Viết bài văn nghị luận phân tích, đánh giá chủ đề và những nét đặc sắc về hình thức nghệ thuật của màn kịch Xã trưởng – Mẹ Đốp (trích Quan Âm Thị Kính).
Quảng cáo
Trả lời:
Mẫu 1
Nghệ thuật khi sinh ra đã hình thành mối quan hệ mật thiết với đời sống, nó luôn vận động và phát triển trong sự ràng buộc tự nhiên với hiện thực. Nhờ phản ánh trung thành hiện thực ấy mà nghệ thuật thực sự tham dự vào sự phát triển của tiến trình lịch sự như một thứ vũ khí sáng tạo và khám phá mảnh đất hiện thực của thời đại mình. Dám chĩa thẳng vào hiện thực, đoạn trích “Xã Trưởng-Mẹ Đốp” trong tác phẩm chèo “Quan Âm Thị Kính” đã nói lên sự thật bất công trong xã hội phong kiến giữa giai cấp thống trị và giai cấp bị trị.
Là một loại hình nghệ thuật tổng hợp, kết hợp hài hoà nhiều chất liệu: dân ca, múa dân gian và các loại hình nghệ thuật dân gian khác ở vùng Đông bằng Bắc Bộ. Chèo được xem là một hình thức kể chuyện bằng sân khấu, lấy sân khấu và diễn viên làm phương tiện giao lưu với công chúng (không có người kể chuyện như trong truyện). Cũng như kịch nói chung, kịch bản chèo tập trung thể hiện hành động, dẫn đắt xung đột qua ngôn ngữ của nhân vật. Tích truyện là chất liệu xây dựng nên cốt truyện của chèo. Thường là các nhân vật, hành động, sự việc có sẵn trong kho tàng truyện cổ dân gian hoặc trong dã sử được khai thác và tổ chức lại theo nguyên tắc kịch hay xung đột. Từ các tích truyện này, các tác giả kịch bản – thường là giới nho sĩ – viết thành kịch bản chèo để truyền bá những tín điều của tư tưởng Nho giáo. Tuy nhiên, qua quá trình ứng tác, biểu diễn, nhiều chủ đề truyền thống bị làm mờ đi, nhường chỗ cho những khát vọng nhân bản hơn, vượt ra ngoài giáo lí Nho học truyền thống.
Được trích từ vở chèo: “Quan âm Thị Kính”. “Xã Trưởng-Mẹ Đốp” là một vở chèo cổ mẫu mực nhất của nền nghệ thuật sân khấu chèo Việt Nam. Trong trích đoạn biểu hiện rõ hai giai cấp: giai cấp thống trị là Xã Trường, đại diện cho chính quyền làng xã thời kỳ phong kiến, tộc quyền Việt Nam và Mẹ Đốp chuyên đi đánh mõ và báo cáo các việc cho dân làng, đại diện cho tầng lớp nhân dân thời kỳ bấy giờ, được xem là tầng lớp hạ lưu của xã hội.
“Xã Trưởng-Mẹ Đốp”là trích đoạn hài đặc trưng của sân khấu chèo về hề áo ngắn và hề áo dài. Các loại hình nhân vật phổ biến của chèo bao gồm kép, đào, hề, mụ, lão. Kép thường là các sĩ tử chân chính, hiếu học; đào (nữ chính) bao gồm đào thương, đào lệch hay còn gọi là đào lẳng, đào pha; hề; mụ lão. Nhân vật trong chèo thường mang tính ước lệ với tính cách không thay đổi. Trong đó nhân vật hề là khá phổ biến. Trong “Xã Trưởng-Mẹ Đốp” Hề áo ngắn là Mẹ Đốp, đại diện cho tầng lớp nhân dân bị trị luôn luôn tìm cách đả kích, châm chọc, chửi khéo giai cấp thống trị là Xã Trưởng, gây tiếng cười hóm hỉnh, sâu cay, chua chát, sảng khoái , hể hả qua những việc làm ngu dốt, vô nhân đạo của chúng diễn ra hàng ngày. Nhân vật thứ hai là hề áo dài, cụ thể là Xã Trưởng, một chức quan mua tại hương thôn, ngu dốt nhưng lại háo sắc, tham lam, dối trên gạt dưới, hà hiếp dân lành, thường bị người nông dân chơi sỏ. Nhân vật hề áo dài trên sân khấu chèo truyền thống, bản thân nhân vật không làm hài nhưng qua phong cách biểu diễn thể hiện, nhân vật tự bộc lộ cái hai rất thâm thúy, gây tiếng cười chua chát, cười ra nước mắt.
Vốn là đại diện cho giai cấp thống trị, Xã Trưởng không dứt khỏi cái bản chất thối nát của xã hội phong kiến bấy giờ. Một tên quan lại mang trong mình hết thảy những đặc điểm xấu xa của phần “con” trong con người. Chẳng há mà hắn có thể thốt lên ngay những câu đầu tiên:
“Xã Trưởng:
Tại dân vi tổng lí Quốc pháp hữu công hầu
Ơn dân xã thuận bầu Tôi đứng đầu hàng xã
Nay cơ chừng động mả Thị Mầu đã hoang thai
Chiểu lệ làng ngả vạ không sai
Bắt khoán cứ một trăm quan quý”
Cái giọng điệu gắt gỏng, bố đời, doạ nạt được thét ra. Chẳng mấy làm lạ khi hắn vốn là quan mua, tự mãn khi mình được chọn làm lí trưởng, cho mình đứng trên tất cả mọi người. Hắn tự cho mình cái quyền chà đạp người dân chân chất, thật thà và cái quyền khinh bỉ thân phận của người khác. Hắn lên giọng:
Một giọng đáp phụ nữ cất lên sao mà đanh mà sắc thế. Ra là Mẹ Đốp khi chồng vắng nhà:
“Mẹ Đốp:
Đứa nào Đốp chát gì ngoài ấy?
Xã Trưởng:
Tao đây! Thầy xã đây! Ra ngay có việc cần nhá!”
Người chồng Mẹ Đốp là mõ làng, song do đau yếu nên Mẹ Đốp thông minh hóm hỉnh lại hay chữ lắm tài, nhưng dù thế nào đi nữa Mẹ Đốp phải thay chồng đi lo việc làng nước:
“Thương chồng nên phải lầm than Phép đâu có bắt việc quan đàn bà.”
Tác giả vở chèo đã tạo ra cho chúng ta một nhân vật Mẹ Đốp vẫn bị bọn lí dịch địa phương coi là đứa hèn hạ nhất làng. Công việc của Mẹ Đốp đúng như nhân vật tự khẳng định là ra cắt đặt công việc cho làng, nếu Mẹ Đốp chưa ra thì việc làng chắc sẽ không thành. Ý tưởng này đã được nói rõ hơn trong bài thơ Thằng mõ tương truyền là của vua Lê Thánh Tông:
“Mõ này cả tiếng lại dài hơi Làng nước ưng bầu chẳng phải chơi.
Mộc đạc vang lừng trong bốn cõi, Kim thanh uyển chuyển khắp đòi nơi. Trẻ già chốn chốn đều nghe hiệu Làng nước đâu đâu cũng cứ lời. Trên dưới quyền hành tay cắt đặt, Một mình một cỗ thảnh thơi ngồi”
Vốn thông minh, tháo vát nên Mẹ Đốp đã có màn đả kích và chọc tức Xã Trưởng:
“Mẹ Đốp:
Ô rằng vậy:
Chẳng giấu gì mẹ đình đám là tôi
Nghề ăn nói tôi vào trang đúng mực Bất phận danh nhi tài túc
Vô chế lệnh nhi dân tòng Một mình tôi cả xã ngóng trông
Điều phải trái tôi nay trước báo!
Xã Trưởng:
Con này láo! Mày vất tao đi mà trước bảo dân tao à?
Mẹ Đốp:
Nó là thế này:
Làng có việc gì, thầy sai còn đi rao mõ, thời chẳng phải là lên trước bảo là gì?
Từ việc hỉ cho chí việc hảo!
Giấy quan về là phải báo với tôi
Tôi chưa ra là làng chửa được ngồi
Xã Trưởng:
Cái con mẹ Đốp này! Nhật nhật đa hĩ, lộng giả thành chân. Mày chưa ra thì làng chưa được ngồi thời mày là bà tiên chi làng này à?
Mẹ Đốp:
Dạ, nó là thế này : con chưa ra trải chiếu thì làng ngồi xuống đất hay sao?
Xã Trưởng:
Ờ con mẹ Đốp nó nói thế mà có lí”
Là đại diện cho giai cấp bị trị, bị chà đạp, vùi dập Mẹ Đốp đã khéo léo làm bẽ mặt, hạ nhục kẻ tham quan háo sắc khi nhắm thẳng vào cái ngu dốt của Xã Trưởng. Trong xã hội nhan nhản những điều dơ bẩn, quan lại ức hiếp, nhũng loạn, bóc lột người dân thấp cổ bé họng thì sự căm ghét của nhân dân đối với vua quan lại càng thêm sâu sắc, xung đột giữa hai giai cấp bị trị và thống trị lại càng trở nên căng thẳng hơn bao giờ hết. Vì thế chẳng có lí do gì mà có dịp người dân lại không châm biếm quan lại. Xã Trưởng hẳn là người kém chữ, lại chẳng viết văn thơ khi mà mẹ đốp nói câu nào cũng chẳng hiểu, ấy thế mà vẫn diễu võ dương oai ta đây là nhất: “Con này mày láo”
Suốt cả cuộc thoại Mẹ Đốp như nắm dây cương xoay cho Xã Trưởng điên đảo đến ngớ người. Hết cái này chẳng hiểu lại đến cái kia chẳng hiểu. Đường đường là xã trưởng nhưng đầu óc hạn hẹp, ngu dốt nên bị Mẹ Đốp-người dân nhưng hiểu biết hơn nữa lại được sự tín nhiệm của nhân dân châm chọc cho một vố lại chẳng hấn gì? Há chẳng phải hắn chẳng hiểu gì mà tin theo lời Mẹ Đốp hay sao.
Nếu nói ngu dốt là một trong những bản chất thối nát của tham quan thì hống hách, kiêu căng khinh bỉ người dân là cái tánh nổi bật:
“Mẹ Đốp:
Có thơ rằng:
Mõ tôi cả tiếng lại dài hơi
Một xã cứ bầu chẳng phải chơi
Mộc đạc vang lừng hoà cả xã
Kim thanh dòng dả khắp đòi nơi
Gần xa chốn chốn đều nghe hiệu
Làng nước ai ai cũng quý nhời
Muôn việc sửa sang quyền cắt đặt Một mình một chiếu thảnh thơi ngồi
Xã Trưởng:
Thơ hay đấy nhỉ.
Mẹ Đốp :
Thầy có mang giấy bút đi không?
Xã Trưởng:
Giấy bút để làm gì?
Mẹ Đốp:
Thầy hay thơ hay thì chép lấy đem về nhà mà treo!
Xã Trưởng:
Hay là hay với cánh mõ nhà mày, chứ xã trưởng lại treo thơ mõ à?”
Vốn chẳng biết gì được dịp Mẹ Đốp cho mở mang thơ chữ lại tỏ vẻ khinh thường, miệt thị ngành nghề và thân phận của người thấp bé hơn. Mẹ Đốp cũng chẳng vừa khi nói móc Xã Trưởng đem thơ mõ về treo. Như một lời đã kích mạnh mẽ khiến khán giả thoả mãn, hả dạ. Khi nói bóng nói gió chức quan của hắn là bù nhìn rỗng tuếch.
Trong mình mang cái bản chất ô uế của xã hội phong kiến thối nát, mang danh quan lại nên cái tính háo sắc, thiếu đứng đắn của hắn cũng không lặn mất:
“Mẹ Đốp:
Sao thầy lại cứ nhìn tôi thế vậy?
Xã Trưởng:
Nhà Đốp lớp này xem ra bảnh gái dễ coi lắm nhỉ?
Bụng mày độ này coi to đấy. Mày đã mấy con rồi?
Mẹ Đốp:
Thưa thầy, con còn hiền lắm ạ! Mới được có mười cháu thôi ạ,
Xã Trưởng:
Tốt nái gớm nhỉ! Này, nhà Đốp! Hôm nào mát giời, tao sang gửi mày một đứa nhá!
Mẹ Đốp:
Thầy chớ nói vậy! Bố cháu đứng ngoài kia no nghe thấy rồi nó lại ghen!
Xã Trưởng:
Ghen cái gì? Thấy mày mát tay nên tao định đưa sang gửi mày nuôi hộ vài đứa chứ tao lại thèm… thèm… ấy à? Dở hồn! Sao cũng có ngày đấy!”
Cái ánh mắt láo liêng, chớp nháy cùng cái vẻ cười gian tà hiện lên qua những câu thoại cũng đã đủ để ta hình dung ra một kẻ tham quan, háo sắc. Đứng trước sự sàm sỡ của Xã Trưởng, Mẹ Đốp đủ tỉnh táo, mạnh mẽ cũng như khéo léo mà kêu mà nói khiến hắn chột dạ thấy sợ mà đánh trống lảng.
Sau một hồi bộc lộ đủ mọi tính xấu thì Xã Trưởng cũng phải đành mà kêu Mẹ Đốp đi rao mõ: “Thôi đi rao mõ đi!
“Mẹ Đốp:
Thầy bảo rao thế nào ạ?
Xã Trưởng:
Nghe đây này Trịnh làng trình chan
Thương hạ tây đông
Con gái phú ông
Tên là Mẫu Thị
Tư tình ngoại ý
Mãn nguyện có thai
Mời già trẻ gái trai
Ra đình mà ăn khoán.
Còn ông Đồ Điếc không nghe thấy thì phải vào tận nhà nghe chưa?”
Chẳng mấy khi được chơi hùa với quan dởm, Mẹ Đốp chưa ngừng lại việc đem lại tiếng cười sảng khoái cho khán giả khi cố ý chơi xỏ Xã Trưởng:
“Mẹ Đốp:
Thầy nói một mạch thế thì con nhớ làm sao được. Hay là thế này vậy: Nhà cháu đi trước đánh mõ, thầy đi sau rao hộ nhà cháu.
Xã Trưởng:
Thế ra tao làm đầy tớ mõ à?
Láo nào!
Mẹ Đốp:
Vậy thầy thủng thẳng nói lại để nhà cháu nhập tâm vậy! (Bốc miệng xã trưởng bỏ vào dải yến)
Xã Trưởng:
Kìa sao mày lại bốc mồm tao bỏ vào đấy, hả?
Mẹ Đốp:
Không bỏ vào đây thì nhà cháu không nhớ được ạ!
Xã Trưởng:
Kìa, có nhấc cao cái dải yến lên không, uế tạp hết mồm tao còn gì?
Mẹ Đốp:
Cao lắm rồi! Ừ, ừ. Giẫy này, đi này!
Thế là xong tất, xong hết!
Xã Trưởng:
Sao không rao lên, kìa?
Mẹ Đốp:
Xong tất cả rồi đấy ạ!
Xã Trưởng:
Tao bảo mày đi rao cơ mà.
Mẹ Đốp:
Dạ, người ta bảo “Gửi lời thì nói, gửi gói thì mở”. Nhà cháu mở tung cả ra đấy thôi. “
Hành động bốc mồm Xã Trưởng chính là chi tiết châm biếm đả kích mạnh mẽ. Trong xã hội xưa người ta thường quan niệm phụ nữa là thấp hèn cho nên dải yếm thả trước của phụ nữ cũng được gán cho cái sự dơ bẩn. Khi Mẹ Đốp bốc mồm cũng là lúc mỉa mai những lời thốt ra từ miệng hắn vốn cũng chẳng tốt đẹp gì.
Khi nhận ra mình bị mụ đàn bà chơi cho vố đau thì Xã Trưởng cậy đà bắt nạt, hoạnh hoẹ. Đây cũng chính là cái đặc trưng cho giai cấp thống trị lúc bấy giờ. Thế nhưng, trong xã hội không phải ai cũng vậy, có nhan nhản nhưng không phải toàn bộ. Cũng là kẻ dối trên lừa dưới, ngu ngục, bù nhìn thì hắn cũng biết sợ mang thêm tiếng “xấu” cho bản thân vốn đã chẳng đẹp đẽ gì:
Mẹ Đốp:
Ối bố Đốp ơi là bố Đốp ơi! Đi đâu để thầy Xã thầy ấy ăn hiếp tôi đây này.
Xã Trưởng:
Thôi, thôi! Lọt tai làng sang tai họ bây giờ! Nín đi! Thôi tao xin mày! Rồi tao đến cho thúng thóc! Đi rao đi! Nhớ vào mời bằng được cụ Đồ Điếc, nhớ đấy nghe không?”
Thông qua tình huống này ta thấy “đồng tiền” là thước đo đong đếm mọi giá trị vật chất lẫn cả tinh thần mà như Balzac từng nói: “đồng tiền lăn tròn trên đáy mọi lương tâm. Xã Trưởng thì dùng của cải vật chất để bịt miệng bất công, bịt miệng sự thật. Người dân lành cũng vì vật chất mà từ bỏ đấu tranh.
Là vở chèo tiêu biểu biểu cho thái độ châm biếm của nhân dân với giai cấp thống trị đồng thời mang lại tiếng cười sảng khoái cho khán giả. Cùng với những câu thoại biểu cảm, giọng điệu uyển chuyển phù hợp với tính cách nhân vật giúp lột tả hết được hình ảnh mang tính đại diên như Xã Trưởng và Mẹ Đốp. Hơn hết vở chèo vẫn hết sức giản đơn, gần gũi với người dân Việt Nam. Vốn là Chèo cổ cho nên chèo thường xoay quanh vấn đề giáo dục cách sống, cách ứng xử giữa người với người theo quan điểm đạo lí dân gian hoặc theo tư tưởng Nho giáo. Và ở “Xã Trưởng-Mẹ Đốp” luôn toát lên những tinh thần ấy.
Nghệ thuật nào cũng vậy, cũng mang theo những giá trị nhân văn, tốt đẹp đến cho đời sống con người. Nghệ thuật dạy ta biết yêu, biết ghét, biết trân trọng cái đẹp, biết bài trừ cái ác, biết nuôi dưỡng điều thiện, biết tránh xa điều xấu. Là một tác phẩm nghệ thuật như thế “Xã Trưởng-Mẹ Đốp” xứng đáng là tác phẩm nghệ thuật chân chính sống mãi trong lòng của chúng ta.
Mẫu 2
Khi nhắc đến chèo, ta không thể không nhắc tới vở chèo kinh điển "Quan m Thị Kính".
Trong đó, "Xã trưởng - Mẹ Đốp" là trích đoạn đặc sắc, mang đến cho người đọc những tiếng cười trào phúng, sâu cay. Thông qua nhân vật mẹ Đốp, tác giả dân gian đã khéo léo bày tỏ tình cảm, suy nghĩ của mình về giai cấp thống trị trong xã hội phong kiến xưa.
Nếu như xã trưởng đại diện cho tầng lớp cai trị thì mẹ Đốp lại biểu trưng cho tầng lớp nhân dân. Mẹ Đốp là vợ của người gõ mõ làng. Chính vì vậy, mẹ Đốp có xuất thân thấp hèn, có thể xếp vào loại cùng đinh, thấp kém trong con mắt của bọn lí dịch, cường hào. Mặc dù không được mọi người coi trọng nhưng mẹ Đốp vẫn luôn tự hào về công việc của chồng và bản thân qua lời tự giới thiệu:
"Chẳng giấu gì mẹ Đốp là tôi
Tuy hình dung miệng nói dằng cò
Khách đến nhà, Đốp mới bò ra
Miệng chào khách những câu như cắt
Ngày hôm nay xướng ca lạc đạc
Dựng mõ lên cung phụng làm trò."
Trong hình dung của mọi người, mẹ Đốp là người ăn nói gay gắt. Nhưng thực tế, mỗi khi có khách, thị đều đon đả, nhanh nhảu mời chào. Ngày hôm nay, xã trưởng đến nhà, mẹ Đốp được thời thưa thớt đây đó. Câu nói "dựng mõ lên cung phụng làm trò" phần nào thể hiện được thái độ dè bỉu, chế nhạo tên xã trưởng. Biết được hắn không phải người đứng đắn, đàng hoàng nên mẹ Đốp cũng phải "kẻ tung người hứng", phục vụ, bày trò mua vui. Đặc biệt, mẹ Đốp còn nhận mình là người có tài ăn nói "Nghề ăn nói tôi vào trang đúng mực". Dẫu bị xã trưởng coi thường, mẹ Đốp vẫn luôn hãnh diện về chức vị của mình:
"Bất phận danh nhi tài túc
Vô chế lệnh nhi dân tòng
Một mình tôi cả xã ngóng trông
Điều phải trái tôi nay trước bảo!"
Thị ý thức được bản thân, gia đình trước nay không có địa vị, tài năng, quyền thế. Thế nhưng, mẹ Đốp lại tự tin lời nói của mình khiến người khác nghe theo, được cả xã chờ mong, trông ngóng. Nếu mẹ Đốp chưa ra thì việc làng chưa chắc sẽ thành "Một mình tôi cả xã ngóng trông". Từ những lời xưng danh, ta phần nào thấy được sự khôn khéo, nhanh nhẹn của nhân vật mẹ Đốp.
Càng về sau, mẹ Đốp càng khiến người đọc phải trầm trồ thán phục trước tài ứng xử linh hoạt và trí thông minh, sắc sảo trong đoạn hội thoại với tên xã trưởng. Thị cố tình nói "Điều phải trái tôi nay trước bảo" nhằm lấn lướt, qua mặt xã trưởng. Thấy hắn tức giận, thị liền tỏ ý phân bua "Nó là thế này: Làng có việc gì, thầy sai con đi rao mõ, thời chẳng phải là lên trước bảo là gì?". Song, mẹ Đốp vẫn không quên móc mỉa xã trưởng và đặt mình vào vị trí quan trọng "Từ việc hỉ cho chí việc hảo/ Giấy quan về là phải báo với tôi/ Tôi chưa ra là làng chửa được ngồi". Những lời nói này khiến hắn nổi khùng "Cái con mẹ Đốp này! Nhật nhật đa hĩ, lộng giả thành chân./ Mày chưa ra thì làng chưa được ngồi thời mày là bà tiên chỉ làng này à?". Sự căng thẳng ngày càng bị đẩy lên cao làm cho người đọc cảm tưởng có sự không lành. Thế nhưng, mẹ Đốp nhanh trí gỡ rối, xoa dịu xã trưởng bằng lí lẽ hết sức thuyết phục "Dạ, nó là thế này: Con chưa ra trải chiếu thì làng ngồi xuống đất hay sao?". Lúc này, hắn không thể chối cãi được điều gì ngoài cách công nhận lời của mẹ Đốp "Ờ con mẹ Đốp nó nói thế mà có lí!".
Mặc dù tên xã trưởng ở vị trí cao hơn nhưng chưa bao giờ ta thấy mẹ Đốp chịu khuất phục, nhún nhường. Thị sử dụng trí thông minh của mình để đối đáp, cạnh khóe, đồng thời, đặt mình ngang hàng với xã trưởng. Điều này thể hiện rõ nhất qua bài thơ:
"Mõ tôi cả tiếng lại dài hơi
Một xã cử bầu chẳng phải chơi
Mộc đạc vang lừng hòa cả xã
Kim thanh dóng dả khắp đòi nơi
Gần xa chốn chốn đều nghe hiệu
Làng nước ai ai cũng quý nhời
Muôn việc sửa sang quyền cắt đặt
Một mình một chiếu thảnh thơi ngồi"
Tên xã trưởng tự cao tự đại nói mình được dân bầu thì nay mẹ Đốp cũng không hề nhận thua. Nhờ tiếng mõ vừa lớn vừa dài nên mọi người trong làng ai ai cũng yêu thích. Dù chỉ là người đi rao mõ nhưng thị cũng có quyền "sửa sang cắt đặt", ngồi một mình một chiếu thảnh thơi như các quan. Bài thơ ẩn chứa nhiều ý nghĩa nhưng tên xã trưởng kém chữ lại không hề nhận ra. Thậm chí, còn dành lời khen "thơ hay đấy nhỉ.". Thuận đà, thị tiếp tục chọc tức tên xã trưởng bằng cách hỏi hắn "có mang giấy bút đi không?". Câu nói "Thầy khen thơ hay thì chép lấy đem về nhà mà treo" chính là yếu tố hài hước, gây cười, khiến cho người đọc nhận ra bản chất ngu dốt, ít học của tên xã trưởng.
Chỉ chờ xã trưởng sơ hở là thị ta đưa hắn vào tròng "Nhà cháu đi trước đánh mõ, thầy đi sau rao hộ nhà cháu". Câu nói ấy làm xã trưởng tức điên "Thế ra tao làm đầy tớ mõ à? Láo nào". Trong con mắt của mẹ Đốp, xã trưởng cũng chỉ thuộc hàng làm đầy tớ mõ mà thôi! Chi tiết phô diễn sự hoạt ngôn, sắc sảo của mẹ Đốp chính là cảnh mẹ Đốp lấy dải yếm hứng lời rao của xã trưởng. Hành động này là một sự đả kích, châm biếm mạnh mẽ. Trong xã hội xưa, khi phụ nữ không được đề cao thì dải yếm thả trước cũng được gán cho cái thiếu trong sạch. Thị bốc mồm xã trưởng thả vào dải yếm chẳng khác nào thể hiện những lời nói của tên xã trưởng cũng thuộc hàng dơ bẩn.
Không chỉ lanh lợi, hoạt bát, mẹ Đốp còn là người vợ chung thủy, đề cao chồng. Khi xã trưởng dè bỉu, chế nhạo chồng, thị liền lên tiếng giải thích cặn kẽ "Dạ, bố cháu cắp tráp theo hầu cụ Bá lên tỉnh lĩnh bằng rồi ạ!". Thị rất thương chồng, vì "thương chồng nên phải lầm than". Nghe thấy lời gạ gẫm, tán tỉnh của xã trưởng, mẹ Đốp chối khéo "Bố cháu đứng ngoài kia nó nghe thấy rồi nó lại ghen!". Chưa một lần nào, thị đi quá giới hạn, luôn cử xử chừng mực, giữ mình trước tên quan háo sắc. Hành động đánh mẹ Đốp của tên xã trưởng cũng là lúc mọi việc đi quá giới hạn. Thị ta không ngần ngại hô hoán, la lối cho dân làng cùng nghe. Việc làm này vừa để bảo toàn danh dự của bản thân vừa khiến tên quan một phen bẽ mặt, xấu hổ.
Bằng việc xây dựng nhân vật thông qua lời nói và hành động, tác giả dân gian đã miêu tả rõ nét nhân vật mẹ Đốp - một người thông minh, sắc sảo, chung thủy. Từ đó, đề cao, trân trọng những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ. Ngoài ra, tác giả dân gian cũng bóc trần sự suy đồi, tha hóa của những tên quan trong bộ máy cai trị.
Có thể nói, nhân vật mẹ Đốp đại diện cho những vẻ đẹp phẩm chất của người phụ nữ Việt Nam. Đứng trước cái dung tục, tầm thường, thị luôn biết giữ mình, coi trọng các chuẩn mực đạo đức.
Mẫu 3
Chèo cổ là một loại hình biểu diễn độc đáo của nghệ thuật dân gian Việt Nam. Là một trong bảy vở chèo kinh điển, tác phẩm "Quan m Thị Kính" đã phần nào tái hiện được bức tranh xã hội Việt Nam dưới thời kì phong kiến. Những thói hư, tật xấu của một số hạng người, nhất là quan lại được thể hiện rõ nhất qua đoạn trích "Xã trưởng - Mẹ Đốp". Đây có thể coi là lớp chèo đặc sắc cả về nội dung lẫn nghệ thuật.
Trích đoạn "Xã trưởng - Mẹ Đốp" thể hiện cảnh xã trưởng đến nhà mẹ Đốp yêu cầu rao mõ cho cả làng biết về việc Thị Mầu chửa hoang. Qua cuộc trò chuyện giữa xã trưởng và mẹ Đốp, tác giả dân gian đã tố cáo bản chất xấu xa, tha hóa của bộ phận quan lại trong xã hội phong kiến.
Có thể thấy, chủ đề của văn bản được thể hiện rõ nhất qua tình huống xã trưởng đến nhà mẹ Đốp yêu cầu bố Đốp đi rao mõ về chuyện Thị Mầu không chồng mà chửa. Mở đầu đoạn trích là cảnh xã trưởng đến tìm nhưng bố Đốp không có nhà. Hắn đứng giới thiệu về bản thân:
"Tại dân vi tổng lí
Quốc pháp hữu công hầu
Ơn dân xã thuận bầu
Tôi đứng đầu hàng xã
Nay cơ chừng động mả
Thị Mầu đã hoang thai
Chiểu lệ làng ngả vạ không sai
Bắt khoán cứ một trăm quan quý"
Qua lời xưng danh, người đọc đã có được những hình dung ban đầu về tên tuổi, chức vụ của tên xã trưởng. Vì là quan trên nên hắn tỏ vẻ khinh người, tự coi mình là nhất. Lúc mẹ Đốp nói chồng mình đã lên tỉnh lấy bằng, hắn lên giọng dè bỉu, chế nhạo "Làm cái thứ mõ thì bằng với sắc cái gì?". Ngay lập tức, mẹ Đốp phân bua, giải thích ngọn ngành "Dạ bố cháu cắp tráp theo hầu cụ Bá lên tỉnh lĩnh bằng rồi ạ". Thực chất, cách nói của thị ngay từ ban đầu vừa là câu trả lời rút gọn vừa là một cách để thể hiện sự ngang bằng với tên xã trưởng.
Bố Đốp không có nhà, tên xã trưởng đành phải yêu cầu mẹ Đốp ra làm việc thay. Mẹ Đốp vừa hát vừa xưng danh:
"Chẳng giấu gì mẹ Đốp là tôi
Tuy hình dung miệng nói dằng cò
Khách đến nhà, Đốp mới bò ra
Miệng chào khách những câu như cắt
Ngày hôm nay xướng ca lạc đạo
Dựng mõ lên cung phụng làm trò."
Trong con mắt của bọn lí dịch, cường hào, những kẻ đi gõ mõ như gia đình Đốp đây chỉ thuộc hạng cùng đinh, thấp kém trong xã hội. Mẹ Đốp ý thức rõ được điều đó nhưng thị vẫn luôn thể hiện sự hãnh diện, tự hào đối với công việc của mình. Mặc dù trước nay gia đình thị không có quyền thế, tiền tài nhưng vẫn khiến dân làng ngóng trông, chờ đợi bởi tài rao tin, gõ mõ. Mẹ Đốp đề cao mình nhưng cũng không quên trêu ghẹo, chọc tức xã trưởng "Điều phải trái tôi nay trước bảo!". Thị thật thông minh và có tài ứng biến khi "vừa đấm vừa xoa" tên xã trưởng:
"Nó là thế này: Làng có việc gì, thầy sai con đi rao mõ, thời chẳng phải là lên trước bảo là gì?
Từ việc hỉ cho chí việc hảo
Giấy quan về là phải báo với tôi
Tôi chưa ra là làng chửa được ngồi".
Từng câu, từng chữ của thị như muốn lấn lướt, dằn mặt hắn. Tên xã trưởng lúc này chỉ biết tức giận, quát lớn "Con này láo! Mày vất tao đi mà trước bảo dân tao à?", "Cái con mẹ Đốp này! Nhật nhật đa hĩ, lộng giả thành chân. Mày chưa ra thì làng chưa được ngồi thời mày là bà tiên chỉ làng này à?". Đáp lại lời hắn, thị ta chốt gọn bằng câu "Dạ, nó là thế này: Con chưa ra trải chiếu thì làng ngồi xuống đất hay sao?". Lúc này, xã trưởng chỉ biết gật gù đồng thuận "Ờ con mẹ Đốp nó nói thế mà có lí". Nhân lúc được đà, mẹ Đốp đọc bài thơ, một mặt muốn khẳng định vị trí của bản thân mình mặt khác lại công kích, mỉa mai xã trưởng. Hắn coi mình là nhất vì được dân bầu thì nay mẹ Đốp cũng nhận mình không kém. Vì tiếng rao vừa lớn vừa dài hơi nên cả làng ai ai cũng thích. Tưởng chừng việc sửa sang, cắt đặt chỉ quan mới được làm thì một kẻ hèn kém cũng có được cái quyền ấy. Thậm chí, ngồi một mình một chiếu chẳng kém ai. Vậy mà, tên xã trưởng không nhận ra ẩn ý sâu xa trong bài thơ, hắn còn khen ngợi "thơ hay đấy nhỉ". Quả là một tên quan ít học, kém chữ làm sao. Mẹ Đốp khôi hài tới mức khuyên "Thầy khen thơ hay thì chép lấy đem về nhà mà treo!".
Câu hỏi của mẹ Đốp "Sao thầy lại cứ nhìn tôi thế vậy?" đem đến cho người đọc những hình dung về bản chất của tên xã trưởng. Hắn nhân cơ hội bố Đốp vắng nhà, buông lời gạ gẫm, tán tỉnh "Nhà Đốp lớp này xem ra bảnh gái dễ coi lắm nhỉ?", "Hôm nào mát giời, tao sang gửi mày một đứa nhá!". Mẹ Đốp chối khéo "Thầy chớ nói vậy! Bố cháu đứng ngoài kia nó nghe thấy rồi nó lại ghen!". Xã trưởng biết mình rơi vào thế mắc quai, đành phải chữa quê bằng cách đáp lại "Thấy mày mát tay nên tao định sang gửi mày nuôi hộ vài đứa chứ tao lại thèm...thèm...ấy à? Dở hồn!". Hắn kêu mẹ Đốp đi rao mõ cho được việc. Vì không biết rao như thế nào nên thị hỏi "Thầy bảo rao thế nào ạ?". Nhân lúc sơ hở, mẹ Đốp vẫn không ngừng chọc tức tên xã trưởng bằng cách bảo hắn "Hay là thế này vậy: Nhà cháu đi trước đánh mõ, thầy đi sau rao hộ nhà cháu" khiến xã trưởng nổi điên "Thế ra tao làm đầy tớ mõ à? Láo nào?". Có lẽ, trong con mắt của thị, hắn cũng chỉ xứng đáng là kẻ đầy tớ của mõ làng mà thôi. Hành động bốc miệng xã trưởng bỏ vào dải yếm là chi tiết châm biếm, đả kích mạnh mẽ. Trong xã hội phong kiến, khi vai trò của người phụ nữ không được đề cao thì dải yếm trước ngực cũng được coi là thiếu sạch sẽ. Chính vì vậy, việc làm của thị chẳng khác nào nói lời lẽ của hắn cũng dơ bẩn, ô uế.
Tức giận vì bị mụ đàn bà chơi xỏ, xã trưởng đã đánh mẹ Đốp. Tưởng đâu mẹ Đốp dễ bắt nạt, hóa ra thị cũng vô cùng đáo để, nhanh chóng la lớn cho xóm làng cùng nghe "Ối bố Đốp ơi là bố Đốp ơi! Đi đâu để thầy Xã thầy ấy ăn hiếp tôi đây này.". Không phải ngẫu nhiên mà thị làm như vậy. Hành động này xuất phát từ việc mẹ Đốp vừa muốn giữ gìn sự trong sạch của bản thân vừa muốn cho thiên hạ biết bộ mặt đê tiện của tên xã trưởng. Không biết làm thế nào, hắn chỉ còn cách van xin lạy lục và bịt mồm bằng cách đền cho thúng thóc.
Như vậy, nhân vật mẹ Đốp và xã trưởng lần lượt đại diện cho giai cấp bị trị và thống trị trong xã hội phong kiến. Bằng giọng điệu hài hước, châm biếm, mỉa mai cùng ngôn từ dung dị, mộc mạc, gần gũi với đời sống sinh hoạt của nhân dân, tác giả dân gian muốn lên án, đả kích tới thành phần quan lại ô hợp, xấu xa. Đồng thời, đề cao vẻ đẹp phẩm chất của người phụ nữ.
Đoạn trích "Xã trưởng - Mẹ Đốp" thật sự là một lớp chèo đặc sắc của vở chèo "Quan m Thị Kính". Tiếng cười sâu cay mà văn bản đem đến cho người đọc sẽ là yếu tố giúp lớp chèo nói riêng và vở chèo nói chung sống mãi trong lòng mỗi người dân Việt Nam.
Mẫu 4
Vở chèo "Quan âm Thị Kính" là một trong bảy vở chèo nổi tiếng của chèo cổ Việt Nam. Bên cạnh trích đoạn tiêu biểu như "Thị Mầu lên chùa", "Xã trưởng - Mẹ Đốp" cũng là một lớp chèo nổi bật, thu hút được sự chú ý của mọi người. Bằng nghệ thuật châm biếm sắc sảo, tác giả dân gian đã phơi bày bộ mặt thối nát của tên xã trưởng - kẻ đại diện cho giai cấp thống trị trong xã hội phong kiến.
Chẳng cần phải sử dụng đến bất cứ lời phán xét nào, tác giả vẫn khiến cho người đọc nhận ra được bản chất đê hèn của tên xã trưởng bằng cách để cho nhân vật tự giới thiệu về bản thân mình:
"Tại dân vi tổng lí
Quốc pháp hữu công hầu
Ơn dân xã thuận bầu
Tôi đứng đầu hàng xã
Nay cơ chừng động mả
Thị Mầu đã hoang thai
Chiểu lệ làng ngả vạ không sai
Bắt khoán cứ một trăm quan quý"
Hắn đạo mạo, huênh hoang nói rằng dân phải có xã trưởng cai quản, cũng như nước có quan điều hành. Vì nhận được sự tín nhiệm của người dân nên hắn có cơ hội đứng đầu một xã. Thị Mầu không chồng mà chửa được mọi người trong làng coi là "động mả". Bởi lẽ ấy, tên xã trưởng mới bắt Thị Mầu phải nộp "một trăm quan quý", chiểu theo lệ làng. Hắn không những coi mình là nhất mà còn khinh thường người khác. Khi mẹ Đốp nói chồng mình đang lên tỉnh lĩnh bằng, xã trưởng liền lên giọng dè bỉu "Làm cái thứ mõ thì bằng với sắc cái gì?". Chỉ đến lúc mẹ Đốp trả lời "Dạ, bố cháu cắp tráp theo hầu cụ Bá lên tỉnh lĩnh bằng rồi ạ" thì hắn mới thôi "Có chăng thì thế!".
Mặc dù làm quan nhưng tên xã trưởng lại có phần ngu muội, thường bị mẹ Đốp chơi xỏ, nói móc. Dẫu vậy, hắn vẫn cố diễu võ dương oai: "Con này láo! Mày vất tao đi mà trước bảo dân tao à?". Tên xã trưởng luôn rơi vào tình thế bị động, ban đầu thì lớn tiếng dọa nạt, sau nghe lời phân bua, giải thích của mẹ Đốp lại thấy hợp tình, hợp lí mà dịu giọng trở lại "Ờ con mẹ Đốp nó nói thế mà có lí!", "Kìa, có nhấc cao cái dải yếm lên không, uế tạp hết mồm tao còn gì?". Chắc hẳn, tên xã trưởng còn là người kém chữ bởi mẹ Đốp đọc bài thơ mõ, hắn cũng cho đó là thơ hay.
Sống trong xã hội phong kiến mục ruỗng, thối nát, tên xã trưởng cũng trở thành kẻ ô lại. Cái tính háo sắc thể hiện rõ qua từng lời xã trưởng nói ra. Hắn chẳng ngại ngần tán tỉnh, khen ngợi mẹ Đốp: "Nhà Đốp lớp này xem ra bảnh gái dễ coi lắm nhỉ?". Thậm chí còn nhân cơ hội gạ gẫm chuyện trai gái, trăng hoa "Tốt nái gớm nhỉ! Này, nhà Đốp! Hôm nào mát giời, tao sang gửi mày một đứa nhá!". Đây thật là một tên quan thiếu đứng đắn làm sao!
Khi nhận ra mình bị mụ đàn bà chơi một vố đau, hắn cậy đà, bắt nạt, đánh mẹ Đốp. Giống như mọi tên quan lúc bấy giờ, hắn cũng sợ bản thân bị mang tiếng "xấu". Chính vì vậy, ngay khi mẹ Đốp vừa kêu làng, hắn liền van xin, lạy lục "Thôi, thôi! Lọt tai làng sang tai họ bây giờ! Nín đi!". Không còn vẻ hợm hĩnh, lên mặt, tên xã trưởng trở nên rúm ró lạ thường, để lộ ra bản chất nhu nhược, hèn nhát. Để bịt mồm, bịt miệng mẹ Đốp, hắn đành phải dùng chiêu đút lót "Thôi, tao xin mày! Rồi tao đền cho thúng thóc! Đi rao đi!/ Nhớ vào mờ bằng được cụ Đồ Điếc, nhớ đấy nghe không?".
Như vậy, bằng lời nói và hành động, tác giả dân gian đã khắc họa nhân vật một cách rõ nét và chân thực. Tên xã trưởng hiện lên với đầy đủ sự xấu xa, thô lỗ. Thông qua nhân vật, tác giả dân gian muốn đả kích, châm biếm những tên quan háo sắc, thiếu đứng đắn trong xã hội.
Có thể nói, bên cạnh nhân vật mẹ Đốp, nhân vật xã trưởng cũng là nhân vật chính của toàn bộ đoạn trích "Xã trưởng - Mẹ Đốp". Từ những gì mà nhân vật thể hiện, ta càng hiểu thêm bản chất của một bộ phận quan lại trong thời kì phong kiến. Qua đó, đồng cảm với nỗi niềm của người dân.
Hot: 1000+ Đề thi cuối kì 1 file word cấu trúc mới 2025 Toán, Văn, Anh... lớp 1-12 (chỉ từ 60k). Tải ngay
- Trọng tâm Toán, Văn, Anh 10 cho cả 3 bộ KNTT, CTST, CD VietJack - Sách 2025 ( 13.600₫ )
- Trọng tâm Lí, Hóa, Sinh 10 cho cả 3 bộ KNTT, CTST và CD VietJack - Sách 2025 ( 40.000₫ )
- Sách lớp 10 - Combo Trọng tâm Toán, Văn, Anh và Lí, Hóa, Sinh cho cả 3 bộ KNTT, CD, CTST VietJack ( 75.000₫ )
- Sách lớp 11 - Trọng tâm Toán, Lý, Hóa, Sử, Địa lớp 11 3 bộ sách KNTT, CTST, CD VietJack ( 52.000₫ )
CÂU HỎI HOT CÙNG CHỦ ĐỀ
Lời giải
Sự kết hợp giữa lí lẽ và bằng chứng trong ngữ liệu:
|
Lí lẽ |
Bằng chứng |
|
Thực tế càng tăng thêm phần nghiệt ngã với em bé thì nó càng thôi thúc em bé tìm đến với chốn bình yên là cõi mộng ảo. |
Các lần quẹt diêm và hiệu quả mà nó mang lại. |
|
Truyện có nhiều hơn năm lần quẹt diêm |
Bởi bốn lần, mỗi lần em chỉ quẹt một que, riêng lần thứ năm em quẹt liên tục hết cả bao diêm. |
Lời giải
Mẫu 1
Trích đoạn chèo Thị Mầu lên chùa là một trích đoạn đặc sắc của nghệ thuật chèo nói riêng và của nghệ thuật kịch hát Việt Nam nói chung. Sự đặc sắc của Thị Mầu lên chùa là sự đặc sắc đến từ chủ đề, nội dung và hình thức nghệ thuật biểu hiện.
Cái hay trong chủ đề của trích đoạn Thị Mầu lên chùa nằm ở chỗ, Thị Mầu đã say mê và tìm cách ve vãn tiểu Kính Tâm. Nghĩa là, giữa lề lỗi, lễ giáo phong kiến đè nặng lên người con gái, lại có một Thị Mầu dám khát vọng và thể hiện tình yêu của mình ra bên ngoài. Thị Mầu chính là một sự đặc sắc, sự đối lập với Thị Kính. Cái hay nữa ở đây là, Thị Mầu lại đi thích tiểu Kính Tâm! Thật ngược đời, tréo ngoe. Nhưng dù tréo ngoe như vậy thì trích đoạn này cũng tràn đầy sự vui vẻ, đặc sắc so với những màn khác trong vở chèo Quan âm Thị Kính. Quan điểm của tác giả dân gian, như một cách để cởi trói cho người phụ nữ trong lễ giáo phong kiến, khỏi những lề lối của vòng cương tỏa, đã được gửi gắm qua những câu nói của Thị Mầu: "Bỏ mô Phật đi!", "Lẳng lơ đây cũng chẳng mòn/ Chính chuyên cũng chẳng sơn son để thờ!".
Nét đặc sắc trong hình thức nghệ thuật của trích đoạn này được thể hiện rõ nhất chính là ở sự biểu hiện. Nói cách khác là nghệ thuật sân khấu. Nếu chỉ soi xét về kịch bản của Thị Mầu lên chùa, ta sẽ thấy được những điểm đáng chú ý. So với nghệ thuật Tuồng, ngôn ngữ trong Chèo dễ hiểu hơn, gần gũi với tiếng nói của nhân dân. Đó là những lời nói, điệu hát mà có thể sử dụng, chèn thêm được cả lục bát, mang nặng tâm tình người Việt:
"Muốn rằng cây cải cho xanh
Thài lài, rau dệu tám thành bờ tre
Lắng tai tôi nói cho mà nghe
Tri âm chẳng tỏ tri âm
Để tôi thương vụng nhớ thầm sầu riêng!"
- "Lẳng lơ đây cũng chẳng mòn
Chính chuyên cũng chẳng sơn son để thờ!"
Cái hay của chèo còn khác biệt với kịch nói ở chỗ đó là có những tiếng đế. Tiếng đế này là sự tương tác của khán giả, là một sự cộng hưởng, cùng tác giả. Giới hạn giữa sân khấu và khán giả ở đây bị thu hẹp. Trong khi đó, ở kịch nói mà cụ thể là ảnh hưởng từ phương Tây, khán giả không được quyền lên tiếng, đồng sáng tạo với vở kịch diễn. Điều này cũng đã được thể hiện trong trích đoạn Thị Mầu lên chùa.
Có thể thấy, những nét đặc sắc trong nghệ thuật chèo đã được thể hiện khá rõ trong trích đoạn Thị Mầu lên chùa. Những sự đặc sắc ấy đến từ chủ đề nghe có phần trái ngược (một cô gái đi ve vãn chú tiểu), đến từ sự biểu hiện của loại hình kịch hát. Kịch nói là sự ảnh hưởng, du nhập của phương Tây trong quá trình hiện đại hóa văn học, nghệ thuật ở Việt Nam. Thế nhưng, kịch hát vẫn có những hấp dẫn riêng, không chỉ vì đó là cái truyền thống, mà còn ở chính nghệ thuật của nó.
Mẫu 2
Truyện ngắn Giang của Bảo Ninh là một truyện ngắn viết về đề tài chiến tranh. Chủ đề của truyện ngắn cũng như hình thức nghệ thuật trong Giang rất nhẹ nhàng, nhưng khắc khoải, khiến cho con người ta phải suy nghĩ mãi. Đó có lẽ là sự thành công trong truyện ngắn này của nhà văn Bảo Ninh.
Chủ đề của Giang là sự gặp gỡ và nỗi nhớ của những con người trong chiến tranh. Không giống với hiện thực chiến tranh ở các tác phẩm văn học cách mạng vốn là sự chiến đấu hay anh dũng, hiện thực chiến tranh trong Giang của Bảo Ninh là một hiện thực khác. Đó là một hiện thực với cuộc gặp gỡ thoáng chốc mà nỗi nhớ đến cả đời người, day dứt. Chiến tranh đã chia cắt con người ta, đã chia cắt sự lãng mạn lứa đôi, không cho con người ta ngày gặp lại. Hiện thực ấy cũng rất tàn khốc chẳng kém gì máu và đạn bom nơi chiến trường. Với một chủ đề như vậy, Giang đã thành công để bạn đọc đón nhận.
Sự thành công của truyện ngắn này không chỉ nằm ở đề tài hay chủ đề mà còn nằm ở hình thức nghệ thuật. Với điểm nhìn của người kể chuyện xưng "tôi" - trực tiếp tham gia vào câu chuyện, truyện ngắn trở nên gần gũi hơn khi là lời chia sẻ của người trong cuộc. Người kể chuyện ở đây dẫu "hạn tri" nhưng lại đúng là bản chất của con người trong cuộc sống hiện thực - không bao giờ biết được tất cả.
Như vậy, có thể thấy chủ đề và hình thức nghệ thuật trong Giang đã làm nên sự thành công cho truyện ngắn này. Truyện ngắn Giang của Bảo Ninh đã cho tôi hiểu thêm về cuộc đời, số phận của con người trong chiến tranh.
Mẫu 3
Truyện ngụ ngôn Thầy bói xem voi kể về việc "xem voi" của năm ông thầy bói. Các thầy rủ nhau chung tiền biếu người quản voi để xem con voi có hình thù thế nào.
Mỗi ông xem một bộ phận, cuối cùng cãi nhau, không ông nào chịu ông nào: ông sờ vòi bảo voi sun sun như con đỉa; ông sờ ngà bảo voi giống cái đòn càn; ông sờ tai bảo nó giống cái quạt thóc; ông sờ chân bảo voi sừng sững như cái cột đình; ông cuối cùng sờ đuôi, bảo voi tủn lủn như cái chổi sể cùn. Cãi nhau không thể phân thắng bại, năm ông đánh nhau toác đầu, chảy máu. Cách "xem voi" ấy thật kì quặc và mắc những sai lầm khá cơ bản. Từ câu chuyện này, ta có thể rút ra cho mình những bài học hữu ích.
Vì là thầy bói mù nên các thầy không thể "xem voi" tận mắt mà chỉ có thể "sờ" bằng tay. Con người có năm giác quan, các thầy đã bị khiếm khuyết giác quan quan trọng nhất trong việc "xem", ấy là thị giác. Cuối cùng, các thầy chỉ vận dụng có một giác quan để làm việc đó: xúc giác. Vậy là các thầy "xem" voi bằng tay! Thêm nữa, con voi lại quá to nên tất cả những điều đó tất yếu dẫn đến việc mỗi thầy chỉ sờ được một bộ phận của nó, nhận biết không được toàn diện về đối tượng. Vậy nên, cùng xem một con voi mà ý các thầy không giống nhau.
Thái độ của các thầy ở đây không phải là tự tin mà chủ quan đến cực đoan: ai cũng cho là mình đúng nhất, người sau phản bác ý kiến của người trước để khẳng định ý của mình, không ai chịu ai, cho nên từ bàn tán các thầy chuyển sang xô xát, dẫn đến kết cục là đánh nhau toác đầu, chảy máu.
Rõ ràng, sai lầm của các thầy bói là ở chỗ: đáng lẽ phải xem cả con voi thì mỗi thầy lại chỉ sờ được một bộ phận của voi và bảo rằng đó là con voi. Vòi, chân, tai, ngà, đuôi đúng là của con voi thật, nhưng mới chỉ là những bộ phận riêng lẻ, chưa phải là cả con voi.
Và điều quan trọng hơn nữa, nếu các thầy chịu khó lắng nghe ý kiến của nhau, hỏi quản lượng, kết hợp với việc miêu tả, nhận thức của mỗi người, các thầy sẽ biết con voi là như thế nào!
Câu chuyện ngụ ngôn của người xưa đã giúp người đọc rút ra những bài học bổ ích trong cuộc sống. Khi xem xét một sự vật (hoặc sự việc) cần kết hợp nhận thức của các giác quan (tai nghe, mắt thấy...). Nhưng nếu không có điều kiện xem xét bằng đầy đủ các giác quan thì phải xem xét một cách toàn diện, không lấy cái bộ phận, đơn lẻ thay cho cái toàn thể. Đặc biệt, không nên chủ quan trong việc xem xét, đánh giá sự vật, sự việc mà cần phải biết lắng nghe ý kiến của người khác, vừa nghe vừa kết hợp với phân tích, đánh giá, tổng hợp của riêng mình.
Mẫu 4
Thầy bói xem voi là một truyện ngụ ngôn có nội dung giáo dục rất thâm thúy ẩn chứa dưới hình thức nghệ thuật hài hước thú vị. Truyện ngụ ngôn là truyện không chỉ có nghĩa đen mà còn hàm chứa nghĩa bóng. Nghĩa bóng là ý nghĩa sâu kín gửi gắm trong truyện, thường là những bài học nhân sinh bổ ích cho con người trong cuộc sống.
Thầy bói xem voi kể về cuộc xem voi của năm thầy bói mù và nhận xét của từng người về con voi. Sự khác biệt trong nhận thức về hình dáng con voi giữa các thầy bói dẫn đến cuộc tranh luận bất phân thắng bại, thậm chí dẫn tới ẩu đả. Từ việc chế giễu cách xem voi và nhận xét về voi rất phiến diện của năm ông thầy bói mù, người xưa khuyên chúng ta rằng khi tìm hiểu, xem xét, đánh giá các sự vật, sự việc, hiện tượng xung quanh thì phải thận trọng, kĩ càng và toàn diện để tránh những đánh giá lệch lạc, sai lầm.
Mẫu 5
Thầy bói xem voi là một truyện ngụ ngôn có nội dung giáo dục rất thâm thúy ẩn chứa dưới hình thức nghệ thuật hài hước thú vị. Truyện ngụ ngôn là truyện không chỉ có nghĩa đen mà còn hàm chứa nghĩa bóng. Nghĩa bóng là ý nghĩa sâu kín gửi gắm trong truyện, thường là những bài học nhân sinh bổ ích cho con người trong cuộc sống.
Thầy bói xem voi kể về cuộc xem voi của năm thầy bói mù và nhận xét của từng người về con voi. Sự khác biệt trong nhận thức về hình dáng con voi giữa các thầy bói dẫn đến cuộc tranh luận bất phân thắng bại, thậm chí dẫn tới ẩu đả. Từ việc chế giễu cách xem voi và nhận xét về voi rất phiến diện của năm ông thầy bói mù, người xưa khuyên chúng ta rằng khi tìm hiểu, xem xét, đánh giá các sự vật, sự việc, hiện tượng xung quanh thì phải thận trọng, kĩ càng và toàn diện để tránh những đánh giá lệch lạc, sai lầm.
Truyện ngắn gọn nhưng rất hấp dẫn bởi hàng loạt các yếu tố đặc biệt của nó: tình huống đặc biệt, nhân vật đặc biệt, sự vật đặc biệt và cách cảm nhận sự vật của mỗi người lại càng đặc biệt. Có thể coi truyện ngụ ngôn này là một vở hài kịch nhỏ có đủ hoàn cảnh, nhân vật và mâu thuẫn kịch.
Mở đầu là cảnh năm thầy bói mù nhân buổi ế khách bèn túm tụm lại ngồi chuyện gẫu với nhau. Thầy nào cũng phàn nàn là chưa biết hình thù con voi ra sao. Tình cờ đúng lúc ấy, các thầy nghe người ta nói có voi đi qua, bèn chung nhau tiền biếu quản tượng, xin cho voi dừng lại để xem. Vì mù nên năm thầy cùng chung một cách xem voi là sờ bằng tay và mỗi thầy chỉ sờ được vào một bộ phận của con voi mà thôi.
Phần mở đầu ngắn gọn nhưng chứa đựng đầy đủ những thông tin cần thiết để thu hút và dẫn dắt người đọc. Nếu coi truyện là một màn kịch thì ở đoạn này, mâu thuẫn kịch đã bắt đầu hình thành và phát triển. Cách xem voi của năm thầy là dùng tay để sờ. Thầy thì sờ vòi, thầy thì sờ ngà, thầy thì sờ tai, thầy thì sờ chân, thầy thì sờ đuôi.
Thầy nào sờ được bộ phận nào thì nhận xét về hình thù "con voi" như thế. Thầy sờ vào vòi cho rằng voi sun sun như con đỉa. Thầy sờ vào ngà bảo voi chần chẫn như cái đòn càn. Thầy sờ vào tai khăng khăng voi bè bè như cái quạt thóc. Thầy sờ vào chân voi thì cãi: Nó sừng sững như cái cột đình. Bốn nhận định của bốn thầy khác xa nhau nên thầy này phủ nhận ý kiến của thầy kia. Thầy thứ năm sờ vào cái đuôi thì phủ nhận tất cả bốn thầy trước: - Các thầy nói không đúng cả. Chính nó tun tủn như cái chổi sể cùn.
Dựa trên thực tế mà mình "xem" được, mỗi thầy đều đưa ra nhận xét về hình thù con voi bằng hình thức ví von, so sánh. Điều đó làm cho truyện thêm sinh động và có tác dụng tô đậm sai lầm trong cách xem voi và lời "phán" về voi của các thầy. Mâu thuẫn càng lúc càng tăng, không ai chịu nghe ai vì người nào cũng cho rằng mình đúng. Tục ngữ có câu: Trăm nghe không bằng một thấy, Trăm thấy không bằng một sờ. Ở đây, các thầy đã sờ tận tay, thử hỏi còn sai vào đâu được? Do vậy, việc thầy nào cũng khẳng định rằng mình đúng là có cơ sở. Thầy nào cũng đúng nhưng khổ nỗi chỉ đúng với một bộ phận của con voi chứ không đúng với toàn bộ con voi.
Người xưa thật hóm hỉnh khi để các thầy bói mù xem một con vật khổng lồ là con voi. Các bộ phận của nó ở cách xa nhau (vòi, ngà, tai, chân, đuôi) mà các thầy đều bị mù, không thể đi lại dễ dàng. Mỗi thầy lại chỉ sờ được có một thứ nên mới dẫn đến chuyện đấu khẩu bất phân thắng bại.
Mâu thuẫn lên đến đỉnh điểm khi thầy nào cũng khăng khăng bảo vệ ý kiến của mình. Cãi nhau mãi không xong tất dẫn đến cuộc ẩu đả quyết liệt, bởi vì cả năm thầy không ai chịu ai. Như vậy là cãi nhau không đi đến đâu, mà đánh nhau càng không thể dẫn đến chân lí khách quan. Cái sai nọ tất yếu dẫn đến cái sai kia. Người đọc tưởng tượng ra cảnh năm thầy bói mù gân cổ cãi nhau rồi quờ quạng đánh nhau mà cười ra nước mắt.Biện pháp phóng đại được sử dụng triệt để trong truyện để tô đậm cái sai về nhận thức của các thầy bói xem voi.
Năm thầy bói đều sờ vào voi thật và mỗi thầy đều tả đúng một bộ phận của voi, nhưng không ai nhận xét đúng về cả con voi. Sai lầm của họ là mỗi người chỉ sờ được vào một bộ phận của con voi mà đã nhất quyết cho rằng đó là con voi. Điều đáng buồn cười là các thầy đều sai nhưng ai cũng nhận mình là đúng. Thực ra họ đều sai lầm trầm trọng bởi vì ai đã lấy nhận xét chủ quan về một chi tiết của sự vật để khẳng định, đánh giá toàn thể sự vật và phủ nhận ý kiến của người khác.
Cả năm thầy đều chung một cách xem voi phiến diện, dùng bộ phận để khái quát toàn thể. Truyện không nhằm chế giễu cái "mù" về thể chất (đây chỉ là chi tiết cần có của tình huống truyện), mà muốn nói đến cái "mù" về nhận thức và phương pháp nhận thức của các thầy bói. Cao hơn thế, truyện có ý giễu cợt những người làm nghề xem bói (Thầy bói nói càn). Tiếng cười trong truyện nhẹ nhàng nhưng cũng rất thâm thúy.
Mẫu 6
Truyện là màn hài kịch ngắn nhưng chứa đựng một bài học bổ ích. Người xưa muốn thông qua truyện để nhắc nhở mọi người khi giao tiếp, vấn đề nào tìm hiểu chưa thấu đáo thì không nên thể hiện quan điểm của mình vì không thể nào có được một nhận xét đúng đắn về thực tế xung quanh (hiện tượng, sự việc, sự vật, con người) nếu chưa tìm hiểu đầy đủ, kĩ càng. Muốn kết luận đúng về sự vật thì phải xem xét nó một cách toàn diện. Những hiểu biết hời hợt, nông cạn, những suy đoán mò mẫm thiếu thực tế… chỉ dẫn đến nhận thức lệch lạc, sai lầm mà thôi.
Truyện ngụ ngôn là truyện kể dân gian bằng văn xuôi hay bằng thơ, mượn chuyện về loài vật, đồ vật, cây cỏ… làm ẩn dụ, hoặc chính chuyện con người để nói bóng gió, kín đáo chuyện đời, chuyện người, nhằm nêu lên bài học luân lí. “ Thầy bói xem voi” là một trong những câu chuyện ngụ ngôn hài hước, phản ánh một cách chân thực mà thực tế trong xã hội hiện nay đang diễn ra thông qua những đánh giá khách quan của những ông thầy bói.
Đây là một câu chuyện có ý nghĩa giáo dục cao về sự nhìn nhận của con người trong cuộc sống, là một bài học luân lí vô cùng quý báu.
Chuyện được kể về 5 ông thầy bói, mỗi người sờ vào một bộ phận của con voi. Người sờ đầu, người sờ ngà, người sờ tai, người sờ chân, người sờ đuôi. Chỉ như vậy thôi mà những ông thầy bói này đã đưa ra những kết luận dựa trên suy nghĩ của mình, không có một căn cứ nào nhưng họ luôn khẳng định ý kiến cá nhân của mình là đúng và cuối cùng đã gây ra tranh cãi dẫn đến việc đánh nhau.
Thầy sờ ngà thì bảo nó “chần chẫn như cái đòn càn”, thầy sờ tai bảo “bè bè như cái quạt thóc”, thầy xem chân bảo “sừng sững như cái cột đình”, thầy sờ đuôi bảo “chun chun”. Rõ ràng những ý kiến như vậy là hoàn toàn sai lầm, chỉ nhìn vào bộ phận mà đánh giá một cái toàn thể. Những hình thức bề ngoài không thể đánh giá được những thứ bên trong, một bộ phận không thể nói lên được tất cả. Sự bảo thủ của những ông thầy bói như là một trò cười trong mắt người đọc, làm cho con người ta có một cách nhìn nhận đúng đắn hơn về những vấn đề xảy ra trong cuộc sống hằng ngày.
Thực tế cho thấy, những ông thầy bói chỉ sờ bằng tay thôi mà có thể đưa ra quyết định một cách nhanh chóng và đầy tự tin, ai cũng nghĩ là mình đúng, không ai nhường ai. Những con người này đã lấy những khuyết điểm trên cơ thể mình để áp đặt vào con voi, một con vật không có nhận thức, bản thân nó chỉ là một loài vật. Chắc hẳn, những ông thầy bói muốn khẳng định bản thân mình đối với những người còn lại chăng?
Không có một sự ràng buộc nào trong suy nghĩ của con người, học có quyền nghĩ rằng là mình đúng và muốn khẳng định ý kiến đó, nhưng những con người đấy không hiểu hết vấn đề, chỉ nông nổi đưa ra ý nghĩ chủ quan của bản thân mà thực tế trong câu chuyện là những ông thầy bói bị mù, chỉ cảm nhận thông qua bàn tay của mình rồi đưa ra kết luận một cách mù quáng, thiếu khoa học.
Qua câu chuyện trên, chúng ta có thể hiểu rõ hơn một phần nào những câu chuyện diễn ra trong cuộc sống hằng ngày, và có thể nhìn nhận một cách khách quan hơn, chính xác hơn. Đừng bao giờ đặt suy nghĩ chủ quan của mình vào người khác, không thể kết luận một sự việc nào đấy theo cảm nhận của mình. Hơn thế, chúng ta không được lấy cái bộ phận để đánh giá cái toàn thể khi nhìn nhận một vấn đề trong xã hội của chúng ta.
Đừng như những ông thầy bói trong câu chuyện để rồi phải gây ra ẩu đả, đánh nhau sứt đầu mẻ trán. Tác giả dân gian không những chỉ ra những khuyến khuyết trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta thường xuyên gặp phải mà còn là một bài học kinh nghiệm vô cùng quý giá.
Mẫu 7
Truyện ngụ ngôn “Thầy bói xem voi” không chỉ mang ý nghĩa giải trí mà con mang lại những bài học về cuộc sống vô cùng sâu sắc. Cụ thể là câu truyện đã khuyên răn con người ta khi nhìn nhận, đánh giá về một sự vật, hiện tượng, sự việc cần có cái nhìn đa chiều, toàn diện, không nên chỉ nhìn một chiều, phiến diện khiến cho những đánh giá chưa thực sự đúng đắn, trọn vẹn.
Câu chuyện kể về năm ông thầy bói bị mù chưa biết con voi trông như thế nào mà muốn đi xem voi. Chính vì bị mù nên các ông không thể xem voi bằng mắt mà phải xem bằng cách sờ tay cảm nhận và hình dung ra hình dáng của con voi. Con voi thì quá to mà các ông thì quá nhỏ nên dù có sờ tận tay nhưng các ông chỉ sờ được một bộ phận riêng lẻ của con voi. Mỗi ông sờ một bộ phận khác nhau rồi lại mỗi người đưa ra một lời phán khác nhau về con voi. Ông sờ vòi thì phán voi sun sun như con đỉa, ông sờ ngà voi lại bảo voi chần chẫn như cái đòn càn, ông lại bảo con voi bè bè như cái quạt thóc khi sờ tai voi, rồi ông lại bảo voi nó to như cái cột đình khi sờ chân voi, ông cuối cùng khẳng định con voi như cái chổi sể cùn khi sờ vào đuôi nó.
Chính những lời phán xét về con voi khác nhau giữa năm ông nên đã không thống nhất được về hình thù con voi, mỗi ông lại khăng khăng mình đúng, không ai chịu nghe ai nên đã dẫn tới xung đột, xô xát đến rơi máu. Có thể thấy tác giả dân gian đã tô đậm cho người đọc thấy rõ cách nhìn nhận sai lầm của năm ông thầy bói. Cả năm ông cùng xem voi nhưng đó chỉ là cách xem phiến diện, xem một bộ phận của voi nhưng đã phán về cả con voi, dẫn tới những lời phán xét khác nhau và đều không chính xác về con voi. Bởi đó chỉ là những bộ phận trên mình con voi chứ không phải cả con voi. Từ những lời phán xét sai mà giữa các ông nảy ra mâu thuẫn, xô xát, đó là điều không đáng có.
Chính vì vậy câu truyện đã cho chúng ta bài học nhân sinh về cách nhìn nhận con người hay các sự việc, sự vật và hiện tượng. Để có được cái nhìn đúng đắn và chính xác nhất chúng ta cần phải nhìn một cách toàn diện, đa chiều và tổng thể nhất, không chỉ quan tâm tới bề ngoài mà cần tìm hiểu rõ bản chất bên trong.
Những đánh giá phiến diện, một chiều hay chủ quan sẽ dẫn đến những cái nhìn sai lệch và thiếu đúng đắn với thực tế, bản chất của sự vật, hiện tượng, con người. Bên cạnh đó truyện còn nhắc nhở chúng ta về cách tiếp thu, lắng nghe ý kiến và tích lũy kiến thức. Chúng ta không nên bảo thủ, tự mãn với những gì mình đã có, đã biết mà khi đã biết về một sự vật nào đó ta cần phải lắng nghe ý kiến từ nhiều phía, nhiều chiều để đúc kết được cái nhìn bao quát nhất, đúng đắn và chính xác nhất.
Có thể thấy câu truyện không chỉ mang lại tiếng cười vui vẻ cho người đọc mà qua đó ta rút ra được những bài học bổ ích cho chính bản thân mình về các đánh giá, nhìn nhận mọi vật, mọi việc trong cuộc sống sao cho thật thấu đáo, tường tận.
Mẫu 8
Nghêu, Sò, Ốc, Hến là vở Tuồng Hài (còn gọi là Tuồng Đồ) thuộc vào hàng mẫu mực của nghệ thuật sân khấu Tuồng.
Nếu như người ta thường nói sân khấu Tuồng bây giờ không còn khán giả, SK Tuồng là nghệ thuật của chế độ Phong kiến đã lỗi thời, nên đưa SK Tuồng vào Bảo tàng, v.v…là nói về thể loại Tuồng Pho, còn gọi là Tuồng Thầy, Tuồng Cung đình : do các quan lại biên soạn, đề tài được “đặt hàng” là ca ngợi sự vững mạnh, trường tồn của chế độ Phong kiến cùng hệ tư tưởng của nó, nội dung là vua anh minh, quan lại, tướng sĩ trung thành, dũng cảm , liều chết trong những trận chiến chống ngoại xâm, khởi nghĩa (thường được coi là nổi loạn), và bọn gian thần phản nghịch… Các nhân vật trong Tuồng thường là những người một lòng trung quân (tận trung báo quốc), những gương anh hùng, liệt nữ, một vài tên gian thần, phản nghịch… chủ yếu diễn trong cung cho vua chúa và tầng lớp quan lại lớp trên xem, trong một “Nhà hát Tuồng” khá lớn ở trong khu vực Hoàng Cung. Còn thể loại Tuồng Hài như Nghêu, Sò, Ốc, Hến (số lượng không nhiều như Tuồng Pho) là do các nhà Nho sống trong dân gian sáng tác, lấy đề tài trong cuộc sống đời thường và để diễn cho dân chúng xem. Chính vì thế, vở Tuồng Nghêu, Sò, Ốc, Hến lúc nào cũng làm say lòng công chúng và sống mãi với thời gian… Nhân vật Hến có phần đặc biệt hơn cả. Tất cả những người lấy tên Hến của Làng Đào Kép đều là con nhà khá giả nhưng sau khi trải qua vài lần gia đình đổ vỡ, vài cuộc tình ngang trái, éo le thì đều bỏ nhà ra ở riêng và sống độc thân với nghề Cầm đồ. Thời nào cũng vậy, lúc thịnh cũng như lúc suy, nghề Cầm đồ tuy có lên bổng xuống trầm nhưng không bao giờ mất đi mà luôn tồn tại dai dẳng, thiên hình vạn trạng. Nhân vật Hến trong Truyện ngắn này còn có một điểm đặc biệt là một cô gái xinh đẹp, quyến rũ vào loại “Chuẩn”, tức không chê vào đâu được. Ngoài nhan sắc Trời cho, Hến còn được thừa hưởng của người mẹ năng khiếu diễn Tuồng, nhất là khi vào vai Đào Lẳng thì người xem bị cuốn hút tuyệt đối! Tuy Làng Đào Kép không còn hành nghề diễn Tuồng nhưng thỉnh thoảng Hến vẫn cùng với vài người tập hợp lại thành một Đoàn, diễn vài trích đoạn Tuồng nếu như đâu đó yêu cầu!...
Tiếng cười ở đoạn trích Mắc mưu Thị Hến còn có ý nghĩa với cuộc sống hôm nay bởi đây là vở tuồng hài dân gian, tiếng cười trong vở kịch đem lại ý nghĩa to lớn, giúp chúng ta thêm vui, giải trí và cũng đề lại cho chúng ta những bài học đáng suy ngẫm trong cuộc sống.
Mẫu 9
Chuyện chức phán sự đền Tản Viên là một trong những truyện xuất sắc nhất trong tập Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ. Sự thành công của tác phẩm không chỉ đến ở nội dung phong phú, hấp dẫn, giá trị nhiều mặt mà còn ở những yếu tố nghệ thuật đặc sắc.
Nét nghệ thuật đầu tiên của truyện chính là sự kết hợp hài hòa giữa yếu tố hiện thực và kì ảo. Để tạo ra tính chân thật cho tác phẩm tác giả đã giới thiệu nhân vật và sự việc cụ thể, ngay cả thời gian và địa điểm cũng đưa ra một cách chính xác: “Ngô Tử Văn tên là Soạn, người huyện Yên Dũng, đất Lạng Giang” “Năm giáp Ngọ, có người ở thành Đông Quan vốn quen biết với Tử Văn, một buổi sớm đi ra ngoài cửa tây vài dặm,….”. Những yếu tố hiện thực này sẽ khiến cho câu chuyện trở nên chân thực, tạo lòng tin nơi người đọc.
Nhưng để tăng sức hấp dẫn cho câu chuyện, tác giả đã có sự đan xen, kết hợp hết sức hài hòa với những yếu tố kì ảo. Theo bước chân của nhân vật chính Ngô Tử Văn người đọc được gặp hồn ma của tên Bách hộ họ Thôi để thấy được sự xảo trá của hắn, đe dọa hòng làm Ngô Tử Văn lung lay ý chí. Không chỉ vậy, người đọc còn được xuống cõi âm ti âm u, tăm tối, cây cầu dài hơn nghìn thước được bắc qua một con sông lớn mà “gió tanh sóng xám, hơi lạnh thấu xương”. Cả một thế giới ma quỷ mà ta thường chỉ biết đến qua tưởng tượng hiện ra trước mắt người đọc: “mấy vạn quỷ Dạ Xoa đều mắt xanh, tóc đỏ, hình dáng nanh ác”; cung điện của Diêm Vương thăm thẳm với những bóng quỷ, hồn ma. Thế giới huyền ảo được miêu tả hết sức chi tiết, sinh động, làm ai nấy đọc cũng không khỏi rùng mình, sợ hãi. Hai yếu tố hiện thực và kì ảo đan cài với nhau trong đó yếu tố kì ảo là nghệ thuật giúp cho câu chuyện thêm phần sinh động, hấp dẫn. Đồng thời cũng phản ánh đúng tinh thần chung của Nguyễn Dữ trong cuốn Truyền kì mạn lục là lấy cái “gì” để nói cái “thực”.
Kết cấu của truyện cũng là một nét đặc sắc không thể không nhắc đến. Truyện có kết cấu li kì, nhiều chi tiết vô cùng hấp dẫn. Kết cấu tác phẩm như một màn xung đột kịch, có mở đầu, có thắt nút, cao trào và có kết thúc. Lớp lang các phần gắn bó với nhau hết sức chặt chẽ, đỉnh điểm là sự kiện khi Diêm Vương phán xét tội lỗi của Tử Văn khi chỉ nghe câu chuyện từ một phía, nhưng ngay sau đó, tình thế căng thẳng đã được giải quyết, Tử Văn trình bày sự việc và được Diêm Vương cử người đi điều tra. Tên Bách hộ họ Thôi gian dối đã bị vạch trần bộ mặt gian xảo, độc ác và bị trừng trị thích đáng. Còn về phần Tử Văn cũng nhận được phần thưởng xứng đáng cho tính cách bộc trực, thẳng thắn ghét tà gian của mình. Kết thúc theo lối có hậu là kết thúc phố biến trong truyện truyền thống.
Tính cách các nhân vật cũng được chú trọng xây dựng, họ có tính cách vô cùng sinh động, mỗi nhân vật thường đại diện cho một kiểu người trong xã hội. Tử Văn mang trong mình những phẩm chất đẹp đẽ của một bậc quân tử: cương trực, thẳng thắn, không chấp nhận sự phi nghĩa hoành hành, dám làm dám chịu. Tính cách của Ngô Tử Văn tiêu biểu cho kiểu nhân vật chính nghĩa, hội tụ đầy đủ những vẻ đẹp của con người. Để làm nổi bật tính cách của nhân vật, Nguyễn Dữ đã lựa chọn tình huống hết sức tiêu biểu: Tử Văn đốt đền tên Bách hộ họ Thôi vì hắn nhũng nhiễu trong nhân gian, làm cuộc sống người dân cực khổ. Hành động này đối với những người khác là vô cùng liều lĩnh bởi vậy ai cũng lắc đầu sợ hãi, riêng Tử Văn “vẫn vung tay không cần gì cả” điều đó cho thấy thái độ dứt khoát và quả cảm của Ngô Tử Văn. Hành động của Tử Văn không phải là một sự liều lĩnh, bột phát mà đã có sự chuẩn bị từ trước, trước khi đốt đền Tử Văn đã “tắm gội sạch sẽ, khấn trời, rồi châm lửa đốt đền”, Tử Văn ý thức được hành động của mình là chính nghĩa nên chàng không hề sợ hãi. Khi gặp tên tướng giặc, bị hồn ma hắn thị uy, dọa nạt, Tử Văn “vẫn cứ ngồi ngất ngưởng, tự nhiên” không nao núng tinh thần. Đứng trước Diêm Vương, bị Diêm Vương quát mắng, Tử Văn vẫn vô cùng bản lĩnh, tự tin trình bày vấn đề “lời rất cứng cỏi, không chịu nhún nhường chút nào”. Toàn bộ ngôn ngữ, hành động thống nhất với nhau chặt chẽ để minh chứng cho nhận định ban đầu của Nguyễn Dữ khi giới thiệu về nhân vật: “Chàng vốn khẳng khái, nóng nảy, thấy sự tà gian thì không thể chịu được, vùng Bắc người ta vẫn khen là một người cương trực”.
Ngoài ra, để tạo sức hấp dẫn cho tác phẩm còn phải kể đến ngôn ngữ nhân vật. Mặc dù ngôn ngữ trong tác phẩm không được xây dựng quá nhiều nhưng nó cũng đã phần nào giúp khắc họa tính cách nhân vật. Ví dụ như nhân vật Ngô Tử Văn cương trực thẳng thắn thì ngôn ngữ sẽ: “Ngô Soạn này là một kẻ sĩ ngay thẳng ở trần gian, có tội lỗi gì xin bảo cho, không nên bắt phải chết một cách oan uổng”. Ngô Tử Văn nói ngay sau khi bị bọn quỷ Dạ Xoa đến bắt đi, không gian vô cùng lạnh lẽo, sợ hãi, nếu là người bình thường có lẽ đã không đủ can đảm để nói bất cứ điều gì. Riêng Tử Văn vẫn bình tĩnh kêu oan, lời nói đó cho thấy sự bình tĩnh và tinh thần quyết đấu tranh cho lẽ phải của Tử Văn.
Các yếu tố nghệ thuật trên đã được Nguyễn Dữ kết hợp một cách hài hòa, nhuần nhuyễn làm nổi bật giá trị nội dung của tác phẩm. Qua đây ta cũng có thể thấy được tài năng bậc thầy của Nguyễn Dữ trong nghệ thuật dựng truyện nói chung.
Mẫu 10
Truyện ngắn Nguyễn Dữ luôn mang đến những ý nghĩa sâu sắc cho cuộc sống của con người. Các tác phẩm của ông cho đến nay vẫn nguyên giá trị, truyện của Nguyên Dữ không chỉ có giá trị về mặt nội dung mà còn có giá trị về mặt nghệ thuật. Tiêu biểu trong tập truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ là tác phẩm Chuyện chức phán sự ở đền Tản Viên. Có thể nói tác phẩm này là một truyện đặc sắc.
Trước hết tác phẩm đặc sắc ở mặt nội dung, Chuyện chức phán sự ở đền Tản Viên đã xây dựng được những nhân vật đại diện cho những kiểu người có trong xã hội thực tế của con người.
Thứ nhất là nhân vật chính Ngô Tử Văn, chàng là một nho sĩ yêu cái thiện diệt cái ác. Chàng đại diện cho nhân loại, cho con người luôn khát khao đấu tranh bảo vệ cái thiện, cái chính nghĩa cái công lý, sự thật ở đời. Vốn là người không chịu được những điều sai trái cho nên khi thấy thần miếu hoành hành nhũng nhiễu nhân dân cho nên chàng quyết định đốt đền mặc dù biết điều đó có thể khiến chàng mất mạng. Kể cả khi có hiện tượng chàng có thể chết bất cứ lúc nào, đối diện với tên giặc phương Bắc và trước những lời đe dọa của hắn chàng vẫn quả quyết không xây lại đền.
Và cho đến khi hồn chàng xuống âm phủ, đối diện với hình phạt vì tội được cho là rất nặng, chàng cũng không hề nhún bước. Chàng tìm ra sự thật và giúp cho người có công với đất nước lấy lại được đền, tên giặc phương bắc bị đày xuống ngục cửu u còn mình thì thành một phán sự ở đền Tản Viên. Hành trình Tử Văn bảo vệ lẽ đúng là hành trình con người bảo vệ công lí, chính nghĩa. Không những thế Tử Văn còn đại diện cho kiểu người anh hùng, hi sinh vì lẽ lớn trong cuộc đời. Đời ai cũng phải chết cốt là để lại được tiếng về sau.
Thứ hai nhân vật họ Lôi và những tên quan ăn hối lộ đại diện cho những thế lực xấu và những tên quan tham trong xã hội. Chúng không những ăn cướp mà chúng còn la làng đã thế lại đồng lõa khiến cho thế lực của chúng quá to lớn. Chính vì thế mà người có công cho đất nước như ông lão nọ mà không thể nào đấu lại chúng được. Ông chỉ có một mình mà chúng thì lại quá đông, ông chỉ còn biết ngồi trông chờ thời cơ đến. Trong cuộc sống của chúng ta cũng vậy, cái ác thường rất lớn, để sống thiện sống đẹp thì khó còn để sống ác thì lại rất nhanh, nó bắt đầu bằng những thói xấu và nó trở thành kẻ chế ngự con người. Vì thế đấu tranh lại nó rất gian nan và đòi hỏi con người phải kiên trì, phải dũng cảm.
Truyện không chỉ đặc sắc về nội dung mà nó còn đặc sắc về mặt nghệ thuật. Yếu tố kì ảo là nét đặc sắc nghệ thuật trong thiên truyện này. Tử Văn vốn là người trần mắt thịt mà có thể chiến đấu lại với hồn ma của tên giặc kia hay chết đi hai ngày rồi mà vẫn còn có thể sống lại. Tác giả sử dụng nghệ thuật kì ảo để làm tăng thêm sự huyền ảo, truyền thuyết cho câu chuyện. Đồng thời thể hiện được vị trí của con người trong vũ trụ và đời sống tâm linh con người Việt xưa.
Như vậy có thể khẳng định rằng tác phẩm Chuyện chức phán sự ở đền Tản Viên là một tác phẩm không chỉ đặc sắc về nội dung mà còn đặc sắc về nghệ thuật. Nguyễn Dữ đã kế thừa nét nghệ thuật kì ảo của truyền thuyết dân gian để làm nên tác phẩm của mình. Nó góp phần làm tăng hiệu quả truyền đạt nội dung đến người đọc.
Lời giải
Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.
Lời giải
Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.
Lời giải
Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.
Lời giải
Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.
Lời giải
Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.