hình ảnh chân thực, đời thường.
⟶ Tạo tính xác thực, khách quan cho tác phẩm ký.
2. Yếu tố trữ tình (cảm xúc, suy tư, hoài niệm):
- Giọng văn giàu cảm xúc, gợi nỗi buồn: “khung dệt bụi phủ, tay người chênh chao”, “chiếc khung dệt nằm lặng lẽ ở góc sân mà nhớ bàn tay đưa thoi”.
- Nỗi tiếc nuối quá khứ vàng son: chiếu Cẩm Nê từng tiến vua, nay chỉ còn trong hoài niệm.
- Xót xa, cảm thông với bà Thông – người nghệ nhân cuối cùng giữ nghề.
⟶ Gợi đồng cảm sâu xa trong lòng người đọc.
3. Nghệ thuật kết hợp tự sự – trữ tình:
- Tự sự là khung xương, giúp tái hiện hiện thực khách quan.
- Trữ tình thổi hồn vào sự kiện, tạo chiều sâu cảm xúc.
- Sự hòa quyện này khiến văn bản vừa có giá trị tư liệu, vừa giàu giá trị nhân văn, khơi dậy ý thức bảo tồn văn hóa truyền thống.
* Kết bài:
- Khẳng định: Sự kết hợp tự sự và trữ tình là thành công nghệ thuật của “Nỗi buồn làng chiếu”.
- Mở rộng: Văn bản gợi cho thế hệ hôm nay trách nhiệm giữ gìn di sản văn hóa dân tộc.
Bài văn tham khảo
“Nỗi buồn làng chiếu” của Tiêu Dao – Bảo Anh là một thiên ký đặc sắc viết về làng nghề dệt chiếu Cẩm Nê (Đà Nẵng). Nếu yếu tố hiện thực làm cho tác phẩm có sức nặng về thông tin, thì yếu tố cảm xúc lại giúp nó chạm đến trái tim người đọc. Thành công nổi bật của văn bản chính là nghệ thuật kết hợp nhuần nhuyễn giữa tự sự và trữ tình, khiến câu chuyện về một làng nghề thất truyền trở thành nỗi niềm chung của nhiều thế hệ.
Trước hết, yếu tố tự sự được thể hiện qua việc ghi chép sự kiện, phản ánh chân thực hiện trạng nghề chiếu Cẩm Nê. Tác giả tái hiện hành trình từ “thời vàng son” –từng dệt chiếu tiến vua, chiếu khắp làng rộn tiếng thoi đưa, đến hiện tại chỉ còn một mình bà Thông âm thầm bám nghề. Văn bản đưa ra nhiều chi tiết cụ thể: làng từng có hàng trăm hộ làm nghề, nay còn lại một nghệ nhân cuối cùng; quy trình dệt chiếu tỉ mỉ, công phu; giá chiếu thủ công không cạnh tranh nổi với sản phẩm công nghiệp. Câu chuyện về bà Thông, bà Mua hay những khung dệt phủ bụi đã cung cấp cho người đọc những tư liệu sống động, tạo tính xác thực cao. Đây là phẩm chất không thể thiếu của thể ký.
Bên cạnh tự sự, văn bản còn đậm chất trữ tình, thể hiện qua cảm xúc tiếc nuối, xót xa, day dứt. Những câu văn như “khung dệt bụi phủ, tay người chênh chao”, “chiếc khung dệt nằm lặng lẽ ở góc sân mà nhớ bàn tay đưa thoi” không chỉ miêu tả hiện thực mà còn chứa đựng một nỗi buồn man mác. Đó là nỗi buồn về sự mai một của một nghề truyền thống, nỗi thương cảm dành cho người nghệ nhân cuối cùng vẫn cố níu giữ nghề tổ. Đồng thời, tác giả khơi dậy hoài niệm về một thời vang bóng khi chiếu Cẩm Nê từng là niềm tự hào của quê hương. Chính cảm hứng trữ tình đã khiến phóng sự này vượt ra ngoài một bản ghi chép khô khan, trở thành tiếng lòng đầy nhân văn.
Sự kết hợp hài hòa giữa tự sự và trữ tình chính là điểm độc đáo của “Nỗi buồn làng chiếu”. Tự sự giúp tác phẩm đứng vững trên hiện thực, còn trữ tình đem lại sức lay động, khơi gợi đồng cảm. Nếu chỉ có tự sự, tác phẩm sẽ khô cứng; nếu chỉ có trữ tình, tác phẩm dễ mất đi độ tin cậy. Ở đây, cả hai yếu tố hòa quyện, làm nổi bật thông điệp: nghề truyền thống không chỉ là kế sinh nhai, mà còn là di sản văn hóa cần được bảo tồn.
Có thể nói, bằng bút pháp kết hợp tự sự và trữ tình, Tiêu Dao – Bảo Anh đã để lại một áng ký giàu sức gợi, khiến người đọc không chỉ hiểu hơn về nghề chiếu Cẩm Nê mà còn lắng lại với nhiều trăn trở về việc giữ gìn giá trị văn hóa dân tộc. “Nỗi buồn làng chiếu” vì thế không chỉ là nỗi niềm riêng của một làng quê, mà còn là lời nhắc nhở đầy tha thiết đối với hôm nay và mai sau.
Lời giải
Gợi ý:
- Đảm bảo yêu cầu về hình thức, dung lượng
+ Viết đúng hình thức đoạn văn (diễn dịch, quy nạp, móc xích…).
+ Đảm bảo dung lượng khoảng 200 chữ.
- Xác định đúng vấn đề nghị luận: ý nghĩa của việc khắc họa hình tượng nhân vật bà Thông trong “Nỗi buồn làng chiếu”.
- Hệ thống ý
+ Giới thiệu văn bản và nhân vật bà Thông.
+ Bà là nghệ nhân cuối cùng, gắn bó hơn 55 năm với nghề, dù nghề không nuôi sống nổi bản thân.
+ Hình tượng thể hiện phẩm chất bền bỉ, trung thành, lòng trân trọng di sản.
+ Qua đó, tác giả bày tỏ niềm thương cảm, đồng thời nhấn mạnh giá trị văn hóa và trách nhiệm giữ gìn.
+ Khẳng định ý nghĩa nhân văn sâu sắc của hình tượng.
- Phát triển đoạn văn logic, thuyết phục
+ Dẫn chứng từ văn bản để minh chứng cho nhận định.
+ Phân tích rõ ý nghĩa của việc khắc họa hình tượng nhân vật bà Thông được thể hiện nội dung văn bản.
- Đảm bảo ngữ pháp, liên kết:
+ Trình bày rõ ràng, mạch lạc, không mắc lỗi chính tả.
- Sáng tạo
+ Cách diễn đạt mới mẻ, có suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận.
Đoạn văn tham khảo
Trong văn bản Nỗi buồn làng chiếu, hình tượng bà Dương Thị Thông được khắc họa như một điểm sáng lay động lòng người. Bà là người con gái của một nghệ nhân nổi tiếng, gắn bó với nghề từ thuở mười tuổi và cho đến nay đã có hơn nửa thế kỷ đưa thoi, dệt chiếu. Giữa bối cảnh cả làng nghề mai một, chỉ còn mình bà “bám trụ”, hình ảnh ấy không chỉ gợi xót xa mà còn gợi niềm khâm phục. Bà Thông là biểu tượng của sự thủy chung, bền bỉ, trân trọng nghề tổ dù nghề không thể mang lại cuộc sống đủ đầy. Việc tác giả khắc họa nhân vật này không đơn thuần để kể một câu chuyện cá nhân, mà còn để gửi gắm thông điệp về trách nhiệm giữ gìn những giá trị văn hóa truyền thống đang dần phai nhạt. Hình tượng bà Thông vừa đẹp đẽ vừa day dứt, góp phần tạo nên chiều sâu nhân văn cho tác phẩm và đánh thức trong người đọc ý thức trân trọng, bảo tồn di sản tinh thần của cha ông.
Lời giải
Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.
Lời giải
Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.
Lời giải
Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.
Lời giải
Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.