Danh sách câu hỏi

Có 28,949 câu hỏi trên 579 trang
Đọc văn bản sau và trả lời những câu hỏi bên dưới: Chợ tết Đoàn Văn Cừ Dải mây trắng đỏ dần trên đỉnh núi, Sương hồng lam ôm ấp nóc nhà tranh Trên con đường viền trắng mép đồi xanh, Người các ấp tưng bừng ra chợ tết. Họ vui vẻ kéo hàng trên cỏ biếc; Những thằng cu áo đỏ chạy lon xon. Vài cụ già chống gậy bước lom khom, Cô yếm thắm che môi cười lặng lẽ. Thằng em bé nép đầu bên yếm mẹ, Hai người thôn gánh lợn chạy đi đầu, Con bò vàng ngộ nghĩnh đuổi theo sau. Sương trắng rỏ đầu cành như giọt sữa Tia nắng tía nháy hoài trong ruộng lúa, Núi uốn mình trong chiếc áo the xanh, Đồi thoa son nằm dưới ánh bình minh   Người mua bán ra vào đầy cổng chợ Con trâu đứng vờ dim hai mắt ngủ Để lắng nghê người khách nói bô bô Anh hàng tranh kiux kịt quẩy đôi bồ Tìm đến chỗ đông người ngồi giở bán Một thầy khóa gò lưng trên cánh phản Tay mài nghiên hí hoáy viết thơ xuân Cụ đồ nho dừng lại vuốt râu cằm Miệng nhẩm đọc vài hàng câu đối đỏ Bà cụ lão bán hàng bên miếu cổ Nước thời gian gội tóc trắng phau phau Chú hoa man đầu chít chiếc khăn nâu Ngồi xếp lại đống vàng trên mặt chiếu. Áo cụ lí bị người chen sấn kéo Khăn trên đầu đang chít cũng bung ra. Lũ trẻ ccon mải ngắm bức tranh gà, Quên cả chị bên đường đang đứng gọi. Mấy cô gái ôm nhau cười rũ rượu, Cạnh anh chàng bán pháp dưới cây đa. Những mẹt cam đỏ chót tựa con pha Thúng gạo nếp đong đầy như núi tuyết, Con gà trống mào thâm như cục tiết Một người mua cầm cẳng dốc lên xem.   Chợ tưng bừng như thể đến gần đêm Khi chuông tối bên chùa văng vẳng đánh, Trên con đường đi các làng hẻo lánh Những người quê lũ lượt trở ra về Ánh dương vàng trên cỏ kéo lê thê Lá đa rụng tơi bời quanh quán chợ. (Đoàn Văn Cừ toàn tập, NXB Hội nhà văn, 2013) a. Bức tranh thiên nhiên ở khổ thứ nhất được miêu tả có gì độc đáo? Nét độc đáo ấy thể hiện qua những từ ngữ, hình ảnh, biện pháp tu từ nào? Khổ Từ ngữ Hình ảnh Biện pháp tu từ 1       Nhận xét nét độc đáo: ……………………………………………………………………… ………………………………………………………….. ……………………………………………………………… ………………………………………………………………  b. Nhận xét nét độc đáo của từ ngữ, hình ảnh trong các câu thơ sau: Anh hàng tranh kĩu kịt quẩy đôi bồ Tìm đến chỗ đông người ngồi giở bán Một thầy khóa gò lưng trên cánh phản Tay mài nghiên hí hoáy viết thơ xuân Cụ đồ nho dừng lại vuốt râu cằm Miệng nhẩm đọc vài hàng câu đối đỏ Bà cụ lão bán hàng bên miếu cổ Nước thời gian gội tóc trắng phau phau c. Em nhận xét như thế nào về vần và nhịp của bài thơ? d. Cho biết chủ đề của bài thơ
Đọc văn bản sau và trả lời những câu hỏi bên dưới: Khát vọng Xuân Quỳnh Ngày còn bé ta mơ trăng tháng Tám Giữa đêm rằm bày cỗ, vui chơi Cùng bạn nhỏ rước đèn múa hát Trống ếch lùng tùng náo nức trăng vui   Khi lớn khôn ước mơ càng cháy bỏng Vai kề vai nghe rộn tiếng tim yêu Trải tâm tư dưới trời trăng sáng Cuộc đời ơi, đẹp biết bao nhiêu!   Chỉ thế thôi ư? Ta còn mơ ước Thành nhà thơ ca ngợi cuộc đời Những vần thơ cùng du hành vũ trụ Sưởi ấm vừng trăng lạnh niềm vui   Đâu chỉ lên trăng, thơ ta còn bay khắp Theo những con tàu cập bến các vì sao Như lòng ta chẳng bao giờ nguôi khát vọng Biết bai rồi, ta lại muốn bay cao. (In trong Tơ tằm – Chổi biếc, NXB Văn học, Hà Nội, 1963) a. Bài thơ thể hiện những mơ ước gì của nhân vật xưng “ta”? Hãy chỉ ra một số từ ngữ, hình ảnh thể hiện mơ ước ấy. b. Nhận xét nét độc đáo của các hình ảnh trong câu thơ.                      Đâu chỉ lên trăng, thơ ta còn bay khắp Theo những con tàu cập bến các vì sao c. Hãy chỉ ra biện pháp tu từ được sử dụng trong khổ thơ cuối. Theo em, việc sử dụng biện pháp tu từ ấy có tác dụng gì trong việc biểu lộ khát vọng của nhân vật xưng “ta”? d. tác giả đã bộc lộ những tình cảm, cảm xúc gì qua bài thơ? Em cảm nhận như thế nào về những tình cảm, cảm xúc ấy? đ. Ở ba khổ thơ đầu, tác giả sử dụng từ “mơ ước” hoặc “ước mơ”, nhưng ở khổ thơ cuối lại dùng từ “khát vọng”. Theo em, sự thay đổi này có dụng ý gì? e. Qua văn bản trên, tác giả muốn gửi đến chúng ta thông điệp gì? Thông điệp ấy có ý nghĩa như thế nào đối với em?
Đọc văn bản sau và trả lời các câu hỏi bên dưới: Phòng sô-cô-la (chocolate) ti vi           Gia đình Mai Ti-vì (Mike Teavee) cùng Sác-li (Charlie) và ông nội Châu (Joe) bước ra khỏi thang máy để vào một phòng sáng lóa đến nỗi họ phải nheo mắt lại vì chói và dừng bước. Ông Quơn-cơ (Wonka) đưa cho mỗi người một cặp kính đen và nói: - Đeo vào nhanh lên! Và khi nào còn ở trong này thì đừng bỏ ra, bất kể đang làm gì. Ánh sáng này có thể làm mù mắt đấy.           Vừa đeo kính đen vào là Sác-li lập tức có thể thoải mái nhìn quanh mình. Bé thấy một căn phòng dài, hẹp chiều ngang, sơn trắng toàn bộ. Ngay cả sàn cũng trắng, không một mảy bụi ở bất cứ chỗ nào. Những ngọn đèn lớn, từ trên trần rủ xuống, tỏa khắp phòng một ánh sáng trắng xanh rực rỡ. Phòng hoàn toàn trống không, trừ ở hai đầu.           Ở một đầu là một máy quay phim to tướng trên bánh xe với cả một đạo quân Umpơ-Lumpơ (Umpa-Lumpa) tíu tít xung quanh, nào tra dầu, nào chỉnh các nút, nào lau các ống kính. Tất cả mang trang phục rất dị thường. Họ mặc những bộ đồ du hành vũ trụ màu đỏ tươi, đủ cả mũ mão, kính bảo vệ - chí ít cũng giống như những bộ đồ du hành vũ trụ - và họ làm việc trong im lặng tuyệt đối. Nhìn họ, Sác-li thấy nao nao một cảm giác nguy hiểm kì lạ. Có một cái gì đó nguy hiểm ở toàn bộ công việc này và những người Umpơ-Lumpơ ý thức được điều đó. Tại đây, không hề thấy họ trò chuyện hay hát hò, trong bộ đồ du hành vũ trụ đỏ thắm, họ di chuyển chậm rãi và thận trọng quanh chiếc ca-mê-ra đen kếch xù.           Ở đầu phòng đằng kia, cách chiếc ca-mê-ra chừng năm mươi bước, một người Umpơ-Lumpơ duy nhất (cũng mặc đồ đu hành vũ trụ) đang ngồi ở một cái bàn đen đăm đăm nhìn vào màn hình một máy vô tuyến truyền hình cực lớn.   - Đây này – Ông Quơn-cơ nhảy tưng tưng phấn khích – Đây là Phòng Thử Nghiệm cho phát minh lớn nhất và mới nhất của ta – Sô-cô-la Ti vi.   - Nhưng mà sô-cô-la ti vi là cái gì? – Mai Ti-vì hỏi. - Trời đất, bé con, hãy thôi đừng có ngắt lời ta nữa! – Ông Quơn-cơ nói. Cái này vận hành bằng ti vi. Bản thân ta thì không thích ti vi. Ta cho rằng xem in ít thôi thì cũng được, nhưng trẻ con đường như không bao giờ chịu xài liều lượng nhỏ. Chúng muốn ngồi suốt ngày dõi mắt và dõi mắt vào màn ảnh … - Như cháu – Mai Ti-vì nói. - Im đi – Ông Ti-vì nạt. - Cảm ơn. – Ông Quơn-cơ nói. – Ta sẽ giải thích hoạt động của ti vi kì diệu này. Nhưng trước hết, các cháu có biết ti vi thông thường vận hành như thế nào không? Rất đơn giản. Ở một đầu, nơi thu hình, có một ca-mê-ra lớn và người ta bắt đầu quay một cái gì đó. Rồi những hình ảnh được phân ra hàng triệu mảnh nhỏ li ti không thể nhìn được và những mảnh nhỏ ấy bắn lên trời bằng điện năng. Trên bầu trời, chúng vi vu lượn vòng khắp vùng cho đến khi đột nhiên chúng bắt trúng cột ăng-ten trên mái một ngôi nhà nào đó. Thế là chúng ào xuống theo mọt sợi dây điện dẫn thẳng vào mặt sau của một chiếc ti vi và trong đó, chúng bị lắc đảo, lắc đảo cho đến khi tất cả hàng triệu mảnh nhỏ li ti ấy, từng mảnh một, trở về đúng chỗ, khớp vào nhau (như một trò chắp hình) và hấp. Tấm ảnh hiện ra trên màn hình. - Các hoạt động của nó không phải thế. – Mai Ti-vì nói. - Tôi bị điếc tai trái. – Ông Quơn-cơ nói. – Thứ lỗi cho tôi nếu không nghe được hết lời cháu nói. - Cháu nói cách hoạt động của nó không phải thế. – Mai Ti-vì hét to. - Cháu là một đứa trẻ dễ thương, - ông Quơn-cơ nói, - nhưng cháu nói quá nhiều. Này nhé, ngay lần đầu tiên thấy loại ti vi bình thường vận hành, tôi nảy ra một ý vĩ đại. Nghe đây, nếu người ta có thể phá vỡ vụn một tấm ảnh ra hàng triệu mảnh và phóng chúng bay vun vút qua không gian rồi lại chắp chúng ở lại đầu kia, thì tại sao tôi lại không thể làm thế với một thanh kẹo sô-cô-la? Tại sao tôi không thể phóng một thanh kẹo sô-cô-la thật thành những mảnh li ti bay vun vút qua không gian để rồi chắp trở lại với nhau nguyên vẹn ở đầu đằng kia, hoàn toàn có thể ăn được? - Không thể có chuyện ấy được! Mai Ti-vì nói. - Cháu nghĩ thế ư? – Ông Quơn-cơ cao giọng. – Được! Hãy xem đây! Giờ ta sẽ phóng một thanh sô-cô-la thuộc thuộc loại hảo hạng của ta từ đầu phòng này sang đầu kia – bằng ti vi. Này, chuẩn bị nhé! Mang sô-cô-la vào. Lập tức, sáu người Umpơ-Lumpơ khiêng một thanh sô-cô-la khổng lồ tiến tới. Đó là thanh sô-cô-la lớn nhất mà Sắc-li từng thấy. Nó bằng cả cái nệm mà cậu thường nằm ngủ ở nhà. - Nó phải to thế, - ông Quơn-cơ giải thích, - bởi vì khi phóng một vật gì bằng ti vi, thì ở đầu ra, nó sẽ bé hơn rất nhiều so với khi đưa vào máy. Ngay cả với ti vi bình thường, khi ta thu hình một người to lớn, thì ở đầu ra, trên màn hình, anh ta sẽ không lớn hơn cái bút chì, phải không nào? Nào, ta bắt đầu nhé! Chuẩn bị! Không! Không! Ngừng! Ngừng tất cả lại! Kìa, cháu! Mai Ti-vì! Lùi lại. Cháu đứng sát ca-mê-ra quá. Có những tia nguy hiểm phát ra từ đó. Chúng có thể phân cháu ra thành hàng triệu mảnh li ti trong một giây đấy. Chính vì thế mà những người Umpơ-Lumpơ phải mặc đồ du hành vũ trụ để bảo vệ mình. Được. Tốt hơn rồi đó. Nào! Bật máy. Một trong những người Umpơ-Lumpơ nắm cần máy, kéo xuống. Một ánh chớp lóe. - Thanh sô-cô-la biến mất rồi! – Ông nội Châu reo lên, vung cả hai cánh tay. Đúng thế. Thanh sô-cô-la khổng lồ đã biến mất tiêu. - Nó đang trên đường. – Ông Quơn-cơ nói lớn. – Giờ nó thành hàng triệu mảnh li ti đang vun vút xuyên qua không khí trên đầu chúng ta. Mau lên! Lại đây. – Ông lao tới đầu phòng đằng kia, nơi đặt chiếc ti vi lớn và mọi người chạy theo ông. – Theo dõi màn hình! – Ông kêu. – Nó tới đây này! Nhìn xem! Màn hình lập lòe và bật sáng. Rồi đột nhiên, một thanh sô-cô-la nhỏ hiện lên giữa màn hình. - lấy đi! – Ông Quơn-cơ hô to, mỗi lúc một thêm phấn khích. - Làm sao mà lấy được? – Mai Ti-vì bật cười. – Đó chỉ là một hình ảnh trên màn hình. - Sác-li Bắc-kịt! – Ông Quơn-cơ hô. – Cháu lấy đi! Với tay và nắm lấy nó. Sác-li đưa tay ra, sờ vào màn hình và đột nhiên, như bởi phép màu, thanh sô-cô-la nằm gọn trong những ngón tay của câu. Cậu ngạc nhiên đến nỗi suýt đánh rơi.   - Ăn đi! – Ông Quơn-cơ hét. – Tiếp tục, nào ăn đi. Vẫn ngon tuyệt đấy. Vẫn là thanh sô-cô-la ấy. Có điều nó đã nhỏ lại trong chuyến đi, thế thôi. - Thật là kì diệu hết chỗ nói! – Ông nội Châu há hốc miệng. – Thật là … thật là … thật là một phép thần thông. - Thử hình dung xem, - ông Quơn-cơ nói – khi tôi bắt đầu dùng phát minh này trên khắp cả nước, cụ ngồi nhà xem ti vi và bỗng nhiên một đoạn quảng cáo lóe lên trên màn hình và một giọng nói vang lên: HÃY ĂN SÔ-CÔ-LA CỦA QUƠN-CƠ! ĐÓ LÀ SÔ-CÔ-LA NGON NHẤT TRÊN THẾ GIỚI. KHÔNG TIN, HÃY THỬ LUÔN MỘT THANH – ĐÂY! Và cụ chỉ việc với tay ra lấy một cái. Cụ thấy thế nào? - Tuyệt vời! – Ông nội Châu reo lên. – Nó sẽ làm thay đổi cả thế giới.   (Trích Charlie và nhà máy sô-cô-la, Dương Tường dịch, Phan Thành Đạt minh họa, NXB Kim Đồng, Hà Nội, 2021) a. Văn bản viết về đề tài gì? b. Liệt kê những sự kiện chính xảy ra với chú bé Sác-li Bấc-kịt trong đoạn trích. c. Dựa vào bảng sau, em hãy nêu điểm giống và khác nhau giữa chiếc ti vi thông thường hiện nay và chiếc ti vi sô-cô-la của ông Quơn-cơ:   Ti vi thông thường Ti vi sô-cô-la Giống     Khác (mục đích chế tạo, cách thức sử dụng)      d. Từ các chi tiết trong văn bản, hãy cho biết nhân vật ông Quơn-cơ thể hiện những đặc điểm nào của nhân vật truyện khoa học viễn tưởng. đ. Văn bản trên thể hiện những đặc điểm nào của truyện khoa học viễn tưởng về đề tài, cốt truyện, tình huống, sự kiện? e. Từ câu chuyện về phòng sô-cô-ls ti vi của ông Quơn-cơ, em nghĩ gì về khả năng sáng tạo của con người?
Đọc văn bản sau và trả lời các câu hỏi bên dưới:           “Bài ca chim Ưng” là bài ca cổ mà ông lão Na-dưa Ra-him Ôg-lư (Nadir Ragim Ogly), kể cho nhân vật xưng “tôi” nghe. Câu chuyện xoay quanh hai nhân vật Rắn Nước và Chim Ưng. Rắn Nước chứng kiến Chim Ưng gặp nạn rơi xuống khe núi. Dù mình đầy vết thương, Chim Ưng vẫn khao khát bay lên baaif trời một lần nữa, nên theo lời gợi ý của Rắn Nước, nó lao đến miệng vực, đâm bổ xuống. Thấy vậy, Rắn nước, kẻ sinh ra chỉ bò chứ không thể bay cũng thử tung mình lên không, nhưng nó không chết, chỉ rơi xuống đống đá. Nó thấy loài chim thật buồn cười, thấy hãnh diện với bản thân vì biết bằng lòng với cuộc sống trên đất. Trong khi đó, sóng biển vẫn hát bài ca ca ngợi Chim Ưng dũng cảm. Đoạn trích dưới đây thuộc phần đầu và phần cuối câu chuyện. Bài ca chim ưng Mác-xim Go-rơ-ki (Macxim Gorki)           […] Biển tối sầm, cuồn cuộn những lớp sóng dũng mãnh, sáng dần lên, và rải rác trên mặt biển đây đó hiện lên những mảnh trăng vứt bừa bãi. Trăng đã ló lên từ phía sau những đỉnh núi xù xì, và giờ đây nó trầm ngâm rót ánh sáng xuống mặt biển đang thở dài dâng lên đón nó, xuống biển và xuống tảng đá cạnh chúng tôi. - Ra-him!... Cụ kể chuyện đi ! – Tôi yêu cầu ông già. - Để làm gì? – Ra-him hỏi, không ngoảnh về phía tôi. - Thế thôi! Tôi thích nghe chuyện cụ kể. - Tôi kể hết rồi … CHẳng còn biết chuyện gì nữa … Đó là ông lão muốn tôi năn nỉ thêm. Tôi bèn năn nỉ ông. - Tôi kể lại một bài ca nhé? – Ra-him thuận lòng. Tôi muốn nghe một bài ca cổ. Thế là bằng một giọng ngâm đều đều, cố giữ nguyên cái âm điệu đặc thù của bài hát, ông lão bắt đầu kể: “Rắn Nước bò lên cao, đi vào núi và nằm trong một khe núi ẩm ướt, mình khoanh tròn, mắt trông ra biển.           […] Bỗng trong khe núi, nơi Rắn Nước nằm khoanh, Chim Ưng từ trên trời rơi xuống, ngực dập nát, máu nhuốn khắp bộ lông.           Kêu lên một tiếng ngắn, Chim rơi xuống đất và tức giận vùng vẫy, ngực đập vào đá cứng.           […] Rắn bì lại gần Chim bị thương và phì phì phun thẳng vào mặt Chim: - Sao, mi sắp chết ư? - Phải, ta đang hấp hối! – Chim ưng đáp sau một tiếng thở dài. Ta sống thật huy hoàng! … Ta đã biết thế nào là hạnh phúc! … Ta đã chiến đấu dũng cảm! Ta đã trông thấy trời xanh … Không bao giờ mày được thấy trời gần như vậy! … Thật khổ thân mày. - Thì đã sao? Trời ư? Chỉ là một chỗ trống … Ta bò làm sao được? Ở đây ta sướng lắm, vừa ấm lại vừa ẩm ướt. Rắn đáp lời Chim tự do như vậy, trong bụng cười thầm Chim về những lời lẽ viển vông. Và Rắn nghĩ: “Dù bay hay bò thì rốt cục cũng thế thôi. Đều nằm trong lòng đất, đều trở thành tro bụi …” Nhưng Chim Ưng dũng mãnh bỗng vùng vẫy, nhỏm dậy một chút và đưa mắt nhìn dọc khe núi. Nước rỉ qua những khe đá xám xịt, trong cái vực tối tăm, không khí ngột ngạt và sặc mùi thiu rữa. Và thi hết tàn lực, Chim Ưng thét lên, tủi phiền và đau đớn: - Ôi, giá được bay vút lên trời một lần nữa! Bấy giờ ta sẽ áp chặt kẻ thù vào những vết thương trên ngực ta … Ôi, hạnh phúc của chiến đấu! … Rắn nghĩ: “Chắc trên trời sống thích thật, cho nên nó mới rên xiết như thế!” Và Rắn bàn với Chim trời tự do: - Thế thì mi hãy cố lần lên bờ vực rồi lao xuống. Có lẽ đôi cánh sẽ nâng mi, và mi sẽ sống thêm ít nữa trong môi trường quen thuộc của mi. Và Chim Ưng giật mình rồi cất lên tiếng rên kiêu hãnh, lần lên bờ vực, móng trượt trên mặt đá nhầy nhụa. Lên đến miệng vực, Chim dang cánh, hít một hơi dài cho đầy lồng ngực, mắt sáng quắc lên, rồi đâm bổ xuống. Nhưng rồi như một hòn sỏi, nó lăn trên vách đá rơi xuống rất nhanh, cánh gãy, lông rụng tả tơi. Dòng thác đón lấy Chim, cuốn sạch máu nó, phủ bọt lên thân nó và vùn vụt đưa nó ra biển. Và sóng biển vẫn xô vào đá với tiếng gầm buồn rười rượi … Và xác Chim không còn tăm tích trên mặt biển mênh mông”.           […] Phía xa màu nguyệt bạch của biển cả lặng thinh, trên bờ sóng vỗ nhịp nhàng, và tôi lặng thinh nhìn ra khơi. Trên mặt nước, những đốm bạc từ trăng chiếu xuống mỗi lúc một dày… Nồi canh của chúng tôi sôi khe khẽ. Mọi vật đều mơ màng trong giấc ngủ, nhưng là một giaacs ngủ hết sức mong mang, và người ta có cảm giác như chỉ một giây sau mọi vật đều sẽ giật mình tỉnh dậy và sẽ vang lên trong một bản hòa tấu hoàn mĩ của những âm thanh êm ái vô cùng. (Trích Tuyển tập truyện ngắn Macxim Gorki, Cao Xuân Hạo, Phạm Mạnh Hùng dịch, NXB Văn học, Hà Nội, 2012) a. Tóm tắt các sự kiện chính được kể trong đoạn trích. b. Chim Ưng và Rắn Nước đã trò chuyện về vấn đề gì? Em có đồng ý với cách tác giả giải quyết vấn đề của Chim Ưng không? Vì sao? c. Cách dùng dáu ngoặc kép trong văn bản trên cho thấy có sự kết hợp lời kể khác nhau của hai người kể chuyện. Hãy xác định lời của mỗi người kể chuyện bằng cách hoàn thành bảng sau (làm vào vở): TT Từ câu … đến câu … Là lời kể của … Ngôi kể thứ 1 Từ “Biển tối sầm, cuồn cuộn những lớp sóng dũng mãnh…” đến “… ông lão bắt đầu kể.”     3 Từ “Rắn Nước bò lên cao, đi vào núi …” đến “Và xác Chim không còn tăm tích trên mặt biển mênh mông.”     3 Từ “Phía xa màu nguyệt bạch của biển cả lặng thinh …” đến “… một bản hòa tấu hoàn mĩ của những âm thanh êm ái vô cùng.”      Sự thay đổi trong cách kể chuyện như có tác dụng gì trong việc thể hiện nội dung câu chuyện?
Đọc văn bản sau và trả lời các câu hỏi: Cách làm lồng đèn tròn bằng giấy cho đêm trung thu Thành luân tổng hợp           Trung thu đang đến gần, hãy bắt tay vào làm ngay những chiếc lồng đèn xinh xắn từ giấy bìa với nhiều màu sắc rực rỡ, bắt mắt. Bên cạnh những mẫu lồng đèn ngôi sao, lòng đèn bươm bướm truyền thống bằng tre nứa hay lồng đèn bằng lon sữa bò, … thì cách làm lồng đèn giấy cũng được nhiều người ưa chuộn và thực hiện.           Vật liệu dễ kiếm, cách làm đơn giản, sản phẩm cũng vô cùng đẹp mắt. Hơn nữa, với những chiếc lồng đèn bằng giaays này, bạn còn có thể dùng để trang trí phòng sao cho thật nổi bật và cá tính, hoặc có thể gấp gọn để dùng cho những mùa tết Trung thu năm sau. Đó đều là những ý tưởng tuyệt vời về cách dùng lồng đèn tròn giấy. Vật liệu cần chuẩn bị - Giấy màu loại mỏng - 1 tờ giấy bìa cứng - 2 cây bút màu - Kim, chỉ, kéo, keo dán. Cách làm lồng đèn giấy nhiều màu Bước thứ nhất: Dùng bìa cứng cắt hình tròn có kích cỡ ứng với chiếc lồng đèn bạn mong muốn, cắt thành hai nửa bằng nhau. Sau đó, bạn cắt thêm 40 đến 50 lớp giaays ăn hình chữ nhật có kích cỡ lớn hơn một chút so với nửa miếng bìa tròn Bước thứ hai: Dùng miếng giấy màu hình chữ nhật đặt lên tờ giấy trắng, rồi đánh dấu lên tờ giấy trắng năm đường thẳng xen kẽ bởi hai loại bút khác màu. Sau đó, bạn sử dụng keo dán phết dọc theo đường màu hồng (được đánh số 2) với lớp giấy ăn đầu tiên. Đặt lớp giấy ăn thứ hai lên trên và phết keo theo đường màu xanh (được đánh số 1) Lặp lại bước trên với các lớp giấy chồng lên nhau. Đặc biệt, để lồng đèn có màu sắc sặc sỡ, bắt mắt hơn, với khoảng năm miếng giấy thì bạn thay đổi xen lẽ lớp giấy màu khác. Bước thứ ba: Sau khi đã hoàn thành thao tác dán các lớp giấy chồng lên nhau, bạn đặt nửa miếng bìa tròn lên rồi dùng bút màu đánh dấu xung quanh miếng bìa. Sau đó cắt miếng giấy thành hình bán nguyệt theo đường đã vẽ. Tiếp tục dán miếng bìa vào một mặt của miếng giấy màu. Ở miếng bìa còn lại, khoét một phần ở giữa rồi dán vào mặt còn lại của miếng giấy màu. Bạn sử dụng chỉ khâu hai đầu miếng giấy, buộc hơi lỏng và chừa một đoạn chỉ để treo đèn lồng. Cuối cùng, bạn chỉ cần mở miếng giấy ra và nhận thành quả bất ngờ. Với cách làm trên, bạn có thể khéo léo phối hợp nhiều màu sắc khác nhau để tạo ra những chiếc đèn lồng rực rỡ, mang cá tính riêng của mình. (Theo vietnamnet.vn, truy cập ngày 29/12/2021) a. Văn bản trên có phải là văn bản thông tin giới thiệu một quy tắc hoặc luật lệ trong trò chơi hay hoạt động không? Vì sao em có thể xác định được như vậy? b. Những đề mục như “Bước 1, Bước 2, Bước 3” cung cấp thông tin gì cho người đọc? c. Có thể bỏ những hình ảnh có trong văn bản này không? Vì sao? d. Hãy tự làm một chiếc lồng đèn tròn bằng giấy theo hướng dẫn của văn bản và mang đến lớp để trưng bày cùng với sản phẩm của các bạn khác.
Đọc văn bản sau và trả lời các câu hỏi Cách làm gỏi cuốn tô thịt           Gỏi cuốn là món ăn được nhiều người ưa thích. Một miếng gỏi cuốn hòa phối trong nó vị dai của bánh tráng, vị béo của thịt lẫn với vị ngọt của tôm, thêm một chút mặn mà của nước chấm, cải mát lạnh, thơm thơm của rau sống; tất cả làm dậy lên các cung bậc vị giác. Chẳng cần nhiều thời gian để thực hiện, nơi sang trọng để ăn hay đắn đo về giá cả, ai cũng có thể thưởng thức món ăn ngon, bổ, rẻ và hấp dẫn này.           Gỏi cuốn thường là món khai vị, món ăn chơi. Một trong những lí do khiến gỏi cuốn hấp dẫn thực khách chính là ở sự tươi ngon của món ăn. Bánh tráng, cái bao ngoài để gói các nguyên liệu, là thứ không thể thiếu của món ăn này. Nhân của cuốn có thể là cá, thịt, rau nhưng phổ biến hơn cả là thịt heo luộc, tôm luộc, bún tươi, miếng dưa leo thái mỏng, cọng hẹ, cà rốt ngâm giấm hoặc xoài xanh cắt sợi, rau thơm, xà lách, … Tất cả những thứ ấy được cuộn vào nhau, tạo nên những sắc màu đa dạng, hấp dẫn: màu trắng của tấm áo bánh tráng mỏng; màu xanh của lá hệ, dưa leo, rau sống; màu đỏ gạch của tôm, … Điểm đặc biệt của gỏi cuốn là các nguyên liệu đều không qua xử lí dầu mỡ và sử dụng rất nhiều rau xanh. Do đó, gỏi cuốn thật sự là một món ăn ngon, lành và tốt cho sức khỏe.           Sự thú vị của gỏi cuốn còn ở cách ăn. Người ăn có thể vừa cuốn vừa ăn, nhờ đó họ được tùy ý chọn loại nhân mình thích và gia giảm cho vừa với nhu cầu, khẩu vị riêng.           Vì thế đây là món ăn rất đáng trải nghiệm! Cách thực hiện cũng hết sức đơn giản. Nguyên liệu cần chuẩn bị - 500g tôm (chọn tôm tươi ngon) - 700g thịt ba chỉ hoặc thịt đùi (chọn miếng thịt đỏ tươi, ít mỡ) - 1 xấp bánh tráng - 500g bún tươi - Xà lách, rau sống, rau thơm, hẹ. - 100g tương hột xay - Đồ chua, lạc rang giã nhuyễn - Đường cát trắng, giấm, tỏi băm, củ hành khô, dầu ăn. Cách làm món gỏi cuốn tôm thịt Bước thứ nhất: Sơ chế rau Rửa sạch rau sống, rau thơm, hẹ, … ngâm qua với nước muối pha loãng và sau đó vớt lên để ráo nước. Bước thứ hai: Chuẩn bị tôm Tôm rửa sạch, ướp với nửa muỗng cà phê muối, nửa muỗng canh rượu, một muỗng cà phê đường để tôm đậm đà hơn và không bị hôi, tanh. Bắc nồi lên bếp, sau đó đậy nắp, luộc cho tôm chuyển sang màu đỏ và đừng quên đảo đều. Tiếp theo, vớt tôm ra rổ để ráo rồi lột vỏ, xẻ đôi tôm và bỏ chỉ lưng của tôm, xếp vào dĩa. Bước thứ ba: Chuẩn bị thịt           Rửa sạch thịt, sau đó đun sôi nồi nước, thả vào nồi một củ hành đập dập và cho thịt vào luộc khoảng hai mươi phút. Khi thịt chín, vớt ra để vào một bát nước có vài viên đá lạnh để thịt trắng và giòn, ngon. Sau đó thái thịt thành lát mỏng cho vào đĩa. Bước thứ tư: Chuẩn bị cuốn           Bày bánh tráng và các nguyên liệu ra bàn để chuẩn bị cuốn. Trước khi cuốn, cần làm ướt bánh tráng. Tiếp theo, lần lượt xếp xà lách, bún, thịt, tôm, cùng với cọng hẹ, rau thơn rồi cuộn cho chắc tay. Gỏi cuốn đẹp và ngon là miếng gỏi tròn, đều, rau, bún, tôm, thịt được cuộn chặt bên trong và nổi rõ qua lớp bánh tráng mỏng. Bước thứ năm: làm nước chấm           Cái ngon của gỏi cuốn phụ thuộc nhiều vào nước chấm. Có nhiều loại nước chấm: nước tương đen, mắm nêm pha tỏi ớt, … Tuy nhiên nước chấm gỏi cuốn phổ biến nhất vẫn là tương hột xay nhuyễn pha tỏi, ớt, chút đường, muối, bột ngọt cho vừa ăn, thêm đậu phộng rang giã dập cho giòn, cho béo. Để làm loại nước chấm này, trước tiên, cần phi thơm mọt ít tỏi bằng dầu ăn, sau đó cho tương hột xay vào xào, cho đậu phộng rang nhuyễn, nêm một chút đường cho bớt mặn và vừa ăn. Đun hỗn hợp đến khi sánh lại thì cho một ít giấm (khoảng một đến nửa muỗng cà phê) vào đảo đều và tắt bếp.           Gỏi cuốn tôm thịt là món ngon có đầu đủ chất dinh dưỡng lại rất dễ ăn nên thích hợp với mọi lứa tuổi. Bạn hãy thử trải nghiệm một lần làm món gỏi cuốn tôm thịt cùng gia đình. Chậm rãi cuốn từng cái một, thể hiện sự khéo léo của đôi tay, khả năng thẩm mĩ để tạo ra những cái cuốn vừa ngon, vừa đẹp cùng những câu chuyện rôm rả bên bàn ăn, cảm nhận niềm hạnh phúc giản dị của cuộc sống. Chúc bạn thành công! (Tổng hợp từ các trang: vietnamnet.vn, dantri.vn, vtr.org.vn) a. Những dấu hiệu nào giúp e nhận biết văn bản trên là văn bản thông tin mô tả quy trình? b. Xác định thông tin cơ bản và cách triển khai thông tin của đoạn văn “Gỏi cuốn thường là món khai vị, món ăn chơi, … Do đó, gỏi cuốn thật sự là một món ăn ngon, lành và tốt cho sức khỏe.”. Cách triển khai thông tin trong đoạn văn này có tác dụng như thế nào với mục đích của văn bản? c. Mục đích của văn bản này là gì? Cách triển khai thông tin chính của văn bản có quan hệ như thế nào với mục đích của văn bản? Dựa vào đâu mà em xác định được như vậy? d. Loại phương tiện phi ngôn ngữ được sử dụng trong văn bản này là gì? Chỉ ra tác dụng của chúng đối với việc thể hiện nội dung văn bản. đ. Vẽ sơ đồ tóm tắt các bước làm món gỏi cuốn tôm thịt. e. Qua việc đọc văn bản, đặc biệt là đoạn cuối, em hiểu thế nào là một món ăn ngon?
Đọc lại văn bản Cách gọt của hoa thủy tiên trong SGK Ngữ văn 7, tập hai (tr. 47 – 51) và trả lời các câu hỏi sau: a. Vì sao người chơi thủy tiên nên gọt tỉa củ hoa? b. Em hiểu như thế nào về câu nói của nghệ nhân Nguyễn Phú Cường ở cuối văn bản: “cái đẹp nhất của thủy tiên, chính là cái đẹp khi người ta chăm hoa, để rồi rèn tâm tính của chính mình”? c. Xác định tác dụng của (các) biện pháp tu từ được sử dụng trong đoạn văn sau: Tầm dáng hoa cao hay thấp, phải tạo nên một bố cục tổng thể hài hòa mới đẹp. Và yêu cầu quan trọng là bông hoa không được ngửa lên. Giò hoa vươn lên, nhưng bông hoa phải hơi cúi xuống, như thiếu nữ dẫu đẹp kiêu sa, vẫn phải có nét e lệ. Đấy mới là cái đẹp Á Đông. Nếu bông hoa nghểnh mặt lên thì lại hóa ra kênh kiệu. Cái lí của người chơi hoa thủy tiên là thế. d. Xác định các phép liên kết được sử dụng trong đoạn văn sau:           (1) Bát thủy tiên được coi là đẹp, nếu đạt được “ngũ phẩm”: đẹp hoa, đẹp lá, đẹp rễ, đẹp thân và tổng thể dáng thế hài hòa. (2) Vì vậy, gọt xong rồi, hằng ngày phải chỉnh lá, chỉnh hoa sao cho tạo nên bố cục đẹp. (3) Nếu muốn chỉnh lá, phải đợi thời điểm dễ “nắn” nhất là khoảng bảy, tám ngày sau khi gọt. (4) Theo nghệ nhân Nguyễn Phú Cường, đấy là lúc chiếc lá “ngoan” nhất. Khi ấy lá đã xanh tốt, khỏe, dùng tay uốn thử thấy mềm mại, không giòn thì có thể tạo dáng lá uốn lượn theo ý đồ người chơi. Bộ rễ của bát thủy tiên phải trắng ngần. Dù bố cục thế nào, thì bộ rễ vẫn phải được phô ra vẻ đẹp.