Danh sách câu hỏi

Có 22,399 câu hỏi trên 448 trang
Đọc. LÝ THƯỜNG KIỆT Lý Thường Kiệt là một nhà quân sự, nhà chính trị nổi tiếng của nước ta. Trong cuộc chiến tranh chống Tống ở triều đại nhà Lý, Lý Thường Kiệt được vua giao chỉ huy quân ta chống giặc. Trong trận chiến chống giặc Tống trên sông Như Nguyệt, Lý Thường Kiệt đã bố trí quân đội sẵn sàng đón địch. Kế hoạch phòng thủ của Lý Thường Kiệt là chặn quân Tống từ bờ nam sông Như Nguyệt. Nếu để giặc vượt sông, chúng sẽ dễ dàng chiếm kinh đô Thăng Long như trở bàn tay. Lý Thường Kiệt hạ lệnh cho người dân ở bờ bắc sông Như Nguyệt di cư sang bờ nam để tránh sự đàn áp của giặc, rồi lập doanh trại ở bờ nam để chống giữ. Ông cho đắp đê Nam Ngạn cao như bức tường thành. Ngoài đê thì đóng cọc tre mấy tầng. Chiến thuyền rút về hết bờ nam, sẵn sàng đón đánh quân địch. Chiến sự diễn ra hàng tháng trời. Quân giặc tuy thế mạnh, người đông nhưng mấy lần vượt sông đều bị đánh lui. Tuy vậy, quân ta cũng dần dần núng thế. Tình thế hết sức nguy cấp. Để cổ vũ tinh thần quân sĩ và làm nao núng địch, Lý Thường Kiệt bèn sai người tâm phúc, đang đêm đọc vang bài thơ trong đền thờ Trương Hồng, Trương Hát (bên bờ sông Như Nguyệt): Sông núi nước Nam, vua Nam ở Rành rành định phận ở sách trời Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời. Đang đêm, nghe tiếng thơ vang lên sang sảng, hào hùng, ai cũng cho rằng thần làm ra bài thơ đó để báo trước việc quân giặc tất bại, quân ta tất thắng. Lòng tin tưởng vào thắng lợi được củng cố, quân sĩ ai nấy đều phấn khởi. Khí thế đã hăng, Lý Thường Kiệt bèn mở cuộc tiến công, đánh cho giặc Tống đại bại, phải cầu hòa và rút về nước. Bài thơ được coi là bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của nước ta. (Theo Lưu Hồng Hải) * Đây là bản dịch ra tiếng Việt; bài thơ viết bằng chữ Hán. Núng (thế): không còn vững chắc, không còn đủ sức chịu đựng, chống đỡ nữa. Tuyên ngôn: bản tuyên bố của một quốc gia hoặc một tổ chức.
Đọc. THỜI GIAN LUÔN LUÔN CÔNG BẰNG Rô-đanh sinh ra trong một gia đình nghèo khó. Ngay từ khi còn nhỏ, ông đã thích vẽ vời khắp nơi, vẽ những thứ ông nhìn thấy và cả những thứ ông tưởng tượng ra. Vào ngày sinh nhật, cha mẹ đã đặc biệt mua tặng Rô-đanh những cây bút chì vẽ. Rô-đanh rất thích món quà này. Có nó, Rô-đanh càng hăng say vẽ hơn. Chị gái Rô-đanh thấy em thích vẽ đã động viên cậu đi học đào tạo chuyên sâu. Thế nhưng nhà không có tiền nộp học phí, phải làm sao bây giờ? Chị gái ông sau khi hỏi thăm ở nhiều nơi, cuối cùng đã tìm được một trường dạy miễn phí. Mặc dù trường này chủ yếu đào tạo nhân tài về thủ công mĩ nghệ và kĩ thuật, nhưng vì được học miễn phí, nên Rô-đanh vẫn rất phấn chấn. Mỗi ngày, trường chỉ tổ chức học một buổi, nên khi tan học, Rô-đanh lại chạy tới Bảo tàng Lu-vrơ để quan sát và vẽ theo những bức tranh nổi tiếng trưng bày ở đây. Khi lần đầu tiên được nhìn thấy những bức tranh này, ông đã vui mừng không nói ra lời mà chỉ thầm nghĩ trong lòng: "Họ vẽ đẹp quá! Trình độ của mình còn kém xa, mình nhất định phải cố gắng!". Mỗi ngày quan sát và mô phỏng tranh ở Bảo tàng Lu-vrơ, Rô-đanh được mở rộng tầm nhìn nghệ thuật và trình độ đánh giá, đồng thời củng cố sự tự tin trong những bức vẽ của ông. Rô-đanh rất tự giác trong học tập. Ngoài việc học trên lớp, ông còn tự tìm thêm bài tập cho mình. Vào thời gian rảnh rỗi, ông thường mang theo sách vở đi vẽ. Đi đến đâu về đến đấy, nhìn thấy cái gì liền vẽ cái đấy. Thấy những bạn học rất ham chơi, trong lòng ông nghĩ: "Lãng phí thời gian quý giá như vậy thì thật đáng tiếc!" Thời gian luôn luôn công bằng, nó không để sự cố gắng của Rô-đanh trở nên hoang phí. Rô-đanh chăm chỉ nỗ lực, không nao núng trước khó khăn, ông đã sáng tác ra một số lượng lớn các tác phẩm điêu khắc để đời và được cả thế giới công nhận và kính phục. (Theo Giả Vân Bằng) Rô-đanh (1840-1917): nhà hoạ sĩ, nhà điêu khắc hàng đầu của Pháp. Lu-vrơ: Viện bảo tàng nghệ thuật và di tích lịch sử nổi tiếng tại thủ đô Pa-ri của nước Pháp. Mô phỏng: bắt chước cả một quá trình, một hệ thống.
ĐỌC – HIỂU PHÂN XỬ TÀI TÌNH Ngày xưa, có một vị quan án rất tài. Vụ án rắc rối đến mấy, ông cũng tìm ra manh mối và phân xử rất công bằng. Một hôm, có hai người đàn bà đến công đường với một tấm vải. Trước mặt quan, một người mếu máo thưa: - Bẩm quan, sáng nay con mang vải đi chợ bán, bà này hỏi mua, con đưa cho bà ấy xem. Thế rồi tự dưng bà ấy cướp không tấm vải bảo là của mình, nhất định không chịu trả lại cho con nữa. Xin quan đèn trời soi xét. Quan nhìn sang người đàn bà thứ hai thì thấy bà ta cũng rưng rưng nước mắt kế: Bẩm quan, tấm vải này con vừa dệt xong, mang đi chợ bán. Chính bà này lấy của con vậy mà còn dám đặt điều vu oan cho con. Quan ngắt lời hai người, yêu cầu mỗi bên phải dẫn ra người làm chứng. Nhưng cả hai đều không tìm được vì sự việc xảy ra ở nơi vắng vẻ. Quan cho lính về tận nhà từng người đề xem xét có đúng vải do họ dệt ra như lời khai hay không. Lính trở về thuật lại rằng cả hai đều có khung cửi như nhau, khổ vải bằng nhau và cùng mang vải đi chợ bán hôm ấy. Quan nhìn vào thần sắc từng người để dò ý tứ, nhưng chỉ thấy vẻ đau đớn vì mất của hiện trên nét mặt của cả hai người. Ngẫm một lát, quan ôn tồn bảo họ: Hai người nói đều có lí cả. Biết làm sao bây giờ? Thôi, ta xử thế này: đem tấm vải xé ra làm đôi, chia cho mỗi người một nửa. Thế là ổn. Hãy về nhà mà làm ăn! Nói xong, quan sai lính đo vải để xé làm đôi. Thấy vậy, một người đàn bà bỗng ôm mặt bật khóc. Lập tức, quan sai đưa cả tấm vải cho người này rồi thét lính trói người kia lại vì chỉ có chủ nhân thực sự của tấm vải mới đau xót như vậy. Quả nhiên, sau một hồi tra khảo, người đàn bà kia đành cúi đầu nhận tội. (Theo Nguyên Đổng Chi) Quan án: chức quan ngày xưa chuyên lo việc điều tra và xét xử. Công đường: nơi làm việc của quan lại ngày xưa. Làm chứng: (người) đứng ra xác nhận những điều mình đã chứng kiến.
Gạch dưới các từ ngữ được dùng để liên kết câu trong mỗi đoạn văn dưới đây và cho biết đó là cách liên kết nào? a. Buổi sáng hôm nay, mùa đông đột nhiên đến, không báo cho biết trước. Vừa mới ngày hôm qua, trời hãy còn nắng ấm và hanh, cái nắng về cuối tháng Mười làm nứt nẻ đất ruộng và giòn khô những chiếc lá rơi. Thế mà quê một đêm mưa rào, trời bỗng đổi gió bấc, rồi cái lạnh ở đâu đến làm cho người ta tưởng đang ở giữa mùa đông rét mướt. (Theo Thạch Lam) Đoạn văn trên liên kết câu bằng cách ……………………………………………………… b. Đất nước thanh bình, xuồng ba lá lại trở về cuộc sống đời thường. Xuống ngược xuôi miền chợ nổi. Xuồng lướt nhanh trên cánh đồng rì rào sóng lúa. Xuống rộn ràng những đêm giăng câu, thả lưới. Và mỗi sớm mai, trên nhánh sông quê, những chiếc xuồng ba lá theo dòng nước toả đi, chở đầy ước mơ, khát vọng của tình đất, tình người phương Nam. (Theo Nguyễn Chí Ngoan) Đoạn văn trên liên kết câu bằng cách ……………………………………………………… c. Ơ-gien Pô-chi-ê sinh trưởng trong một gia đình công nhân nghèo ở Pa-ri – thủ đô nước Pháp. Thuở nhỏ, ông không có điều kiện đi học. Năm 15 tuổi, ông theo cha làm thợ đóng gói, rồi chạy việc cho một hiệu bán giày. Mãi về sau, ông mới học đọc, học viết và làm thợ in hoa trên vải. (Nguyễn Hoàng) Đoạn văn trên liên kết câu bằng cách ………………………………………………………
Đọc NGHE CA HUẾ TRÊN SÔNG HƯƠNG Ca Huế là một loại hình nghệ thuật độc đáo của người dân có đô, được lưu giữ và phát triển qua hàng trăm năm nay. Buổi tối, đi thuyền trên sông Hương nghe ca Huế là một trải nghiệm vô cùng tuyệt vời với tất cả những ai đặt chân tới vùng đất này. Khi hoàng hôn mỗi ngày buông xuống, bến tàu gần cầu Trường Tiền thật nhộn nhịp. Hàng chục thuyền rồng tấp nập đón khách nghe hát. Thuyền rời bến xuôi dòng sông Hương khi du khách đã ngồi kín khoang. Về đêm, thành quách hai bên bờ sông nguy nga, rực rỡ trong ánh đèn màu. Ra đến giữa dòng, thuyền tắt máy và thả trôi, trả lại không gian yên tĩnh, thơ mộng cho dòng sông. Chương trình ca Huế được bắt đầu. Mở đầu là một vài khúc nhã nhạc cung đình – một thể loại nhạc phục vụ trong cung đình thời phong kiến xưa. Lời hát tao nhã cùng điệu thức cao sang, quý phái, cuốn hút người nghe bởi sự trang trọng nhưng không thiếu phần gần gũi. Tiếp đến là các làn điệu dân ca Huế với điệu Lí mười thương, Lí giao duyên,... Du khách được đắm mình trong không gian nghệ thuật đậm chất cố đô. Các diễn viên, nhạc công đều là những nam thanh nữ tú trong bộ áo dài, khăn xếp truyền thống vô cùng lịch sự và tao nhã. Các nhạc cụ được sử dụng là đàn tranh, đàn tì bà, đàn nhị, đàn nguyệt, đàn bầu, sáo và cặp sênh tiền để gõ nhịp. Ngoài ra, có một nhạc cụ rất đặc biệt là những chiếc tách uống trà, được dùng làm bộ gõ, kết hợp cho các bài hát có tiết tấu nhanh, mạnh, nghe rất vui tai. Giữa một không gian không thể yên bình hơn, ngồi tựa mạn thuyền rồng, nghe những làn điệu dân ca ngọt ngào say đắm cất lên trên bồng bềnh sông nước, thật là một thủ chơi nghệ thuật tinh tế của những người yêu Huế. (Theo Hà Thanh Huyền) Tao nhã: vẻ thanh cao, trang nhã, lịch sự. Cặp sênh tiền: nhạc cụ gõ để hoà tấu, giữ nhịp, làm bằng thanh gỗ cứng, một đầu có đình gắn những đồng tiền xu.