Thi thành hoàng
(Nguyên tác: Khảo Thành Hoàng(1))
Ông tổ của anh rể tôi, Tống Công là một sinh viên ăn học bổng của ấp. Một hôm nằm bệnh, thấy có viên lại cầm văn thư, dắt một con ngựa trán có đốm trắng đến nói rằng:
- Xin mời ông đi thi
Ông nói:
- Quan giám khảo chưa đến, sao vội thi được?
Viên lại không nói gì, chỉ thúc đi. Ông bèn cố gượng cưỡi ngựa đi theo, thấy một con đường rất xa lạ đến một toà thành quách như nơi kinh đô. Một lát vào giải vũ(2), cung điện tráng lệ, ngồi trên có hơn mười vị quan, đều không biết là ai, chỉ biết có một vị là Quan Vũ(3). Dưới thêm bày hai đôn hai kỷ, trước mình đã có một vị tú tài ngồi trên một đôn. Ông bèn ngồi hai bên cạnh. Trên kỷ có đặt bút và giấy. Giây lát có đề thi đưa xuống nhìn xem thì có tám chữ: “Nhất nhân, nhị nhân, hữu tâm, vô tâm”.
Hai ông làm bài xong, trình lên điện, trong bài văn của ông có câu:
“Hữu tâm vi thiện, tuy thiện bất thưởng,
Vô tâm vi ác, tuy ác bất phạt”.
(Làm việc thiện mà có chủ ý thì không được thưởng,
Làm việc ác mà không có chủ ý thì không bị phạt).
Các thần đưa nhau xem, khen mãi không thôi, gọi lên báo rằng:
- Ở Hà Nam khuyết một chức Thành Hoàng, ông đáng giữ chức ấy.
Ông hiểu ra, đập đầu khóc mà thưa rằng:
- Được ân ban sủng đâu dám từ nan, chỉ hiềm một nỗi còn mẹ già bảy mươi tuổi, không ai phụng dưỡng. Xin được đến hết tuổi trời lúc ấy lục dụng(4) sẽ vâng theo.
Trên toà có vị vương giả truyền rằng:
- Tra sổ xem người mẹ thọ bao nhiêu?
Có một viên quan lại râu dài, lấy sổ ra xem, rồi bẩm:
- Theo sổ còn được ở dương gian chín năm nữa.
Trong lúc các quan còn dùng dằng thì quan đế nói:
- Không hề gì, cho Trương Sinh thay giữ chức ấy chín năm cũng được.
Một ông nói rằng:
- Đáng lẽ phải đi nhận chức ngay. Nay xét có lòng hiếu cho nghỉ chín năm. Đến kì hạn phải nghe vâng lệnh triệu.
Đoạn cũng phủ dụ ông tú tài kia vài lời. Hai ông cúi đầu chào lui xuống […] Ông lên ngựa từ biệt mà về, tới làng chợt như tỉnh mộng. Ông chết đã ba ngày rồi, bà mẹ bỗng nghe trong quan tài có tiếng rên rỉ, bèn mở ra, nửa ngày thì nói được. Hỏi đến Trường Sơn thì có Trương Sinh chết vào ngày hôm đó thật.
Chín năm sau, quả nhiên bà mẹ chết. Chôn cất mẹ xong, ông tắm gội vào nhà trong cũng mất luôn. Bên nhà vợ, ở trong cửa thành phía tây chợt thấy ông cưỡi ngựa choàng ngù đỏ, rất đông xe ngựa đi theo, lên nhà trên làm lễ rồi ra đi. Cả nhà lạ lùng, kinh ngạc, không biết rằng đã thành thần rồi. Chạy đi hỏi thăm tin tức trong làng, thì ông đã mất.
(Liêu trai chí dị - Bồ Tùng Linh, Biên dịch Đại Lãn, NXB Thanh Hoá, trang 638,639, năm 2004)
* Chú thích:
(1) Thành Hoàng: vị thần coi giữ, bảo trợ cho một vùng đất nào đó.
(2) Giải vũ: phòng ốc, sở quan, quan xá
(3) Quan Công: quan Vân Trường là một vị tướng nổi tiếng thời kì cuối nhà Đông Hán và thời Tam Quốc ở Trung Quốc
(4) Lục dụng: ghi tên để bổ dụng
Thi thành hoàng
(Nguyên tác: Khảo Thành Hoàng(1))
Ông tổ của anh rể tôi, Tống Công là một sinh viên ăn học bổng của ấp. Một hôm nằm bệnh, thấy có viên lại cầm văn thư, dắt một con ngựa trán có đốm trắng đến nói rằng:
- Xin mời ông đi thi
Ông nói:
- Quan giám khảo chưa đến, sao vội thi được?
Viên lại không nói gì, chỉ thúc đi. Ông bèn cố gượng cưỡi ngựa đi theo, thấy một con đường rất xa lạ đến một toà thành quách như nơi kinh đô. Một lát vào giải vũ(2), cung điện tráng lệ, ngồi trên có hơn mười vị quan, đều không biết là ai, chỉ biết có một vị là Quan Vũ(3). Dưới thêm bày hai đôn hai kỷ, trước mình đã có một vị tú tài ngồi trên một đôn. Ông bèn ngồi hai bên cạnh. Trên kỷ có đặt bút và giấy. Giây lát có đề thi đưa xuống nhìn xem thì có tám chữ: “Nhất nhân, nhị nhân, hữu tâm, vô tâm”.
Hai ông làm bài xong, trình lên điện, trong bài văn của ông có câu:
“Hữu tâm vi thiện, tuy thiện bất thưởng,
Vô tâm vi ác, tuy ác bất phạt”.
(Làm việc thiện mà có chủ ý thì không được thưởng,
Làm việc ác mà không có chủ ý thì không bị phạt).
Các thần đưa nhau xem, khen mãi không thôi, gọi lên báo rằng:
- Ở Hà Nam khuyết một chức Thành Hoàng, ông đáng giữ chức ấy.
Ông hiểu ra, đập đầu khóc mà thưa rằng:
- Được ân ban sủng đâu dám từ nan, chỉ hiềm một nỗi còn mẹ già bảy mươi tuổi, không ai phụng dưỡng. Xin được đến hết tuổi trời lúc ấy lục dụng(4) sẽ vâng theo.
Trên toà có vị vương giả truyền rằng:
- Tra sổ xem người mẹ thọ bao nhiêu?
Có một viên quan lại râu dài, lấy sổ ra xem, rồi bẩm:
- Theo sổ còn được ở dương gian chín năm nữa.
Trong lúc các quan còn dùng dằng thì quan đế nói:
- Không hề gì, cho Trương Sinh thay giữ chức ấy chín năm cũng được.
Một ông nói rằng:
- Đáng lẽ phải đi nhận chức ngay. Nay xét có lòng hiếu cho nghỉ chín năm. Đến kì hạn phải nghe vâng lệnh triệu.
Đoạn cũng phủ dụ ông tú tài kia vài lời. Hai ông cúi đầu chào lui xuống […] Ông lên ngựa từ biệt mà về, tới làng chợt như tỉnh mộng. Ông chết đã ba ngày rồi, bà mẹ bỗng nghe trong quan tài có tiếng rên rỉ, bèn mở ra, nửa ngày thì nói được. Hỏi đến Trường Sơn thì có Trương Sinh chết vào ngày hôm đó thật.
Chín năm sau, quả nhiên bà mẹ chết. Chôn cất mẹ xong, ông tắm gội vào nhà trong cũng mất luôn. Bên nhà vợ, ở trong cửa thành phía tây chợt thấy ông cưỡi ngựa choàng ngù đỏ, rất đông xe ngựa đi theo, lên nhà trên làm lễ rồi ra đi. Cả nhà lạ lùng, kinh ngạc, không biết rằng đã thành thần rồi. Chạy đi hỏi thăm tin tức trong làng, thì ông đã mất.
(Liêu trai chí dị - Bồ Tùng Linh, Biên dịch Đại Lãn, NXB Thanh Hoá, trang 638,639, năm 2004)
* Chú thích:
(1) Thành Hoàng: vị thần coi giữ, bảo trợ cho một vùng đất nào đó.
(2) Giải vũ: phòng ốc, sở quan, quan xá
(3) Quan Công: quan Vân Trường là một vị tướng nổi tiếng thời kì cuối nhà Đông Hán và thời Tam Quốc ở Trung Quốc
(4) Lục dụng: ghi tên để bổ dụng
Xác định ngôi kể của văn bản.
Câu hỏi trong đề: 40 Ngữ liệu ngoài sách giáo khoa lớp 12 phần Truyện !!
Quảng cáo
Trả lời:

Truyện được kể theo ngôi thứ ba (Người kể chuyện toàn tri)/ ngôi thứ 3.
Câu hỏi cùng đoạn
Câu 2:
Đề thi mà Tống Công nhận được có nội dung như thế nào? Hãy nêu ý nghĩa của tám chữ ấy.

Đề thi gồm tám chữ: “Nhất nhân, nhị nhân, hữu tâm, vô tâm”. Đây là những khái niệm đối lập liên quan đến tình cảm, tư tưởng và hành động của con người, nhằm kiểm tra sự hiểu biết và cách lý giải về đạo đức, thiện – ác.
Câu 3:
Chỉ ra dấu hiệu về phạm vi giao tiếp của ngôn ngữ trang trọng được thể hiện trong đoạn văn dưới đây.
Các thần đưa nhau xem, khen mãi không thôi, gọi lên báo rằng:
- Ở Hà Nam khuyết một chức Thành Hoàng, ông đáng giữ chức ấy.
Ông hiểu ra, đập đầu khóc mà thưa rằng:
- Được ân ban sủng đâu dám từ nan, chỉ hiềm một nỗi còn mẹ già bảy mươi tuổi, không ai phụng dưỡng. Xin được đến hết tuổi trời lúc ấy lục dụng sẽ vâng theo.

Dấu hiệu về phạm vi giao tiếp của ngôn ngữ trang trọng được thể hiện trong đoạn văn là: giao tiếp diễn ra trong một cuộc họp (trao đổi về việc phong chức, nhận chức của Tống Công sau một kì thi)
Câu 4:
Câu văn trong bài làm của Tống Công: “Hữu tâm vi thiện, tuy thiện bất thưởng; Vô tâm vi ác, tuy ác bất phạt” có nghĩa là gì?

Câu văn nghĩa là: Làm việc thiện mà có chủ ý, tính toán thì không đáng khen thưởng; làm việc ác mà vô tình, không cố ý thì không bị phạt. Ý nghĩa ở đây là đề cao cái thiện xuất phát từ bản tâm trong sáng, và phê phán hành động vụ lợi, giả dối.
Câu 5:
Qua chi tiết Tống Công xin khất lại việc nhận chức để phụng dưỡng mẹ, anh/ chị thấy ông là người như thế nào?

Chi tiết này cho thấy ông là người con có lòng hiếu thảo, coi trọng đạo làm con hơn lợi danh. Lòng hiếu trở thành thước đo đạo đức của nhân vật và cũng được thế giới siêu nhiên công nhận.
Câu 6:
Trình bày tác dụng của việc sử dụng các chi tiết kì ảo trong truyện.

- Các chi tiết kì ảo trong truyện là:
+ Tống Công ốm chết, xuống âm phủ được mời đi thi Thành Hoàng, thi đỗ nhưng được trở về dương gian chín năm để phụng dưỡng mẹ già.
+ Chín năm sau, người mẹ mất, Tống công chết và thành thần như đã hứa với các thần.
- Tác dụng:
+ Làm cho câu chuyện thêm li kì, thú vị, hấp dẫn người đọc.
+ Kín đáo phản ảnh hiện thực, người có tài có đức sẽ có nhân quả tốt đẹp qua đó thể hiện thái độ trân trọng người có tài, có đức hiếu thuận của tác giả.
Câu 7:
Nêu chủ đề của văn bản.

Chủ đề của văn bản:
Thông qua sự việc Tống Công thi đỗ Thành Hoàng dưới âm phủ và sự việc ông được trở lại dương giới chín năm để phụng dưỡng mẹ già, sau khi lo xong hậu sự cho mẹ mới phải đi nhậm chức, tác phẩm đã làm nổi bật chủ đề: Ngợi ca người có tài, có đức, ngợi ca lòng hiếu thuận. Người có tài, có đức thì ở đâu cũng được tin tưởng, trọng dụng. Lòng hiếu thảo của con cái đối với mẹ cha thấu tận trời xanh, có thể cảm hoá được cả thần linh, vượt qua được cả sự sắp đặt của số phận.
Câu 8:
Theo em, truyện “Thi Thành Hoàng” muốn gửi gắm thông điệp tư tưởng, giá trị đạo đức nào?

Tác phẩm đề cao đạo hiếu – coi hiếu thảo với cha mẹ là chuẩn mực cao nhất của đạo làm người; đồng thời khẳng định công lý ở đời: cái thiện được ghi nhận, cái ác bị trừng phạt; tôn vinh phẩm chất trong sáng, nhân nghĩa của con người.
Câu 9:
Từ lòng hiếu thảo của nhân vật Tống Công trong văn bản, anh/chị hãy nêu suy nghĩ của bản thân về những việc cần làm để thể hiện sự hiếu kính của mình đối với cha mẹ (trình bày khoảng 5 đến 7 dòng).

Có thể theo định hướng sau :
- Luôn chăm ngoan, vâng lời cha mẹ.
- Cố gắng học tập, rèn luyện, tu dưỡng bản thân.
- Chủ động chăm sóc, phụng dưỡng cha mẹ lúc ốm đau, già yếu.
- Chủ động làm việc nhà, chia sẻ, tâm sự với cha mẹ,…
Hot: Danh sách các trường đã công bố điểm chuẩn Đại học 2025 (mới nhất) (2025). Xem ngay
- Sổ tay Ngữ Văn 12 (chương trình mới) ( 18.000₫ )
- 30 Bộ đề, Tổng ôn, sổ tay NLXH, sổ tay trọng tâm môn Ngữ Văn (có đáp án chi tiết) ( 60.000₫ )
- Sổ tay lớp 12 các môn Toán, Lí, Hóa, Văn, Sử, Địa, KTPL (chương trình mới) ( 36.000₫ )
- Bộ đề thi tốt nghiệp 2025 các môn Toán, Lí, Hóa, Văn, Anh, Sinh, Sử, Địa, KTPL (có đáp án chi tiết) ( 36.000₫ )
CÂU HỎI HOT CÙNG CHỦ ĐỀ
Lời giải
Gợi ý:
- Đảm bảo yêu cầu về hình thức, dung lượng
+ Viết đúng hình thức bài văn đầy đủ ba phần Mở bài, Thân bài, Kết bài.
+ Đảm bảo dung lượng khoảng 600 chữ.
- Xác định đúng vấn đề nghị luận: Phân tích văn bản ngữ liệu “Thi Thành Hoàng” của Bồ Tùng Linh.
- Lựa chọn được các thao tác lập luận phù hợp; kết hợp nhuần nhuyễn lí lẽ và dẫn chứng; trình bày được hệ thống ý phù hợp theo bố cục ba phần của bài văn nghị luận. Có thể triển khai theo hướng:
* Mở bài:
- Giới thiệu tác giả Bồ Tùng Linh (1640–1715), một nhà văn nổi tiếng đời Thanh (Trung Quốc) với tập Liêu trai chí dị, chuyên viết truyện ngắn kì ảo, vừa giải trí vừa gửi gắm tư tưởng nhân sinh.
- Dẫn dắt giới thiệu truyện Thi Thành Hoàng – một thiên truyện tiêu biểu, phản ánh quan niệm đạo đức truyền thống, ca ngợi nhân cách, lòng hiếu thảo và tài năng của con người.
* Thân bài:
a. Tóm tắt ngắn gọn văn bản
- Nhân vật chính: Tống Công – một nho sinh, có học, có đức.
- Câu chuyện kì ảo: Tống Công được gọi đi thi ở “cõi âm”, làm bài văn xuất sắc, được giao chức Thành Hoàng Hà Nam.
- Do hiếu thảo, ông xin khất để chăm sóc mẹ già, được chấp thuận; chín năm sau, sau khi mẹ mất, ông mới chính thức nhậm chức thần linh.
b. Phân tích các chi tiết, hình tượng nghệ thuật
- Yếu tố kì ảo: Cuộc “đi thi” ở âm phủ, giấc mộng – thực, sự gặp gỡ Quan Vũ và các vị thần → tạo sự hấp dẫn, huyền bí, đồng thời phản ánh quan niệm “trần sao âm vậy” trong dân gian.
- Bài thi và tư tưởng nhân sinh: Câu văn “Hữu tâm vi thiện… vô tâm vi ác…” thể hiện cái nhìn công bằng, minh triết: thiện – ác phải xét đến động cơ, không chỉ hành vi. Đây cũng là thước đo để đánh giá con người.
- Nhân vật Tống Công:
+ Con người tài năng, học vấn uyên thâm (làm văn xuất sắc).
+ Con người có đức độ, hiếu thảo, đặt chữ hiếu lên trên vinh hoa chức tước.
+ Trở thành Thành Hoàng – vị thần bảo hộ, khẳng định giá trị của tài năng và đạo đức.
- Ý nghĩa biểu tượng:
+ Tôn vinh những phẩm chất tốt đẹp (hiếu thảo, tài năng, nhân cách thanh liêm).
+ Thể hiện quan niệm “ở hiền gặp lành”, “người có tài có đức tất được trọng dụng”.
c. Giá trị tư tưởng – nghệ thuật của truyện
- Tư tưởng: Đề cao đạo hiếu, ca ngợi tài năng và phẩm chất tốt đẹp của con người.
- Nghệ thuật:
+ Kết hợp yếu tố kì ảo và hiện thực, tạo nên sự hấp dẫn.
+ Cách kể chuyện tự nhiên, mạch lạc, dẫn dắt người đọc từ cái lạ đến ý nghĩa nhân sinh.
- Truyện cho thấy mối liên hệ văn hoá, văn học giữa Trung Quốc và Việt Nam: quan niệm về thần linh, về đạo hiếu, về sự công bằng của thiện – ác đều có điểm tương đồng.
* Kết bài:
- Khẳng định giá trị của Thi Thành Hoàng: không chỉ là một truyện kì ảo li kì, mà còn gửi gắm triết lí nhân sinh sâu sắc, khẳng định quy luật “ở hiền gặp lành, thiện ác hữu báo”.
- Liên hệ: Truyện vẫn còn nguyên ý nghĩa trong xã hội hôm nay, nhắc nhở con người sống có hiếu, có đức, có tài để được trân trọng, dù ở bất cứ thời đại nào.
Bài văn tham khảo
Bồ Tùng Linh (1640–1715) là một cây bút đặc sắc của văn học Trung Quốc thời Thanh, nổi tiếng với tập truyện ngắn Liêu trai chí dị. Bằng bút pháp kì ảo, ông đã sáng tạo nên nhiều thiên truyện vừa hấp dẫn vừa chứa đựng tư tưởng nhân sinh sâu sắc. Trong đó, Thi Thành Hoàng là một truyện tiêu biểu, phản ánh quan niệm đạo đức truyền thống, đồng thời ca ngợi tài năng và đức hạnh của con người.
Câu chuyện kể về Tống Công, một nho sinh trong lúc bệnh tật bỗng được gọi đi “thi” ở cõi âm. Ông làm bài thi xuất sắc với câu văn nổi bật: “Hữu tâm vi thiện, tuy thiện bất thưởng; vô tâm vi ác, tuy ác bất phạt”, được các vị thần khen ngợi và dự định bổ làm Thành Hoàng ở Hà Nam. Tuy nhiên, ông xin khất vì muốn phụng dưỡng mẹ già, nhờ vậy được chấp thuận. Sau chín năm, khi mẹ mất, ông cũng qua đời và chính thức nhậm chức thần linh.
Truyện gây ấn tượng trước hết ở yếu tố kì ảo. Người đọc bị cuốn hút bởi hành trình “dự thi” của nhân vật tại một thế giới khác – nơi có thành quách, điện ngọc, quan lại, thậm chí có sự xuất hiện của Quan Vũ. Hình ảnh ấy vừa kì bí vừa gần gũi, bởi nó phản ánh niềm tin dân gian rằng cõi âm cũng có tổ chức giống như trần gian. Cách xây dựng không gian và tình huống lạ lùng này làm nổi bật tư tưởng mà tác giả muốn gửi gắm.
Điểm sáng trong tác phẩm chính là bài văn của Tống Công. Quan niệm “thiện – ác” ở đây không chỉ dựa trên hành vi bề ngoài, mà phải xét đến động cơ bên trong: làm việc thiện mà có tính toán thì chưa hẳn đáng thưởng, làm việc ác nhưng vô tình thì cũng không thể hoàn toàn trách phạt. Đó là một tư tưởng tiến bộ, nhấn mạnh sự công bằng và bản chất thực của đạo đức con người.
Nhân vật Tống Công hiện lên là con người vừa có tài vừa có đức. Tài năng thể hiện qua bài văn xuất sắc khiến các vị thần ngưỡng mộ. Đức hạnh bộc lộ qua lòng hiếu thảo, khi ông sẵn sàng từ chối vinh dự lớn lao để ở lại phụng dưỡng mẹ già. Trong xã hội truyền thống Á Đông, chữ hiếu là nền tảng đạo lý, và qua nhân vật này, Bồ Tùng Linh đã khẳng định: người có hiếu mới xứng đáng được trọng dụng và ghi nhớ muôn đời. Việc Tống Công sau đó trở thành Thành Hoàng càng cho thấy sự đền đáp xứng đáng dành cho người có tài năng và đạo đức.
Về giá trị nghệ thuật, Thi Thành Hoàng kết hợp hài hòa yếu tố kì ảo và hiện thực, khiến câu chuyện vừa hấp dẫn, vừa dễ khắc sâu trong trí nhớ. Lối kể mạch lạc, dẫn dắt tự nhiên, tạo nên một câu chuyện kì dị nhưng chứa đựng những bài học đạo lý quen thuộc. Đằng sau lớp vỏ huyền bí là một thông điệp rõ ràng: con người cần sống có hiếu, có đức, làm việc thiện bằng cái tâm trong sáng.
Tóm lại, Thi Thành Hoàng không chỉ là một thiên truyện li kì trong Liêu trai chí dị, mà còn mang giá trị nhân sinh bền vững. Bằng việc xây dựng nhân vật Tống Công hiếu thảo, tài năng, tác giả đã khẳng định đạo lý truyền thống và quy luật muôn đời: “ở hiền gặp lành, thiện ác hữu báo”. Trong xã hội hôm nay, câu chuyện vẫn nhắc nhở mỗi người hãy sống bằng sự tử tế, chân thành, đặt tình thân và đạo đức lên trên mọi vinh hoa lợi lộc.
Lời giải
Gợi ý:
- Đảm bảo yêu cầu về hình thức, dung lượng
+ Viết đúng hình thức đoạn văn (diễn dịch, quy nạp, móc xích…).
+ Đảm bảo dung lượng khoảng 200 chữ.
- Xác định đúng vấn đề nghị luận
+ So sánh, đánh giá kết thúc truyện “Thi Thành Hoàng” ở phần Đọc hiểu với kết thúc truyện “Chuyện chức phán sự đền Tản Viên” – Nguyễn Dữ.
- Hệ thống ý:
+ Điểm giống: Cả hai truyện đều kết thúc có hậu bằng một chi tiết kì ảo: Nhân vật chính vì là người tài đức nên sau khi mất đi, sang thế giới bên kia làm quan; người nhà/ người quen sau đó thoáng nhìn thấy nhân vật hiện về có kẻ hầu, người hạ, ngựa mũ, áo mão đầy đủ.
+ Điểm khác:
++ Truyện “Chuyện chức phán sự đền Tản Viên”, nhân vật khi còn sống là người ngay thẳng không sợ gian tà, dám chống lại cái xấu, cái ác, bảo vệ cái thiện nên chết đi và được làm quan Phán sự (Chức quan xem xét về các vụ kiện tụng, giúp việc cho người xử án, chức quan thực hiện công lí).
++ Truyện “Thi Thành Hoàng”, nhân vật chết đi thành thần, được giữ chức Thành Hoàng ở Hà Nam theo hẹn định, là vị chủ thần trông coi, quản lí vùng Hà Nam.
+ Ý nghĩa: Tuy có nét khác nhau nhưng về cơ bản kết thúc của hai truyện có nhiều điểm tương đồng rõ nét. Nét tương đồng trong kết thúc truyện này đã thể hiện được điểm tương đồng trong quan điểm, tư tưởng của Nguyễn Dữ và Bồ Tùng Linh. Cả hai nhà văn đều tin rằng cái đẹp, cái thiện sẽ chiến thắng cái xấu, cái ác, người có tài, có tâm ắt sẽ được trọng dụng, báo đáp,...Kết thúc này cũng thể hiện rõ mối quan hệ mật thiết và sự ảnh hưởng qua lại của tư tưởng, văn hoá, văn học giữa Việt Nam và Trung Quốc cũng như các nước khác trong khu vực, khẳng định quy luật bảo lưu và tiếp biến của văn học.
- Phát triển đoạn văn logic, thuyết phục
+ Dẫn chứng từ văn bản để minh chứng cho nhận định.
+ So sánh điểm tương đồng và khác biệt trong kết thúc truyện được thể hiện trong văn bản đọc hiểu và truyện “Chuyện chức phán sự đền Tản Viên” – Nguyễn Dữ.
- Đảm bảo ngữ pháp, liên kết:
+ Trình bày rõ ràng, mạch lạc, không mắc lỗi chính tả.
- Sáng tạo
+ Cách diễn đạt mới mẻ, có suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận.
Đoạn văn tham khảo
Kết thúc của truyện Thi Thành Hoàng (Bồ Tùng Linh) và Chuyện chức phán sự đền Tản Viên (Nguyễn Dữ) có nhiều nét tương đồng, song cũng mang những điểm khác biệt riêng. Giống nhau, cả hai đều sử dụng chi tiết kì ảo để tạo nên cái kết có hậu: nhân vật chính sau khi qua đời đều được trao trọng trách ở thế giới thần linh. Sự trở lại thoáng chốc trong hình ảnh uy nghiêm, với ngựa xe, áo mũ, kẻ hầu, người hạ đã khẳng định giá trị của con người tài đức. Tuy nhiên, sự khác biệt thể hiện ở cách xây dựng nhân vật. Trong Chuyện chức phán sự đền Tản Viên, Ngô Tử Văn hiện lên là bậc chính trực, cương nghị, dám đối đầu với cái ác, nên khi chết đi được phong làm quan Phán sự, thay mặt xử lí công minh. Ngược lại, nhân vật Tống Công trong Thi Thành Hoàng được đề cao ở tấm lòng hiếu thảo, sự học hành, nhân cách thanh liêm, nên sau này được phong làm Thành Hoàng – vị thần bảo hộ một vùng đất. Như vậy, tuy khác nhau về trọng tâm ca ngợi, nhưng cả hai tác phẩm đều gặp gỡ ở tư tưởng: người chính trực, có tài, có đức sẽ luôn được trọng dụng, được ghi nhận cả khi đã khuất. Đây cũng là minh chứng cho sự tương thông trong quan niệm đạo đức, văn hoá giữa Việt Nam và Trung Quốc thời trung đại.
Lời giải
Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.
Lời giải
Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.
Lời giải
Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.
Lời giải
Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.