Giải SBT Ngữ văn 12 CD Bài 1: Truyện truyền kì và truyện ngắn hiện đại có đáp án

38 lượt thi 67 câu hỏi

Đề thi liên quan:

Danh sách câu hỏi:

Câu 6:

Câu 6 trang 9 SBT Ngữ Văn lớp 12 Tập 1. Đọc văn bản sau và trả lời các câu hỏi bên dưới:

Nhiếp Chính

Lộ vương ở Hoài Khánh (tỉnh Hà Nam) có đức tối, cứ dạo chơi ra dân gian thấy con gái đẹp là bắt về. Có vợ Vương sinh bị Lộ vương nhìn thấy, sai người đi xe ngựa vào tới tận nhà bắt đi. Cô gái khóc lóc kêu gào, bị bắt lên kiệu khiêng ra. Vương bỏ chạy, núp sau mộ Nhiếp Chính chờ vợ đi qua để vĩnh biệt. Không bao lâu vợ tới, nhìn thấy chồng khóc lớn gieo mình xuống đất. Vương trong lòng đau đớn bất giác khóc thất thanh, bọn gia nhân của Lộ vương biết là Vương sinh bèn túm lấy đánh đập túi bụi. Chợt trong mộ có người đàn ông bước ra, tay cầm đao sắc, khí thế rất oai mãnh, lớn tiếng quát: “Ta là Nhiếp Chính đây, sao các ngươi dám bắt ép con gái nhà lương dân. Nghĩ bọn ngươi chỉ là kẻ thừa lệnh nên tạm tha cho lần này, về nhắn với ông chủ vô đạo của các ngươi rằng nếu không sửa nết xấu thì có ngày ta sẽ lấy đầu đấy.”. Đám gia nhân nhà Lộ vương hoảng sợ bỏ xe kiệu chạy, người đàn ông lại bước thẳng vào mộ biến mất. Vợ chồng Vương sinh tới lạy trước mộ rồi về, vẫn còn sợ là Lộ vương lại tới nhưng hơn mười ngày cũng không thấy gì mới yên lòng. Từ đó, Lộ vương cũng bớt dâm đãng, hống hách.

(Bồ Tùng Linh, Liêu trai chí dị, Cao Tự Thanh dịch,

NXB Văn hoá Sài Gòn, Thành phố Hồ Chí Minh)

a) Vợ chồng Vương sinh khiến em nhớ đến nhân vật nào trong Chuyện chức phán sự đền Tản Viên? Vì sao?

b) Tìm và chỉ ra ý nghĩa của yếu tố kì ảo trong truyện.


Câu 12:

Câu 6 trang 10 SBT Ngữ Văn lớp 12 Tập 1. Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới:

Thùng rác

Lược đoạn mở đầu: Vào một ngày, đột nhiên nhân vật xưng “tôi” thấy tất cả mọi người quanh mình đều dửng dưng khi tiếp xúc với anh ta như một người xa lạ, không hề quen biết.

Rõ ràng tôi không bị sa thải khỏi công ty, không dính phốt nọ phốt kia; mọi thứ vẫn rất ok; thế thì tại sao tự nhiên vào một ngày đẹp trời thế này, tất cả đồng loạt khước từ tôi?

Bế tắc trong suy nghĩ khiến tôi muốn ốm. Tôi bỏ về nhà.

Nhà cửa tanh bành. Vợ con dắt nhau về nhà ngoại từ đầu tuần, tôi đi tối ngày, cũng chẳng buồn dọn.

Tôi vào nhà tắm, xối nước vào người cho đỡ ngột ngạt. Nhưng tại sao lại thế này? Tôi hoảng hốt nhìn vào Thằng Người trong gương. Tại sao lại có nó ở đây? Một khuôn mặt bèn bẹt, vô cảm. Hai con mắt lờn lợt của nó trương lên nhìn tôi. Vốn không phải người yếu bóng vía, sợ run lên khi nghe mấy chuyện ma quỷ, tôi chỉ lấy làm lạ về sự xuất hiện của Thằng Người kia. Tôi giơ tay sờ vào mặt nó. Nó cũng giơ tay sờ vào mặt tôi. Tôi hỏi:

– Mày ở đâu ra vậy?

Nó cũng mấp máy mồm hỏi tôi ngần ấy từ.

– Mẹ kiếp! Tao là chủ cái nhà này!

Nó nhếch mép cười khinh thị, nhại lại:

– Tao là chủ cái nhà này!

Tôi và Thằng Người kia vờn nhau một hồi thì tôi sực tỉnh: Chẳng có ai ngoài tôi trong cái nhà tắm ngổn ngang những chai lọ và một thùng rác đầy có ngọn, lổn nhổn giấy rác, đầu mẩu thuốc lá. Thằng Người – Tôi mọc lên từ đám ấy, giống một cái giẻ chùi đã quá date.

Nhưng tại sao lại có thể như thế được? Ngày nào tôi cũng soi gương, cạo râu, xức nước hoa trước khi đi làm. Tôi phong độ và bảnh bao; không phải một khuôn mặt vô cảm, thiếu sinh khí đến thế này. Nhất định tấm gương trong nhà tắm có vấn đề. Tôi hối hả chạy ra ngoài phòng khách. Thằng Người – Tôi đứng chễm trệ trong gương. Hai má chảy nhão, xanh bủng. Đôi mắt lờ nhờ, bé như hai hạt đỗ. Mũi tẹt dúm xuống hốc mồm thâm sì. Tôi nhìn hình ảnh của chính mình mà chỉ chực nôn oẹ. Trời ơi, sao đấy có thể là tôi được?

Không tin vào những chiếc gương trong nhà, tôi chạy ra sảnh, đi vào cầu thang máy, với hi vọng “kiểm định” lại một thực tế tươi sáng khác. [...]

Bốn mặt thang máy sáng bóng cùng lúc xuất hiện bốn Thằng Người – Tôi Bốn cặp mắt hạt đỗ, bốn cặp má chảy xệ, bốn quả mũi dúm dó hăm hở tiến đến, siết chặt tôi vào giữa vòng vây. Tôi không còn một chỗ nào để bám víu.

Cửa thang may kịp mở đúng lúc tôi tưởng mình sắp chết đến nơi. Thằng cha hàng xóm đứng chặn lù lù ngay cửa ra vào. Tôi nhệu nhạo cười, ra điều biết ơn. Chẳng nói chẳng rằng, thằng cha nhổ nước bọt phì phì xuống đất, quay ra đi thang bộ.

Không còn đủ can đảm ở lại thang máy, tôi cũng nối gót theo gã hàng xóm, lê từng bước nặng nề.

Đầu tôi bị xâu xé bởi muôn ngàn câu hỏi. Tại sao? [..]

Tôi là ai? Tôi không biết nữa. Một kí ức xa xăm gợi về. Tôi là P. sống ở khu tập thể công nhân nhà máy sợi, chỗ Gốc Mít. Nhưng lạ kì thay, những phần đời sau này tôi không thể đọc được tên nó lên. Tôi đi học dựa vào đứa bạn ngồi bên cho chép bài. Lớn lên đi làm dựa vào ông chủ nhà vợ. Tiền tiêu xài, tôi dựa vào vợ.

Tôi là ai? Tôi không biết.

Thằng Người – Tôi chán chường ngồi xuống cạnh tôi. Nó đắn đo không biết có nên đi theo tôi nữa không. Đoạn nó trườn vào thùng rác và mất hút ở trong ấy.

(Phong Điệp, Kẻ dự phần (tập truyện ngắn), NXB Văn học, Hà Nội, 2008)

a) Truyện có yếu tố kì ảo không? Vì sao?

b) Nhân vật Thằng Người – Tôi hiện lên qua những “tấm gương” nào? Có gì đặc biệt ở nhân vật này?

c) Đoạn văn in nghiêng giúp em hiểu gì về sự xuất hiện của nhân vật Thằng Người – Tôi trong truyện?

d) Theo em, vì sao tác giả lại đặt tên cho tác phẩm này là Thùng rác.


Câu 20:

Câu 2 trang 13 SBT Ngữ Văn lớp 12 Tập 1. (Bài tập 3, SGK) Nhận diện, phân tích đặc điểm của ngôn ngữ trang trọng và ngôn ngữ thân mật trong các đoạn văn sau:

a) Học sinh, sinh viên, tri thức trẻ phải biết cách học để trở thành những công nhân, chuyên viên giỏi, những kĩ sư, bác sĩ, cán bộ giảng dạy xuất sắc, cung cấp cho Nhà nước những cán bộ lãnh đạo, quản lí liêm khiết có trình độ cao, có tầm nhìn xa. Bản thân học sinh và sinh viên phải tự mình khắc phục những suy nghĩ lệch lạc, những tiêu cực của mình cũng như những tệ nạn xã hội đang diễn ra trên đất nước làm cho mọi người, kể cả thanh niên hết sức bất bình, căm giận. Thái độ đúng đắn của mỗi thanh niên là phải biết đấu tranh và vượt qua những yếu kém và tiêu cực đó bằng những hành động tích cực và bản lĩnh của người chủ xứng đáng của đất nước. Đó là trách nhiệm và sứ mạng của giới trẻ.

(Nguyễn Thị Bình)

b) Con gái yêu quý! Vậy là con gái của mẹ đã lớn thật rồi, cuối cùng cũng đến ngày con phải rời xa vòng tay mẹ để đi học xa nhà. Mẹ vẫn lo lắng y như ngày đầu tiên con đi nhà trẻ, con khóc mà lòng mẹ xót xa. Mẹ biết con không còn mãi bé, cô gái của mẹ đã lớn và đến lúc con phải bay bằng chính đôi cánh của mình, trên bầu trời của con. Con hãy nhớ, cuộc sống không thể tránh khỏi những chông gai, nếu con coi đó là một trò chơi có mạo hiểm, con sẽ thấy nó thú vị, còn nếu con nhìn nó bằng con mắt của sự mắt của sự bi quan, sợ hãi, nó sẽ là con quái vật muốt chửng con lúc nào không hay. Chỉ khi con xông pha, trải nghiệm, con mới nhận được những điều giả trị con mong muốn. Con cũng hãy thoải mái tham gia các hoạt động cùng các bạn, làm tình nguyện, đi đến những nơi mà con muốn đến nhé!

(Nguyễn Thu Hà)


Câu 27:

Bài 2. HÀI KỊCH

I. Bài tập đọc hiểu

QUAN THANH TRA

(Trích)

(GÔ-GÔN)

Câu 1 trang 15 SBT Ngữ Văn lớp 12 Tập 1. Nối thông tin ở cột A phù hợp với nội dung ở cột B để tìm hiểu về thể loại hài kịch.

A

 

B

(1) Hài kịch

 

a) là toàn bộ hoạt động của nhân vật (lời thoại, cử chỉ, điệu bộ, hành vi,...) tập trung bộc lộ thói tật, tính cách đáng cười của nhân vật hài kịch.

(2) Tình huống trong hài kịch

 

b) gồm lời thoại (đối thoại, độc thoại, bàng thoại) và chỉ dẫn sân khấu; gần với đời sống; bao gồm nhiều biện pháp như chơi chữ, nói lái, nói quá, nói lắp, nhại, tương phản,...; đối thoại thường được tổ chức theo cấu trúc tấn công - phản đòn, thăm dò – lảng tránh, cầu xin – từ chối, vu vạ – biện minh,...

(3) Xung đột trong hài kịch

 

c) một thể loại kịch, sử dụng tiếng cười để chế giễu, phê phán, châm biếm, đả kích thói hư tật xấu, cái nhố nhăng, lố bịch, kệch cỡm, lỗi thời, trong đời sống.

(4) Nhân vật trong hài kịch

 

d) thường có sự không tương xứng giữa thực chất bên trong và hành động bên ngoài, giữa suy nghĩ và hành động, lời nói và việc làm, phẩm chất, năng lực và vị trí xã hội,... hoặc có thói quen, tính cách, ứng xử,... trái với lẽ thường; vì vậy thường trở nên lố bịch, hài hước, đáng cười.

(5) Hành động trong hài kịch

 

e) tình thế, hoàn cảnh đặc biệt được phát hiện trong cuộc sống đời thường khiến cho mâu thuẫn, xung đột và thói hư tật xấu, tính cách đáng cười của nhân vật chuyển từ trạng thái tĩnh, tiềm ẩn sang trạng thái được bộc lộ.

(6) Ngôn ngữ trong hài kịch

 

g) gồm tạo tình huống hài hước, trớ trêu, giàu kịch tính, phóng đại (cường điệu, nói quá), cách diễn đạt phi lô gích, không hợp tình thế, điệu bộ gây cười, giễu nhại, vật hoá, tương phản, bỏ lửng lời thoại, “ông nói gà, bà nói vịt”,...

(7) Thủ pháp trào phúng trong hài kịch

 

h) “một thể loại kịch dựa vào xung đột bi đát của các nhân vật anh hùng, có kết thúc bi thảm và tác phẩm đầy chất thống thiết” (Lại Nguyên Ân)

 

 

i) thường là mâu thuẫn giữa cái xấu (cái thấp hèn) với cái tốt (cái đẹp, cái cao cả), cũng có khi là mâu thuẫn giữa cái xấu với cái xấu.


Câu 33:

Câu 7 trang 18 SBT Ngữ Văn lớp 12 Tập 1. Hoàn thành thông tin trong bảng dưới đây để chỉ ra mỗi lời thoại là của nhân vật nào và thể hiện thói tật, tính cách đáng cười gì của nhân vật.

Lời thoại

Nhân vật

Thói tật, tính cách đáng cười của nhân vật được thể hiện qua lời thoại

Mẫu:“Có người mang đến Nhà Bưu vụ cho tôi. Tôi nhìn vào bì thư, xem gửi cho ai, thấy đề: Phố Nhà Bưu vụ. Tôi tái mặt, nghĩ thầm: Hừ, chắc hắn biết chuyện gì không tốt về

Nhà Bưu vụ, nên báo cho quan trên. Tôi liền bóc ra xem”.

Mẫu: Chủ sự bưu vụ

Mẫu:

– Xâm phạm bí mật thư tín.

– Có tật giật mình, luôn lo lắng, sợ hãi bị cáo giác lên quan trên.

(1) “Sao ông lại dám nói biết thế quỷ nào Ngài là ai? Tôi hạ lệnh bắt ông.”; “Ông phải biết Ngài cưới con gái tôi, tôi sẽ thành quan to có uy quyền, tôi sẽ đày ông đi Xi-bia, rõ không?”

 

 

(2) “Trong khi đi đường, mình đánh bạc với một thằng cha quan ba, bị nhẵn túi không còn gì để trả tiền ăn trọ; mình đang bị chủ quán doạ bỏ tù [...] Cậu có nhớ hai thằng chúng mình bị túng quẫn như thế nào không, có nhớ chúng mình đi ăn lừa thế nào không, và một lần thằng cha chủ hiệu bánh nó đã tóm cổ áo mình vì mình ăn bánh ngọt quỵt tiền không?”.

 

 

(3) “Ba mươi năm trời, tôi làm việc quan, không có một thằng nhà buôn, một thằng thầu khoán nào có thể bịp được tôi, tôi đã lừa được những thằng đểu giả thạo nghề lừa lọc, những thằng cáo già tinh ma quỷ quái nhất; tôi đã bịp được cả ba thằng tổng đốc! Tổng đốc ấy....

 

 

(4) “Tất cả bọn văn sĩ văn siếc ấy, hừ, đồ sâu tằm, đồ ưa tự do khốn kiếp, cái giống quỷ quái, ông thì trói tròn tất cả chúng nó lại, ông thì nghiền nát tất cả chúng ra như cám, giẫm bẹp chúng nó, quẳng xác cho quỷ nó tha đi!”

 

 

 


Câu 37:

Câu 2 trang 20 SBT Ngữ Văn lớp 12 Tập 1. Phương án nào dưới đây nêu đúng nhất về tình huống kịch trong đoạn trích?

Xem đáp án

Câu 39:

Câu 4 trang 20 SBT Ngữ Văn lớp 12 Tập 1. Phương án nào nêu đúng xung đột trong đoạn trích?

Xem đáp án

Câu 41:

Câu 6 trang 21 SBT Ngữ Văn lớp 12 Tập 1. Thủ pháp trào phúng nào được sử dụng trong văn bản?

Xem đáp án

Câu 44:

Câu 9 trang 21 SBT Ngữ Văn lớp 12 Tập 1. Đọc văn bản sau và trả lời các câu hỏi ở bên dưới.

Ông Tây An Nam

(Trích)

* Giới thiệu về vở kịch “Ông Tây An Nam”: Gia đình Cưu Ông, Cựu Bà cho con trai là Lân sang Pháp du học đỗ bằng cử nhân. Nhưng Lân khinh bỉ giống nòi, quyết nhập làng Tây. Khi về nước, tàu vừa cập bến, y không nhận mẹ, còn vu cho bà là kẻ cắp để cảnh sát bắt vào bóp vì bà là “người bản xứ” đã dám nhận y là con. Y không về nhà ở mà thuê khách sạn vì ghê sợ sinh hoạt của người An Nam. Về thăm nhà, Cử Lân mang theo phiên dịch, y chỉ nói tiếng Pháp, sỉ mắng mọi người, kể cả bố mẹ của mình. Y oán cha mẹ vì đã sinh ra y là người bản xứ. Y chê cơm cha mẹ vì có “mùi An Nam”. Đồ ăn của y mọi thứ đều được đóng hộp mang từ Pháp sang, kể cả nước uống. Chỉ có không khí là y phải thở trên đất An Nam. Y tuyên bố: “Tổ quốc tôi là Đại Pháp, tôi người Đại Pháp”. Nhưng đến khi gặp Kim Ninh, con gái cụ Huấn, y đã đem lòng mê mẩn. Kim Ninh nhất định không chịu nói tiếng Pháp. Cử Lân buộc phải nói tiếng Việt, dọn về nhà ở, lấy lòng cha mẹ và cụ Huấn để cưới được Kim Ninh. Nhưng Kim Ninh đã có người yêu, lại khinh thường thói vong bản của Cử Lân nên từ chối thẳng thừng trước mặt mọi người. Bị bẽ mặt, Cử Lân tức giận, tự thấy mình điên rồ vì đã chốc lát tự ý trở lại làm “giống An Nam”. Hắn quát quân hầu : “Theo tao sang Pháp mà làm người Âu châu”.

Vở kịch gồm ba hồi, được hoàn thành vào năm 1930, in lần đầu năm 1931.

Sen IX

CỬ LÂN, KIM NINH (hai người cùng ngồi).

CỬ LÂN: (Ta đặc) Em ạ, anh xưa nay rất là hiểu rõ cái văn minh Âu Tây, hiểu đến nỗi như chui vào gan ruột người Âu Tây vậy. Bởi thế, anh biết rằng làm người An Nam xấu lắm. Không có cái gì khả bỉ bằng hai tiếng An Nam, An Nam, An Nam! Nghe nó tủn mủn, nhỏ mọn, hèn hạ, không sao mà nói được! Ở những nơi văn minh mà gọi nhau là An Nam tức là làm bia cho thiên hạ chửi. Vậy muốn cho người ta quý mình, trọng đãi mình trước hết ta không nên làm người Việt Nam nữa. Tây có câu: “Có đồng đẳng mới bình đẳng được”. Nghĩa là có không phải là người Việt Nam hay An Nam thì người ta đối đãi với mình coi như người quý quốc!

KIM NINH: Cho nên anh biết tiếng của Tổ quốc mà phải giả vờ làm không biết, có phải thế không?

CỬ LÂN: Thưa, không phải giả vờ cốt lấy oai mà thôi đâu. Anh là người Tây thì cái giả vờ ấy, tha thứ đi cho anh cũng được! Nhưng điều anh chủ tâm là làm cho tiệt cái hơi tiếng An Nam ở trong mồm anh đi. Nên không những anh không muốn nói tiếng Nam, nghe tiếng Nam, mà đến cái tư tưởng bằng cái óc Việt Nam anh cũng không muốn nữa! Ví dụ anh nhìn thấy cái này (trỏ bó hoa) tất phải nghĩ ngay nó là em xinh đẹp, yêu em, anh bật ngay ra : Je t’ aime chứ không muốn nhớ chi đến câu

 “Tôi yêu mình” như trước nữa! Nói tóm lại là anh tư tưởng bằng chữ Tây nó quen đi rồi, cái óc anh biến hắn thành óc Tây rồi...

KIM NINH: Hừ! Nếu ai cũng như anh thì tiếng Việt Nam chẳng bao lâu mà mất!

CỬ LÂN: Quái! Từ hôm quen đến nay, anh gặp ai cũng là bênh vực cái tiếng An Nam này chầm chập? Người An Nam hủ lậu thật mà còn chậm tiến hoá không biết đến đâu? Anh hãy hỏi em có phải tiếng An Nam còn ngày nào thì người trên cái bán đảo Ấn Độ chi na này còn là An Nam ngần ấy, mà các người ấy đã An Nam thì mong sao văn minh người ta quý trọng mình? Hay anh hỏi em thế này cho ngắn: “Tiếng An Nam có hay ho gì không?”.

KIM NINH: Ý em thì hay, vì rằng nó là của riêng của giống nòi mình, mà đã là của riêng để phân biệt mình với người thì dầu có kém của người, mình cũng cho là hay.

CỬ LÂN: Câu em nói đó thuộc về nhu cảm. Cứ bình tĩnh mà nói, em tưởng tượng em là người giời, đứng tận trên tít đỉnh giời mà xét, tiếng Việt Nam có hay hay không?

KIM NINH: Hay!

CỬ LÂN: Hay làm sao?

KIM NINH: Nó dịu dàng êm ái, lên bổng xuống trầm như tiếng đàn và có ngũ âm lục thanh như năm cung sáu bực cây đàn, mà cung bực tức là năm dấu.

CỬ LÂN: Trời ơi! Thế mà hay! Hoạ chăng nó êm ái dịu dàng là bởi vì cái giọng dịu dàng êm ái của em nó tô điểm hộ. Yêu, yêu thế là cái gì? Gọi là aimer có tình tứ bao nhiêu không? Kim Ninh, Kim Ninh còn ra nghĩa lí gì? Nếu không có cái mồm hoa kia, đôi mắt đẹp chết người này thì nó có gợi cho anh được một mảnh tình nào không? Rành không nhé!

KIM NINH: Ấy thế mà em thì lại khác. Nghe mấy tiếng “Chàng Lân ơi” nó thanh thú hơn là “Mon cher Alphonse”!

CỬ LÂN: Bởi vậy, anh mới phải chiều em, phải dùng cái tiếng khổ này mà thưa với em xinh đẹp của anh rằng anh yêu, anh quý, anh thờ em vô hạn. Nhưng cũng xin em sớm tỉnh ngộ cho anh nhờ. Bỏ quách cái giống nòi An Nam đi, húi tóc ngắn, ăn mặc đầm, nói tiếng Tây, sang Tây mà ở bên ấy với anh mãi mãi, anh sẽ suốt đời ôm ẵm trên tay, em ạ, em với anh sẽ thêu dệt nên một cuộc đời như hoa như gấm, em nghĩ làm sao?

KIM NINH: Em chịu thôi anh ạ.

CỬ LÂN: Sao thế?

KIM NINH: Vì tấm lòng em nó rắn lắm, chưa thấy anh lay chuyển được tí nào?

CỬ LÂN: Thật không em?

KIM NINH: Thật.

CỬ LÂN: Thế em cho phép anh mời đi xơi cơm hôm nay vậy!

KIM NINH: Em cũng chịu thôi.

CỬ LÂN: Nhất định thế ư?

KIM NINH: Vâng.

CỬ LÂN: Anh chịu em là người khó tính!

KIM NINH: Không khó tính đâu anh. Thôi anh đi xơi cơm kẻo đói.

CỬ LÂN: Hay nói thế nào mà em bằng lòng thì xin dạy anh, để anh nói với em.

KIM NINH: Anh nói thế nào em cũng không bằng lòng đâu. Thôi anh xơi cơm đi.

CỬ LÂN: Sur?

KIM NINH: Chả thật thì bỡn hay sao?

CÚ LÂN: Bon! Adieu, mademoiselle.

KIM NINH: Người đâu mà dở ốm dở đau, dở cay dở nồng, thế mà thầy ta cứ dỗ ta lấy thì ta lấy làm sao?

(Ông Tây An Nam, Tổng tập văn học Việt Nam, tập 24,

NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 2000)

a) Tình huống của đoạn trích là gì?

A. Cử Lân giả vờ không biết tiếng An Nam để người Pháp coi mình như người “quý quốc”

B. Cử Lân sử dụng tiếng “ta đặc” để giải thích lí do muốn “tiệt cái hơi giống An Nam” và thuyết phục Kim Ninh “bỏ quách cái giống nòi An Nam”

C. Kim Ninh thuyết phục Cử Lân sử dụng tiếng Việt để giao tiếp vì tiếng Việt “dịu dàng êm ái, lên bổng xuống trầm như tiếng đàn”

D. Kim Ninh từ chối tình cảm của Cử Lân vì thấy “người đâu mà dở ốm dở đau, dở cay dở nồng”


4.6

8 Đánh giá

50%

40%

0%

0%

0%