Câu hỏi:
27/11/2024 119Phân tích đoạn thơ sau sau:
Người lên ngựa kẻ chia bào(1),
Rừng phong, thu đã nhuốm màu quan san(2).
Dặm hồng bụi cuốn chinh an(3),
Trông người đã khuất mấy ngàn dâu xanh.
Người về chiếc bóng năm canh,
Kẻ đi muôn dặm một mình xa xôi.
Vầng trăng ai xẻ làm đôi,
Nửa in gối chiếc nửa soi dặm trường(4)
(“Thúc Sinh từ biệt Thúy Kiều” Trích Truyện Kiều, Nguyễn Du,
NXB Văn hóa thông tin, 2002, tr. 142-143)
Sách mới 2k7: Tổng ôn Toán, Lí, Hóa, Văn, Sử, Địa…. kỳ thi tốt nghiệp THPT Quốc gia 2025, đánh giá năng lực (chỉ từ 110k).
Quảng cáo
Trả lời:
a. Đảm bảo cấu trúc bài văn nghị luận
- Học sinh biết tạo lập một bài văn nghị luận đảm bảo đủ cấu trúc 3 phần: Mở bài, Thân bài, Kết bài.
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận
Anh/ chị hãy viết bài văn nghị luận về Phân tích đoạn thơ: “Thúc Sinh từ biệt Thúy Kiều” – trích “Truyện Kiều” của Nguyễn Du.
c Triển khai vấn đề nghị luận
- Chia vấn đề nghị luận thành các luận điểm, luận cứ phù hợp, có sức thuyết phục; sử dụng tốt các thao tác lập luận; biết kết hợp giữa nêu lí lẽ và đưa dẫn chứng.
- HS có thể triển khai theo những cách khác nhau, nhưng cần đảm bảo các ý cơ bản sau:
1. Mở bài:
* Giới thiệu vài nét về tác giả Nguyễn Du và Truyện Kiều, nêu ý kiến khái quát về tác phẩm.
2. Thân bài:
Luận điểm 1. Phân tích đặc sắc nội dung của đoạn trích.
- Sau khi ra khỏi lầu xanh lần thứ nhất và được đoàn tụ với Thúc Sinh, Thúy Kiều được sống trong những ngày tháng ấm êm, hương lửa thêm nồng. Tuy nhiên, nàng vẫn sợ vợ cả của Thúc Sinh là Hoạn Thư nên đã giục chàng về thưa lại với Hoạn Thư để nàng xin làm lẽ. Với Kiều, đây là chuyến đi đầy lưu luyến và tràn trề niềm tin hi vọng:
“Chén đưa nhớ bữa hôm nay,
Chén mừng xin đợi ngày rày năm sau…”
- Đây là đoạn trích miêu tả thành công những xúc cảm, nỗi mừng lo lẫn lộn, và vượt lên trên tất cả là nỗi niềm của một tâm hồn chất chứa những mâu thuẫn. Qua những biện pháp tu từ nghệ thuật, Nguyễn Du đã vẽ nên bức tranh phong cảnh nên thơ và bộc lộ tâm sự của người đi kẻ ở trong buổi tiễn biệt.
* Bức tranh thiên nhiên lúc chia tay:
“Người lên ngựa kẻ chia bào,
Rừng phong, thu đã nhuốm màu quan san.
Dặm hồng bụi cuốn chinh an,
Trông người đã khuất mấy ngàn dâu xanh.”
- Khung cảnh biệt ly, thấm đẫm nỗi buồn da diết có sức khái quát cao: “Rừng phong, thu đã nhuốm màu quan san. Dặm hồng bụi cuốn chinh an, trông người đã khuất mấy ngàn dâu xanh...”. Không gian dường như thay đổi liên tục, từ cánh rừng phong đỏ thẫm, sang con đường thiên lý mà Thúc Sinh đang ruổi ngựa nơi cuối trời. Cả một màu quan tái đã hiện dần lên trong đôi mắt nàng Kiều, những cụm từ quan san, dặm hồng, rừng phong đã tạo nên ấn tượng chia ly, buồn nhưng vẫn mang sắc thái trang trọng.
“Người lên ngựa, kẻ chia bào,
Rừng phong, thu đã nhuốm màu quan san”.
- Thúy Kiều buông vạt áo cũng là buông khỏi Thúc Sinh, chia bào là một hoán dụ cũng như chiếc yên ngựa của người đi xa, nó dùng để chỉ con ngựa nhưng cũng là ám chỉ người đi xa. Và cuộc ra đi này là một cuộc ra đi định mệnh, nó đã đưa cuộc đời Kiều đi sang một chặng đường mới, khổ đau, tủi nhục, ê chề. Câu thơ “Rừng phong, thu đã nhuốm màu quan san” nhấn mạnh cái cảm giác nhỏ bé, đơn độc của con người, sự mênh mông của nỗi buồn man mác trước không gian bao la, rộng lớn.
* Tâm sự của mỗi người khi tiễn biệt:
“Người về chiếc bóng năm canh,
Kẻ đi muôn dặm một mình xa xôi.
Vầng trăng ai xẻ làm đôi,
Nửa in gối chiếc nửa soi dặm trường.”
- Bốn câu thơ sau là cuộc sống đơn lẻ của mỗi người, nàng thì mòn mỏi trông mong, thao thức suốt đêm khuya, còn chàng thì một mình rong ruổi nơi dặm trường. Nghệ thuật tương phản với những cặp đối lập và được biểu hiện qua hình thức tiểu đối như người về - kẻ đi, chiếc bóng - năm canh, muôn dặm - một mình… đã tô đậm sự cách biệt giữa hai người và dường như nó cũng báo hiệu một sự cách xa mãi mãi. Riêng ở câu thơ:
“Vầng trăng ai xẻ làm đôi?
Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường!”
- Đây là hai câu thơ tuyệt bút. Nguyễn Du đã lấy ngoại cảnh (vầng trăng) để đặc tả tâm cảnh Thuý Kiều. Có phải Kiều và Thúc Sinh hai người như một vầng trăng tròn bị cắt bị “xẻ” làm hai nửa? Hay từ nay trở đi mỗi người một phương trời chỉ soi lẻ một vầng trăng mà chỉ thấy một nửa? Trăng thượng huyền hay trăng hạ huyền mà chỉ có một nửa: Nửa thì soi gối chiếc của nàng Kiều cô đơn nửa thì soi dặm trường một mình lẻ loi của Thúc Sinh?
Câu thơ vừa xót xa vừa ai oán. Chữ “ai” trong câu thơ “Vầng trăng ai xẻ làm đôi” như một tiếng thở dài ngao ngán về sự bất lực trươc số phận. Ai đã đang tâm chia rẽ hạnh phúc tròn đầy êm thấm của Kiều? Số phận lẻ mọn buộc nàng phải cam chịu và chấp nhận? Vì ai mà Thúc Sinh phải đi về Vô Tích “muôn dặm một mình xa xôi?”. Cuộc chia tay không thể tránh khỏi. Kiều như dự cảm một cuộc chia tay vĩnh biệt đã bắt đầu. Không phải là từ biệt mà là sự chấm dứt của tình duyên. Có thể họ còn gặp nhau nhưng chẳng bao giờ tái hợp nữa. Tràn ngập cả không gian và thời gian là nỗi buồn nhớ xa xôi đến muôn dặm. Thúc Sinh với chuyến đi này sẽ phải “đối diện” với người vợ cả “Ở ăn thì nết cũng hay – Nói điều ràng buộc thì tay cũng già”.
Kiều phấp phổng lo âu càng cảm thấy cô đơn hơn bao giờ hết!
Hai câu thơ cuối đoạn đã thể hiện sâu sắc lòng thương cảm của Nguyễn Du đối với nàng Kiều.
Luận điểm 2. Phân tích đặc sắc về hình thức nghệ thuật của đoạn trích
- Từ ngữ, hình ảnh mang tính ước lệ, tượng trưng (“rừng phong”, “ngàn dâu xanh”, “màu quan san”,...).
- Nghệ thuật đối (Người về >< Kẻ đi, chiếc bóng >< một mình, năm canh >< muôn dặm,...) có tác dụng biểu đạt thấm thía hơn, cảm động hơn tâm trạng lưu luyến của Thúc Sinh – Thúy Kiều khi chia ly và tình cảnh cô đơn vò võ của Thúy Kiều sau khi chia tay Thúc Sinh.
- Câu hỏi tu từ: Vầng trăng ai xẻ làm đôi với đại từ phiếm “ai” như lời than trách hướng đến sự nghiệt ngã của số phận đã chia lìa đôi lứa. Mượn hình ảnh vầng trăng không trọn vẹn, Nguyễn Du đã biểu đạt thành công tình cảnh chia lìa, xa cách giữa Thúc Sinh, Thúy Kiều. Phép đối trong câu thơ Nửa in gối chiếc nửa soi dặm trường cộng hưởng với ý nghĩa của câu thơ trên càng tô đậm thêm sự trống trải, cô đơn của Thúy Kiều khi không còn Thúc Sinh bên cạnh.
- Thủ pháp ẩn dụ, ngoa dụ, dùng từ Hán Việt thì thủ pháp nhân cách hóa, sóng đôi cú pháp… cũng góp phần làm nên thành công của đoạn trích. Thông qua những biện pháp tu từ này, tác giả không những tái hiện được bức tranh phong cảnh lúc chia ly với những chất chứa khôn tả của người đi kẻ ở mà nhà thơ còn có thể diễn tả được thời gian đằng đẵng lẻ loi cô độc của người thiếu phụ trong một không gian thu buồn bã quá trống trải. Đoạn trích dường như đã mang lại cho người đọc cảm giác bâng khuâng đậm một nỗi buồn trước cuộc chia ly định mệnh.
3. Kết bài:
Khái quát lại đoạn trích và nêu cảm nghĩ của bản thân.
d. Chính tả, ngữ pháp
Đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ pháp Tiếng Việt.
e. Sáng tạo
- Bài viết có luận điểm rõ ràng, lập luận thuyết phục, diễn đạt trong sáng, bài viết thể hiện được sự sáng tạo, độc đáo riêng.
- Chữ viết sạch đẹp, rõ ràng, văn phong lưu loát; không mắc lỗi chính tả, lỗi dùng từ, đặt câu.
CÂU HỎI HOT CÙNG CHỦ ĐỀ
Câu 1:
Xác định thể thơ và phương thức biểu đạt chính của đoạn trích trên?
Câu 2:
Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) trình bày quan điểm của bản thân về ý nghĩa của tình thương yêu trong cuộc sống.
Câu 3:
Tâm trạng của người chinh phụ nảy sinh trong hoàn cảnh nào? Nêu một chi tiết giúp em nhận biết hoàn cảnh ấy?
Câu 4:
Chỉ ra và phân tích tác dụng của biện pháp điệp ngữ được sử dụng trong đoạn thơ:
Thưở lâm hành oanh chưa bén chưa bén liễu,
Hỏi ngày về ước nẻo quyên ca.
Nay quyên đã giục oanh già,
Ý nhi(4) lại gáy trước nhà líu lo
Thưở đăng đồ(5 )mai chưa dạn gió,
Hỏi ngày về chỉ độ đào bông.
Nay đào đã quyến gió đông
Phù dung lại đã bên song bơ xờ.
Câu 5:
Qua tâm sự của nhân vật người chinh phụ trong đoạn trích, em có suy nghĩ gì về thân phận của những người phụ nữ trong xã hội phong kiến?
Câu 6:
Đoạn trích trên đã gửi gắm đến người đọc những thông điệp ý nghĩa nào?
về câu hỏi!