Câu hỏi:
01/09/2024 149Đọc hai đoạn trích nhật kí dưới đây:
6.5.1972 “Nhìn những ngọn núi xanh xa xa, cây cối sùi lên như mây trên đỉnh núi, mình hiểu rằng, đấy chính là chân Trường Sơn – Khi nào mình được đứng hẳn trên Trường Sơn nhỉ, đứng ở đó, nhìn ra bốn phía mênh mông, thấy những dải rừng cháy tan hoang vì bom napan và chất độc hoá học Mỹ – và được gặp những người chiến sĩ lăn lộn ngày đêm trên tuyến lửa. Mình đã ao ước từ lâu, được ngắt một chùm lá săng lẻ, được đi dưới rừng khộp và mắc võng trên những cây rừng đã mòn vết người đi trước. Mình hiểu rằng, những cái đó đều phải trả giá bằng mồ hôi và cả máu nữa – Phải trả một giá khá đắt. Nhưng có hề gì, không dám hi sinh làm gì có hạnh phúc, niềm vui?”. 25.5.72 “Có thể ngày mai, cuộc đời sẽ trả lời mình bằng luồng gió lạnh ngắt, nhưng có hề chi, khi mình đã cống hiến cho cuộc đời một tâm hồn chính trực và cao cả – Biết yêu và biết ghét – Biết lăn lộn trong cái bình dị của cuộc sống mà cảm hiểu hạnh phúc không có gì so sánh nổi. Biết sống cao thượng, vươn lên trên tất cả những gì tính toán cá nhân mòn mỏi và cằn cỗi. Phải, mình phải nhân mòn mỏi và cằn cỗi. Phải, mình phải sống như vậy, phải cống hiến cho cuộc đời một tâm hồn như thế – Đây là mơ ước, là nguyện vọng, quyết tâm và cũng là trách nhiệm mình phải làm. Phải làm. (Nguyễn Văn Thạc, Mãi mãi tuổi hai mươi, NXB Thanh niên, Hà Nội, 2005) |
1.1.1970 “Thêm một tuổi đời, vậy là cái tuổi ba mươi đâu còn xa nữa. Vài năm nữa thôi mình sẽ trở thành một chị cán bộ già dặn, đứng đắn. Nghĩ đến đó mình thoáng thấy buồn Tuổi xuân của mình đã qua đi trong lửa khói, chiến tranh đã cướp mất hạnh phúc trong tình yêu và tuổi trẻ. Ai lại không tha thiết với mùa xuân, ai lại không muốn cái sáng ngời trong đôi mắt và trên đôi môi căng mọng khi cuộc đời còn ở tuổi hai mươi? Nhưng... tuổi hai mươi của thời đại này đã phải dẹp lại những ước mơ hạnh phúc mà lẽ ra họ phải có... Ước mơ bây giờ là đánh thắng giặc Mỹ, là Độc lập, Tự do của đất nước. Từ ước mơ đó mới có được những gì gọi là của riêng mình. Mình cũng như những thanh niên khác đã lên đường ra tiền tuyến, và tuổi trẻ qua đi giữa tiếng bom rơi đạn nổ. Tuổi trẻ của mình đã thấm đượm mồ hôi, nước mắt, máu xương của những người đang sống và những người đã chết. Tuổi trẻ của mình đã cứng cáp trong thử thách gian lao của chiến trường, tuổi trẻ của mình cũng đã nóng rực vì ngọn lửa căm thù đang ngày đêm hun đốt. Và gì nữa, phải chăng mùa xuân của tuổi trẻ cũng vẫn thắm đượm thêm vì màu sắc của mỡ ước và yêu thương vẫn ánh lên trong những đôi mắt nhìn mình? Một đôi mắt đen thâm quầng vì thức đêm nhưng bao giờ đến với mình cũng là niềm vui và sôi nổi. Một đôi mắt long lanh dưới hàng mi dài cũng vậy, bao giờ cũng đến với mình tha thiết tin yêu. Và đôi mắt tinh ranh của một người bạn gái nhìn mình như hiểu hết, như trao hết niềm tin. Th. ơi! Đó phải chăng là hạnh phúc mà chỉ Th. mới được hưởng mà thôi? Hãy vui đi, hãy giữ trọn trong lòng niềm mơ ước và để màu xanh của tuổi trẻ ngời rạng mãi trong đôi mắt và nụ cười nghe Thuỳ!” (Đặng Thuỳ Trâm, Nhật kí Đặng Thuỳ Trâm, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội, 2009) |
Lập dàn ý cho đề văn:
Hãy so sánh tâm trạng, ước mơ và lẽ sống của hai tác giả qua hai đoạn trích “Nhật kí Đặng Thuỳ Trâm” (Đặng Thuỳ Trâm) và “Mãi mãi tuổi hai mươi” (Nguyễn Văn Thạc).
Sách mới 2k7: Tổng ôn Toán, Lí, Hóa, Văn, Sử, Địa…. kỳ thi tốt nghiệp THPT Quốc gia 2025, đánh giá năng lực (chỉ từ 110k).
Quảng cáo
Trả lời:
Mở bài: Giới thiệu tác giả, tác phẩm; vấn đề cần so sánh, đánh giá.
(1) Đoạn văn của người biên soạn sách.
Thân bài:
* Tâm trạng và ước mơ của hai tác giả
− Tâm trạng và ước mơ của Đặng Thuỳ Trâm:
+ Tích cực, nhiệt huyết với lí tưởng chiến đấu cho độc lập, tự do.
+ Chấp nhận hi sinh để bảo vệ đất nước, đánh thắng giặc Mỹ, giành độc lập, tự do.
– Tâm trạng và ước mơ của Nguyễn Văn Thạc:
+ Hướng tới cuộc sống có ý nghĩa, tràn đầy lòng trung hiếu và trách nhiệm.
+ Cống hiến cho cuộc sống một tâm hồn cao cả, biết yêu và ghét, sống vượt lên
trên tính toán cá nhân.
* Lẽ sống và trách nhiệm của hai tác giả
- Lẽ sống và trách nhiệm của Đặng Thuỳ Trâm:
+ Cống hiến cho cách mạng, kháng chiến, hi sinh vì quê hương và nhân dân.
+ Ôm trọn trách nhiệm của một chiến sĩ trên tuyến lửa.
– Lẽ sống và trách nhiệm của Nguyễn Văn Thạc:
+ Sống cao thượng, vượt lên trên tính toán cá nhân, cảm nhận hạnh phúc trong cuộc sống bình dị.
+ Cống hiến cho cuộc đời một tâm hồn chính trực và cao cả.
* Sự tương đồng và khác biệt
– Sự tương đồng:
+ Tâm hồn cao cả và ước mơ lớn về một cuộc sống ý nghĩa.
+ Nhìn nhận giá trị của cuộc sống và đồng lòng với lí tưởng chiến đấu cho tự do và công bằng.
– Sự khác biệt:
+ Đặng Thuỳ Trâm hướng tới sự hi sinh và cống hiến trong chiến đấu.
+ Nguyễn Văn Thạc chú trọng vào sự cao thượng trong cuộc sống bình dị và trách nhiệm với lẽ sống chân chính.
Kết bài:
– Tóm tắt những điểm chính đã trình bày trong bài viết.
– Nhấn mạnh sự đa dạng và độc lập của tâm trạng, ước mơ, lẽ sống của hai tác giả.
CÂU HỎI HOT CÙNG CHỦ ĐỀ
Câu 1:
Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới:
“22.11.1971
[...] Những ngọn nến nhấp nháy trên sườn đồi là lô cốt địch. Còn những bảng đen ngòm kia là thằng Mỹ – Hãy cho chúng no đòn. Đồng đã đi qua mùa gặt. Hương lúa chia đều khắp các nhà và trăng lên sớm cho sân kho nhộn nhịp. Rơm còn phơi đầy trên ruộng, rơm gác lên đống rạ, mềm đi vì sương sớm... Dạo mới đến đây, rừng thả hạt dẻ lăn lách tách trên đồi. Còn bây giờ, lại mùa hoa dẻ. Hoa dẻ rừng trắng pha vàng như hoa nhãn, như hoa hồng bì... Cả rừng như mở ra cho vô vàn mùi hương lạ lùng thì thào cùng anh bộ đội.
Đàn dê đi lẫn trong vạt cây thấp, cây mua lá xanh mềm như nhung , cây khế rừng lá tím,… Tiếng chuông thơ ngây trên cổ lũ dê rung lên bỡ ngỡ, tưởng chừng như giọt nhựa ứ ra và cuộn thành giọt, rơi từ tốn. Đó là những ống đếm thời gian của rừng già…..
Đêm rủ bức màn lốm đốm sáng, đồi chìm vào chân mây, đất và trời bị xoá nhoà ranh giới... Còn anh bộ đội thì hồi hộp đợi chờ. Lần bắn thứ hai trong đời lính.
Anh hãy nghĩ: Kia đúng là thằng Mỹ, là kẻ thù và ghìm súng vào ngực nó. Đừng lo bắn vào quả tim người, chúng nó chẳng có tim đâu!
Anh hãy nghĩ: Cuộc sống yên lành và ngân nga như lời thơ kia bị cào xé bởi ánh lửa ghê tởm trước mắt anh.
Hãy đứng trong chiến hào của đời mà bắn!
Sương dày nên đạn chưa căng. Tiếng nổ không chát chúa mà âm âm. Đèn vỡ tung, đạn xuyên qua phao dầu, đạn phá rách toang bia. Phải như thế, mới hả căm thù!
Thủ trưởng bảo: Ta bắn giỏi không phải như anh chàng trong “Hoa diếp dại”. Đạo đức cách mạng của người Việt Nam khác thế.
Tự hào lắm, khi được lang thang trên mảnh đất Mẹ hiền này và bảo vệ nó. Còn ai hạnh phúc hơn ta nữa. Trang sách của cuộc đời chưa mở cho ta, nhưng mới ghé mắt nhìn, ta đã ngây ngất cả người...
23.11.1971
Sắp từ biệt đây rồi... Một ngày lặng gió, nhưng lá bạch đàn vẫn líu ríu ở đầu cây. Ôi, Tân Yên, vùng đồi trung du của dân ca quan họ, của tấm lòng cởi mở chân tình...
Tới đây từ 1.10, thế mà đã gần hai tháng. Hai tháng đi qua cái cửa tre quen thuộc, cái thanh tre chống khung cửa dưới dốc, cái hàng rào dứa khi mình đến, còn lưu lại vài quả chín vàng, thơm lựng...
Ta muốn thăm lại thị trấn Nhã Nam, quả bàng chín rụng, thăm hòm thư của bưu điện giấu một niềm tâm sự, một lời thủ thỉ... Ta muốn lại ngôi trong quán nước, gặp bà hàng nhai trầu bỏm bẻm, muốn đi qua sân bóng, muốn vào thăm mái lều san sát của bãi chợ ồn ào...
Ta muốn vào thăm nhà bên kia đồi, có cái xe bò và có anh chàng canh đối dẻ, thăm cụ già mù bật ngón trên cái kèn đưa người ra ruộng... Muốn đi trên cái dốc “hết ý” của ngày gánh lúa giúp dân...
Ta muốn mãi ngồi trên “đồi Mặt Trời” để sớm sương tan, Mặt Trời tròn đỏ ôm lấy ta mà bay lên... Muốn mãi ngồi trong bếp của bà, nghe bà kể chuyện. Cháu đun nước cho bà, bà khen cháu ngoan đi...
Nhớ lắm, nơi này, những con người ở đây... Ta cúi chào tất cả. Từ biệt Tân Yên, núi đồi và bạch đàn...
Đất này, tuyệt đẹp. Núi sông này vây bọc lấy đồng bằng đâu phải tôi bom cho quán thù trút lửa! Và con đò mộc đi trong lời thơ đâu phải mục tiêu cho kẻ thù bắn phá.
Hãy khoan đến ngửa tay cầu trời ban cho một bông tuyết trắng. Đêm buông yên lặng cho đôi chim tình tự, cho cây cỏ bình yên trỗi dậy và cho cả anh bộ đội chuẩn bị lên đường.
Cháu Oanh và cháu Quế đã ngủ rồi. Bà và chị Nhàn cũng ngủ... Ôi ta xa rời ngôi nhà ấm cúng còn phảng phất khói hương này. Mười năm sau sẽ có biết bao thay đổi. Ta có được trở về thăm lại gốc chè xanh của bà, thăm luỹ tre vừa gieo mầm trong tháng... Lúc đó, sẽ khác nhiều và cuộc đời chắc đẹp, chắc thơ gấp bội.
Tháng hai, bà trở lại Thái Bình. Cháu lại đi với mối thù thằng Tây mũi lõ, thằng Tây quấn thừng đã làm một đời bà khổ. Khi thắng lợi trở về chắc bà không còn nữa. Song, đời bà đã mấy mươi lần tiễn các con đi... Chị Nhàn vất vả mà vui, ấy, người phụ nữ đảm đang có chồng là liệt sĩ. Khuya thế này chị còn đi đâu, ánh đèn bão lung linh sau hàng râm bụt... Ừ, như thế, những tâm hồn cao thượng đang nằm nghỉ, ngày mai, họ lại viết tiếp lịch sử của loài người.
Ta bỗng nhớ xa xôi đến đỉnh màn thân yêu, mùa hè thì nóng, mùa đông thì lạnh. Nhớ vườn mía mùa này ngọn gió cũng mang vị ngọt...
Ta nhớ bạn, nhớ Lăng, Hậu, Hải, nhớ từ thẳng Kiểm đến dáng người xa lạ ta gặp ở bến xe... Đêm nay có phải là đêm chuẩn bị hành quân vào trong ấy, mà kỉ niệm thức dậy. Ngồi trầm tư trước ngọn đèn...
Mai, Minh đi tiền trạm. Tế vẫn đau bụng rồi hành quân ra sao. Củi không hiểu đã đủ chưa, sáng mai đi lấy gạo. Cải nhổ được rồi đấy, cân cho nhà bếp là vừa... Linh kinh lắm, nhưng gọn biết bao, chỉ day dứt là cái lòng anh Đất này, Tân Yên...
Em đừng khóc, các anh đi rồi lại trở về mà. Lau nước mắt đi em. Ta là người Việt Nam, sống trên đất nước Việt Nam...
“Đất nước của những người con gái con trai
Đẹp như hoa hồng, cứng hơn sắt thép
Lúc chia tay không hề rơi nước mắt
Nước mắt chỉ dành cho ngày gặp mặt... ”
(Nguyễn Văn Thạc, Mãi mãi tuổi hai mươi, NXB Thanh niên, 2005)
a) Chỉ ra đặc điểm cơ bản của thể loại nhật kí được thể hiện ở văn bản trên.
b) Chỉ ra điểm giống nhau và khác nhau giữa cái “tôi” tác giả trong văn bản trên với cái “tôi” tác giả trong đoạn trích Nhật kí Đặng Thuỳ Trâm (SGK Ngữ văn 12 tập một).
Câu 2:
Tìm ý và lập dàn ý cho đề văn:
Trong cuốn nhật kí về những ngày đi trốn cùng gia đình ở Hà Lan trong thời kì Đức quốc xã chiếm đóng, An-nơ Phranh (Anne Frank) đã viết: “Mình làm sao có Trong cuốn nhật kí về những ngày đi trốn cùng gia đình ở Hà Lan trong thời k thể buồn rầu khi có Mặt Trời và bầu trời? — tôi tự hỏi. Chúa muốn chúng ta hạnh mọi nỗi lo âu.”. Trong cuốn nhật kí về những ngày chông chọi với căn bệnh nan phúc và ngắm nhìn cái đẹp của thế giới này. Điều đó giúp cho chúng tôi vượt qua y, Ki-tô A-ya viết: “Mình giờ đã thành một đứa chẳng thể làm gì ngoài khóc lóc. Có một phức cảm thấp kém đang lớn lên trong đầu mình. Có lẽ đó là kết quả của sự tàn tật. Nhưng ít ra mình vẫn đang sống. Mình phải hít thở và tiếp tục sống, bởi mình không thể chết, chẳng có cách nào khác. Thật đáng sợ. Nếu cứ khóc thì những nếp nhăn trên mặt và trên mắt sẽ khiến khuôn mặt mình xấu xí. Để cải thiện cái sự xấu xí đó, mỗi khi nhìn vào gương mình lại nhe răng cười toe toét, dẫu lúc đó chẳng có chuyện gì vui mình cũng cười.
Hãy sống!”.
Hãy so sánh, đánh giá cách nhìn cuộc sống và tinh thần đối mặt với tình thế khó khăn của hai thiếu nữ An-nơ Phranh và Ki-tô A-ya.
Câu 3:
I. Bài tập đọc hiểu
NHẬT KÍ ĐẶNG THUỲ TRÂM
(Trích)
(ĐẶNG THUỲ TRÂM)
Dòng nào dưới đây nêu sát nhất chủ đề của văn bản?
A. Công việc của thế hệ trẻ thời chiến tranh
B. Cuộc sống của thế hệ trẻ thời chiến tranh
C. Lòng yêu nước của thế hệ trẻ thời chiến tranh
D. Mong ước của thế hệ trẻ thời chiến tranh
Câu 4:
(Câu hỏi 3, SGK) Tính xác thực của thể hồi kí được thể hiện qua những yếu tố nào của văn bản Quyết định khó khăn nhất?
Câu 5:
(Câu hỏi 3, SGK) Tính phi hư cấu của đoạn trích Nhật kí Đặng Thuỳ Trâm được thể hiện ở những yếu tố nào? Điều đó có tác dụng gì đối với nội dung của văn bản?
Câu 6:
Hãy khái quát đặc điểm cơ bản của thể loại phóng sự được thể hiện qua văn bản trên.
Câu 7:
(Bài tập 3, SGK) Các đoạn văn dưới đây đã sử dụng ngôn ngữ trang trọng và ngôn ngữ thân mật phù hợp chưa? Vì sao?
a) Con hổ dùng những cái vuốt nhọn hoắt cấu vào người, vào mặt Viên... Nhưng Viên vẫn ráng sức quần nhau với chú hổ.
(Dẫn theo Nguyễn Đức Dân)
b) Lời nhận xét ấy có đúng không? Đúng quá đi chứ! Nào, bạn hãy cùng tôi đi phân tích tác phẩm để hiểu rõ vấn đề.
(Dẫn theo Nguyễn Minh Thuyết, Nguyễn Văn Hiệp)
c) Trước lúc đi ngủ, San tâm sự với tôi:
Cháu bị số phận hắt hủi. Giờ thì cả cha và mẹ đều không còn. Cuộc sống của cháu không còn ý nghĩa gì nữa.
Tôi chưa biết an ủi thế nào, cậu ta tiếp:
Có lẽ cháu sẽ đi đâu đó. Ở mảnh đất nhốn nháo này, cháu chẳng còn gì duyên nợ.
– Nhưng cháu còn người bà – Cuối cùng, tôi cất lời khuyên – Người bà ngoại khổ đau và bất hạnh.
(Dẫn theo Nguyễn Minh Thuyết, Nguyễn Văn Hiệp)
về câu hỏi!