ĐÁ TRỔ BÔNG
(Nguyễn Ngọc Tư(1))
Khờ, thằng nhỏ gánh nước đi đằng trước tôi, đang bốc khói. Bằng mắt thường cũng thấy một làn hơi mỏng bả lả gợn quanh nó, nhất là từ đôi ống quần ướt mèm. Nước trong thùng ở hai đầu quang gánh dù không sánh ra chút nào, nhưng cứ nghĩ lên đến đỉnh núi chắc chỉ còn lưng lửng, vì nước bốc hơi. Mình thì có hơn gì, tôi nghĩ, cũng sắp bốc cháy tới nơi rồi…
[…]
Năm Khờ chín tuổi, mẹ dắt nó lên ngọn núi Trời này, bảo ngồi đó đợi đá trổ bông mẹ lên đón. Rồi bà mẹ trẻ xuống núi, biệt dạng. Chị chủ quán nước ngay bên sườn núi vẫn còn nhớ gương mặt cô gái đó, “trẻ măng, đem con đi bỏ mà mặt tỉnh bơ, trửng giỡn(2) với mấy thằng kiếm củi”. Chắc là sớm làm mẹ đơn thân, không mang vác nổi thằng nhỏ khờ căm đặt đâu ngồi đó. Chắc là ngủ quên trên cỏ rồi đẻ Khờ, như những bà mẹ Việt cổ xưa vẫn cấn bầu(3) nhờ uống nước trong gáo dừa, ướm chân vào dấu chân lạ.
Thằng nhỏ từng có cái tên tử tế, nhưng người xóm núi quên mất rồi. Nói cho cùng, làm gì có tên nào hợp với nó, bằng tên Khờ. Trong thân xác thằng con trai sắp ba mươi, là một trí khôn của trẻ con năm bảy tuổi. Thời gian không làm mai một cái niềm tin rồi đá trổ bông, mẹ đón về.
Sống nhờ chén cơm của cư dân triền núi, nhưng Khờ chưa bao giờ làm họ tiếc vì đã nuôi dưỡng mình. Nhờ chi thằng nhỏ cũng làm, và nặng nhọc cỡ nào cũng không than vãn. Mưa nó đi cọ rửa những bậc đá đóng rêu, che giúp mái nhà ai đó, cõng bà Chín Sầu Đâu đi hốt thuốc nam chữa đau khớp, đón thằng Đen kẹt ở trường trong giông gió. Hạn qua nó kiếm củi phơi khô chất đầy miễu(4) hoang, cả xóm xài mút mùa không hết. Mùa khô nào họ cũng uống nước mưa một tay Khờ gánh, từ ngôi chùa gần chân núi Xanh.
Suốt ba chục năm, duy nhất một lần Khờ rời núi chừng tuần lễ. Nó bị sét đánh. Cái đầu trọc của núi mà nó đang chăn giữ, không hiểu sao hay bị sét xuống thăm, đến cây cối không mọc nổi. Bữa đó giông khô, Khờ lom khom gom mớ thuốc nam chùa gửi phơi, thì bị sét quật lăn ra, tóc cháy xém. Câu đầu tiên nó nói khi tỉnh dậy, “đá trổ bông chưa?”
Tới ông trời còn không bứng thằng Khờ ra khỏi mớ đá đó, người núi Xanh nói. Đúng lúc Khờ lại thêm một lượt gánh nữa ngang qua chỗ quán nước tôi ngồi cùng mấy bà trong xóm, nhe răng cười. Ở Khờ không có vẻ gì bơ vơ, dù đang một mình bơi giữa đá và nắng. Ngay khi nó bị che khuất bởi một cua gắt trên đường mòn, cũng để lại cảm giác ấm áp, chắc nịch. Khó giải thích, nhất là nhân vật ấy mang trong mình một câu chuyện mủi lòng.
Hỏi mẹ Khờ có từng quay lại không, người núi Xanh nói biết đâu, giờ nhiều du khách lên đây, mặt mũi ai cũng dáo dác như ai, nhớ sao nổi người phụ nữ mấy chục năm về trước. Thằng nhỏ hay bị du khách ghẹo, họ xưng mẹ nè con, mau về với mẹ. “Mẹ tui nói chừng đá trổ bông mới lên đón, giờ có trổ xíu nào đâu”, Khờ nói. Chỉ một lời dối ầu ơ(5), nhưng với bộ não ngờ nghệch của Khờ, đã thành một thứ dây trói bền dai, buộc nó mãi trên đỉnh núi. Mẹ Khờ có ở đây, chắc gì lay chuyển được nó, đá chưa nở bông nào.
Dân núi Xanh có lần hối tiếc, khi xúm nhau thuyết phục Khờ, rằng đám đá đó đâu thể trổ bông được, sét đánh quá chừng mà, nhìn thì biết, tới cỏ còn không mọc nổi. Khờ nói luôn, vậy mấy cục đá hong bị trời đánh thể nào cũng có bông. Từ bữa đó nó leo trèo khắp núi. Lo bông đá đang trổ ở hang hốc nào đó, nơi nó chưa mò tới. Còn cả xóm thì phấp phỏng sợ nó trượt chân.
Mình mà nói núi này đá đực khó ra bông, Khờ sẽ hỏi, vậy núi nào mới có? Tôi hình dung vậy, khi ngó thằng nhỏ vừa gánh xong đôi nước cuối cùng trong ngày, đổ vào cái khạp da bò đặt ngay đỉnh trọc. Nước ấy dành cho du khách uống đỡ khát. Dù họ chỉ dùng rửa mặt, rửa chân, hắt vào người nhau cho vui.
Nắng vẫn xéo xắt, chưa chịu nguội. Tôi quay lại đúng cái chân núi mà vài tiếng đồng hồ trước mình đứng ngán ngẩm vì nắng và hồ Xanh cạn đáy. Nghĩ chắc cũng không cần trèo lên chi, quá biết trên đó có những thứ gì, lại miễu cậu miễu cô, lại những quán xá đu theo vách đá, lại bày bán mấy thứ thần dược từ cỏ cây meo mốc chớ đâu.
Nhưng Khờ xuất hiện, với đôi thùng nước treo đầu gánh, rủ khơi khơi, lên núi chơi, bông đá nay mai sẽ trổ.
(In trong Tạp chí Nhà văn và Tác phẩm, số Xuân Đinh Dậu, 2017)
(1) Nguyễn Ngọc Tư: sinh năm 1976 tại Đầm Dơi, Cà Mau; là nữ nhà văn trẻ của Hội nhà văn Việt Nam. Với niềm đam mê viết lách, chị miệt mài viết về những điều gần gũi nhất xung quanh cuộc sống của mình. Giọng văn chị đậm chất Nam bộ, là giọng kể mềm mại mà sâu cay về những cuộc đời éo le, những số phận chìm nổi. Cái chất miền quê sông nước ngấm vào các tác phẩm, thấm đẫm cái tình của làng, của đất, của những con người chân chất hồn hậu nhưng ít nhiều gặp những bất hạnh.
(2) Trửng giỡn: đùa cho vui
(3) Cấn bầu: có thai
(4)Miễu: miếu nhỏ
(5) Lời dối ầu ơ: nói cho qua
Xác định ngôi kể trong văn bản Đá trổ bông.
ĐÁ TRỔ BÔNG
(Nguyễn Ngọc Tư(1))
Khờ, thằng nhỏ gánh nước đi đằng trước tôi, đang bốc khói. Bằng mắt thường cũng thấy một làn hơi mỏng bả lả gợn quanh nó, nhất là từ đôi ống quần ướt mèm. Nước trong thùng ở hai đầu quang gánh dù không sánh ra chút nào, nhưng cứ nghĩ lên đến đỉnh núi chắc chỉ còn lưng lửng, vì nước bốc hơi. Mình thì có hơn gì, tôi nghĩ, cũng sắp bốc cháy tới nơi rồi…
[…]
Năm Khờ chín tuổi, mẹ dắt nó lên ngọn núi Trời này, bảo ngồi đó đợi đá trổ bông mẹ lên đón. Rồi bà mẹ trẻ xuống núi, biệt dạng. Chị chủ quán nước ngay bên sườn núi vẫn còn nhớ gương mặt cô gái đó, “trẻ măng, đem con đi bỏ mà mặt tỉnh bơ, trửng giỡn(2) với mấy thằng kiếm củi”. Chắc là sớm làm mẹ đơn thân, không mang vác nổi thằng nhỏ khờ căm đặt đâu ngồi đó. Chắc là ngủ quên trên cỏ rồi đẻ Khờ, như những bà mẹ Việt cổ xưa vẫn cấn bầu(3) nhờ uống nước trong gáo dừa, ướm chân vào dấu chân lạ.
Thằng nhỏ từng có cái tên tử tế, nhưng người xóm núi quên mất rồi. Nói cho cùng, làm gì có tên nào hợp với nó, bằng tên Khờ. Trong thân xác thằng con trai sắp ba mươi, là một trí khôn của trẻ con năm bảy tuổi. Thời gian không làm mai một cái niềm tin rồi đá trổ bông, mẹ đón về.
Sống nhờ chén cơm của cư dân triền núi, nhưng Khờ chưa bao giờ làm họ tiếc vì đã nuôi dưỡng mình. Nhờ chi thằng nhỏ cũng làm, và nặng nhọc cỡ nào cũng không than vãn. Mưa nó đi cọ rửa những bậc đá đóng rêu, che giúp mái nhà ai đó, cõng bà Chín Sầu Đâu đi hốt thuốc nam chữa đau khớp, đón thằng Đen kẹt ở trường trong giông gió. Hạn qua nó kiếm củi phơi khô chất đầy miễu(4) hoang, cả xóm xài mút mùa không hết. Mùa khô nào họ cũng uống nước mưa một tay Khờ gánh, từ ngôi chùa gần chân núi Xanh.
Suốt ba chục năm, duy nhất một lần Khờ rời núi chừng tuần lễ. Nó bị sét đánh. Cái đầu trọc của núi mà nó đang chăn giữ, không hiểu sao hay bị sét xuống thăm, đến cây cối không mọc nổi. Bữa đó giông khô, Khờ lom khom gom mớ thuốc nam chùa gửi phơi, thì bị sét quật lăn ra, tóc cháy xém. Câu đầu tiên nó nói khi tỉnh dậy, “đá trổ bông chưa?”
Tới ông trời còn không bứng thằng Khờ ra khỏi mớ đá đó, người núi Xanh nói. Đúng lúc Khờ lại thêm một lượt gánh nữa ngang qua chỗ quán nước tôi ngồi cùng mấy bà trong xóm, nhe răng cười. Ở Khờ không có vẻ gì bơ vơ, dù đang một mình bơi giữa đá và nắng. Ngay khi nó bị che khuất bởi một cua gắt trên đường mòn, cũng để lại cảm giác ấm áp, chắc nịch. Khó giải thích, nhất là nhân vật ấy mang trong mình một câu chuyện mủi lòng.
Hỏi mẹ Khờ có từng quay lại không, người núi Xanh nói biết đâu, giờ nhiều du khách lên đây, mặt mũi ai cũng dáo dác như ai, nhớ sao nổi người phụ nữ mấy chục năm về trước. Thằng nhỏ hay bị du khách ghẹo, họ xưng mẹ nè con, mau về với mẹ. “Mẹ tui nói chừng đá trổ bông mới lên đón, giờ có trổ xíu nào đâu”, Khờ nói. Chỉ một lời dối ầu ơ(5), nhưng với bộ não ngờ nghệch của Khờ, đã thành một thứ dây trói bền dai, buộc nó mãi trên đỉnh núi. Mẹ Khờ có ở đây, chắc gì lay chuyển được nó, đá chưa nở bông nào.
Dân núi Xanh có lần hối tiếc, khi xúm nhau thuyết phục Khờ, rằng đám đá đó đâu thể trổ bông được, sét đánh quá chừng mà, nhìn thì biết, tới cỏ còn không mọc nổi. Khờ nói luôn, vậy mấy cục đá hong bị trời đánh thể nào cũng có bông. Từ bữa đó nó leo trèo khắp núi. Lo bông đá đang trổ ở hang hốc nào đó, nơi nó chưa mò tới. Còn cả xóm thì phấp phỏng sợ nó trượt chân.
Mình mà nói núi này đá đực khó ra bông, Khờ sẽ hỏi, vậy núi nào mới có? Tôi hình dung vậy, khi ngó thằng nhỏ vừa gánh xong đôi nước cuối cùng trong ngày, đổ vào cái khạp da bò đặt ngay đỉnh trọc. Nước ấy dành cho du khách uống đỡ khát. Dù họ chỉ dùng rửa mặt, rửa chân, hắt vào người nhau cho vui.
Nắng vẫn xéo xắt, chưa chịu nguội. Tôi quay lại đúng cái chân núi mà vài tiếng đồng hồ trước mình đứng ngán ngẩm vì nắng và hồ Xanh cạn đáy. Nghĩ chắc cũng không cần trèo lên chi, quá biết trên đó có những thứ gì, lại miễu cậu miễu cô, lại những quán xá đu theo vách đá, lại bày bán mấy thứ thần dược từ cỏ cây meo mốc chớ đâu.
Nhưng Khờ xuất hiện, với đôi thùng nước treo đầu gánh, rủ khơi khơi, lên núi chơi, bông đá nay mai sẽ trổ.
(In trong Tạp chí Nhà văn và Tác phẩm, số Xuân Đinh Dậu, 2017)
(1) Nguyễn Ngọc Tư: sinh năm 1976 tại Đầm Dơi, Cà Mau; là nữ nhà văn trẻ của Hội nhà văn Việt Nam. Với niềm đam mê viết lách, chị miệt mài viết về những điều gần gũi nhất xung quanh cuộc sống của mình. Giọng văn chị đậm chất Nam bộ, là giọng kể mềm mại mà sâu cay về những cuộc đời éo le, những số phận chìm nổi. Cái chất miền quê sông nước ngấm vào các tác phẩm, thấm đẫm cái tình của làng, của đất, của những con người chân chất hồn hậu nhưng ít nhiều gặp những bất hạnh.
(2) Trửng giỡn: đùa cho vui
(3) Cấn bầu: có thai
(4)Miễu: miếu nhỏ
(5) Lời dối ầu ơ: nói cho qua
Câu hỏi trong đề: (Ngữ liệu ngoài sgk) Đá trổ bông !!
Quảng cáo
Trả lời:
- Ngôi kể trong truyện: ngôi thứ nhất
Câu hỏi cùng đoạn
Câu 2:
Chỉ ra một câu văn là lời của người kể chuyện và một câu văn là lời của nhân vật trong văn bản?
Chỉ ra một câu văn là lời của người kể chuyện và một câu văn là lời của nhân vật trong văn bản?
Lời giải của GV VietJack
Học sinh chỉ ra một câu văn là lời của người kể chuyện và một câu văn là lời của nhân vật trong văn bản:
- Lời của người kể chuyện: Nắng hệt một chảo mật nấu sôi, và những con người bé nhỏ ngụp lặn trong ấy chín nhừ, mặt mày đỏ lựng.
- Lời của nhân vật: “Đám đá này mơi mốt trổ bông”
Câu 3:
Tìm những chi tiết trong câu chuyện để chứng minh rằng không ai có thể lay chuyển niềm tin đá trổ bông của Khờ?
Tìm những chi tiết trong câu chuyện để chứng minh rằng không ai có thể lay chuyển niềm tin đá trổ bông của Khờ?
Lời giải của GV VietJack
Những chi tiết trong câu chuyện để chứng minh rằng không ai có thể lay chuyển niềm tin Đá trổ bông của Khờ:
- Mỗi ngày chờ đợi Đá trổ bông, chưa bao giờ Khờ dám rời núi.
- Mọi người xúm lại giải thích cho Khờ hiểu đá biết đánh, không thể trổ bông, Khờ lại hỏi, vậy ở đâu đá trổ bông.
- Bị sét đánh ngất đi, câu đầu tiên Khờ hỏi khi tỉnh dậy là Đá đã trổ bông chưa.
Câu 4:
Chỉ ra và phân tích hiệu quả của biện pháp tu từ trong câu văn sau:
“Mưa nó đi cọ rửa những bậc đá đóng rêu, che giúp mái nhà ai đó, cõng bà Chín Sầu Đâu đi hốt thuốc nam chữa đau khớp, đón thằng Đen kẹt ở trường trong giông gió.”
Chỉ ra và phân tích hiệu quả của biện pháp tu từ trong câu văn sau:
“Mưa nó đi cọ rửa những bậc đá đóng rêu, che giúp mái nhà ai đó, cõng bà Chín Sầu Đâu đi hốt thuốc nam chữa đau khớp, đón thằng Đen kẹt ở trường trong giông gió.”
Lời giải của GV VietJack
- Phép liệt kê: đi cọ rửa những bậc đá đóng rêu, che giúp mái nhà ai đó, cõng bà Chín Sầu Đâu đi hốt thuốc nam chữa đau khớp, đón thằng Đen kẹt ở trường trong giông gió.
- Tác dụng:
+ Nhấn mạnh sự chăm chỉ, chịu khó và hay giúp đỡ mọi người của Khờ.
+ Phép liệt kê làm cho các diễn đạt hiệu quả, ngắn gọn và dễ hiệu quả hơn. Giúp cho đoạn văn tăng thêm tính biểu cảm.
Câu 5:
Anh/chị hiểu như thế nào về câu: “Chỉ một lời dối ầu ơ, nhưng với bộ não ngờ nghệch của Khờ, đã thành một thứ dây trói bền dai, buộc nó mãi trên đỉnh núi”?
Anh/chị hiểu như thế nào về câu: “Chỉ một lời dối ầu ơ, nhưng với bộ não ngờ nghệch của Khờ, đã thành một thứ dây trói bền dai, buộc nó mãi trên đỉnh núi”?
Lời giải của GV VietJack
Câu văn có ý nghĩa: Sự nhẫn tâm của người mẹ, niềm tin của đứa con đã trói buộc đứa con vào không gian định mệnh, vào nỗi đời cơ cực, thiếu vắng những yêu thương đến từ đấng sinh thành.
Câu 6:
Vì sao cậu bé Khờ tin là đá trổ bông?
Vì sao cậu bé Khờ tin là đá trổ bông?
Lời giải của GV VietJack
Cậu bé Khờ tin là đá trổ bông bởi vì nó tin lời của người mẹ bảo ngồi đó đợi đá trổ bông mẹ lên đón.
=> Với nhân vật Khờ, việc chờ đợi đá trổ bông có ý nghĩa: thể hiện niềm tin của Khờ đối với mẹ; niềm mong chờ đón nhận một vòng tay ấm áp chở che, vỗ về, tình yêu thương từ người mẹ mà bao năm qua Khờ không có diễm phúc hưởng nhận.
Câu 7:
Nhận xét về nhân vật Khờ?
Nhận xét về nhân vật Khờ?
Lời giải của GV VietJack
Nhận xét về Khờ:
- Khờ khạo, ngây ngốc.
- Tính tình hiền lành, chăm chỉ, giúp đỡ mọi người.
- Tin vào tình mẫu tử, khao khát tình mẫu tử.
Câu 8:
Hình ảnh “đá trổ bông” mang ý nghĩa biểu tượng gì trong câu chuyện?
Hình ảnh “đá trổ bông” mang ý nghĩa biểu tượng gì trong câu chuyện?
Lời giải của GV VietJack
Hình ảnh “đá trổ bông” là một phép ẩn dụ sâu sắc trong tác phẩm, thể hiện sự kiên cường, bền bỉ và khả năng vươn lên của nhân vật Khờ. “Đá” tượng trưng cho những khó khăn, thử thách trong cuộc sống, còn “bông” là kết quả của sự kiên nhẫn, lòng tin và sự hy vọng. Câu chuyện về Khờ là hành trình chờ đợi “bông trổ” trên đá, tượng trưng cho khát khao sống, sự vươn lên từ những gian khó. Khờ, mặc dù là một đứa trẻ ngây ngô, vẫn có niềm tin mạnh mẽ vào những điều kỳ diệu, vào khả năng vượt qua thử thách mà không hề nản chí. Đây chính là hình ảnh của hy vọng và sự kiên cường trong cuộc sống.
Câu 9:
Anh/chị có đồng tình với cảm nhận của nhân vật tôi: “Ở Khờ không có vẻ gì bơ vơ, dù đang một mình bơi giữa đá và nắng. Ngay khi nó bị che khuất bởi một cua gắt trên đường mòn, cũng để lại cảm giác ấm áp, chắc nịch” không? Vì sao?
Anh/chị có đồng tình với cảm nhận của nhân vật tôi: “Ở Khờ không có vẻ gì bơ vơ, dù đang một mình bơi giữa đá và nắng. Ngay khi nó bị che khuất bởi một cua gắt trên đường mòn, cũng để lại cảm giác ấm áp, chắc nịch” không? Vì sao?
Lời giải của GV VietJack
Có thể theo hướng sau:
- Đồng tình với cảm nhận của nhân vật tôi: Ở Khờ không có vẻ gì bơ vơ, dù đang một mình bơi giữa đá và nắng. Ngay khi nó bị che khuất bởi một cua gắt trên đường mòn, cũng để lại cảm giác ấm áp, chắc nịch
- Bởi: Mỗi việc Khờ làm đều xuất phát từ tấm lòng; câu chuyện đời mủi lòng của Khờ được nhiều người thấu cảm; một mình bơi giữa đá và nắng song trong Khờ là niềm tin không dễ gì lay chuyển “mơi mốt đá trổ bông” mẹ sẽ trở về đón mình
-> Vẻ đẹp tâm hồn của Khờ đánh thức sự trân trọng cùng niềm tin vào giá trị tốt đẹp ở con người
Câu 10:
Từ câu chuyện về Khờ, anh/chị suy nghĩ như thế nào về niềm tin trong cuộc sống?
Từ câu chuyện về Khờ, anh/chị suy nghĩ như thế nào về niềm tin trong cuộc sống?
Lời giải của GV VietJack
Suy nghĩ về niềm tin trong cuộc sống:
Học sinh có thể trình bày những suy nghĩ của mình theo nhiều cách.
Có thể theo hướng sau:
- Niềm tin giúp con người ta vượt qua mọi trở ngại, vượt lên bản thân mình, sống có mục tiêu, có chí hướng, tinh thần lạc quan, vui vẻ.
- Niềm tin mù quáng khiến con người trốn tránh, không tin vào sự thật ngay trước mắt, không chấp nhận sự thật, mê muội trong những ảo tưởng.
Câu 11:
Từ văn bản trên, em hãy rút ra một thông điệp có ý nghĩa với bản thân.
Từ văn bản trên, em hãy rút ra một thông điệp có ý nghĩa với bản thân.
Lời giải của GV VietJack
Thông điệp có ý nghĩa với bản thân:
- Sống là phải có niềm tin. Niềm tin sẽ giúp con người vượt qua những khó khăn trong cuộc sống.
- Sống phải biết yêu thương cảm thông thấu hiểu và sẵn sàng giúp đỡ những người xung quanh...
* Học sinh có thể diễn đạt theo nhiều cách khác nhau, miễn sao hợp lí.
Hot: 500+ Đề thi thử tốt nghiệp THPT các môn, ĐGNL các trường ĐH... file word có đáp án (2025). Tải ngay
CÂU HỎI HOT CÙNG CHỦ ĐỀ
Lời giải
- Đảm bảo yêu cầu về hình thức, dung lượng
+ Viết đúng hình thức đoạn văn (diễn dịch, quy nạp, móc xích…).
+ Đảm bảo dung lượng khoảng 200 chữ.
- Xác định đúng vấn đề nghị luận
+ Phân tích nhân vật Khờ trong truyện ngắn “Đá trổ bông” của Nguyễn Ngọc Tư.
- Hệ thống ý
+ Khờ là chàng trai có số phận không may mắn:
. Trí tuệ của trẻ lên năm trong người cậu con trai ba mươi tuổi
. Bị mẹ bỏ rơi trên núi Trời từ năm lên chín tuổi.
. Cả đời luẩn quẩn trong chờ đợi và hi vọng vào một lời hứa hão.
+ Khờ là người có tâm hồn cao đẹp:
. Hiền lành, chất phác.
. Chăm chỉ, tốt bụng.
. Luôn tin tưởng vào điều tốt đẹp và khao khát tình thương yêu
. Kiên cường trước nghịch cảnh
+ Khờ hiện lên sinh động qua ngòi bút nghệ thuật độc đáo của Nguyễn Ngọc Tư
. Cách tổ chức truyện đặc biệt với mạch truyện khá tự nhiên, mới mẻ, hiện đại.
. Truyện được kể theo ngôi thứ nhất, người kể xưng tôi
. Kết hợp nhiều điểm nhìn giúp soi chiếu rõ nhân vật: điểm nhìn bên trong, điểm nhìn bên ngoài…
+ Giọng điệu điềm nhiên, trầm tĩnh, dân dã, mộc mạc
+ Ngôn ngữ kể chuyện đậm màu sắc Nam bộ, chân chất, hiền lành
như bản chất con người Nam Bộ, mang hồn quê Nam Bộ,
=> Tuy phải sống trong cảnh thiếu thốn cả vật chất và tình yêu thương song Khờ vẫn luôn hi vọng vào tương lai tươi sáng. Lối sống chân thật và niềm tin mãnh liệt của Khờ gợi lên trong lòng người đọc bao trăn trở, xót xa. Còn nhiều những mảnh đời bất hạnh, còn có những người mẹ nhẫn tâm, bạc bẽo ngay cả với đứa con mình, còn có những niềm tin đặt nhầm chỗ, những yêu thương trao đi mà không thể nhận về…Dư âm của “Đá trổ bông” đượm buồn nhưng đó phải chăng chính là sự thức tỉnh mà Nguyễn Ngọc Tư đang hướng chúng ta về con người bên trong con người của chính mình. Thật - giả, tốt - xấu, thiện - ác… vẫn luôn song hành tồn tại đòi hỏi mỗi người cần cẩn trọng trên hành trình làm người.
- Phát triển đoạn văn logic, thuyết phục
+ Dẫn chứng từ văn bản để minh chứng cho nhận định.
+ Phân tích ý nghĩa sâu sắc của hình ảnh nhân vật Khờ với cuộc sống con người.
- Đảm bảo ngữ pháp, liên kết:
+ Trình bày rõ ràng, mạch lạc, không mắc lỗi chính tả.
- Sáng tạo
+ Cách diễn đạt mới mẻ, có suy nghĩ sâu sắc về văn bản truyện.
Đoạn văn tham khảo
Khờ trong “Đá trổ bông” của Nguyễn Ngọc Tư hiện lên như một mảnh đời vừa bi thương nhưng cũng đong đầy ấm áp. Bị mẹ bỏ rơi trên núi Trời năm lên chín, trí óc mãi dừng ở tuổi lên năm, chàng trai ba mươi ấy sống cả đời trong một vòng tròn khép kín của chờ đợi: “đá trổ bông mẹ sẽ trở về”. Song giữa số phận khắc nghiệt, Khờ vẫn giữ vẹn nguyên cốt cách hiền lành, chất phác; ngày ngày gánh nước, nhóm lửa, cõng người già, hái thuốc… âm thầm bù đắp cho núi Xanh bao yêu thương thiếu hụt. Lửa thiện lành ấy cháy suốt, kể cả khi sét đánh đến cháy tóc, Khờ vẫn mở mắt hỏi trước tiên: “đá trổ bông chưa?”. Chính niềm tin hồn nhiên song kiên cường ấy làm nên vẻ đẹp tinh thần của Khờ, khiến độc giả vừa xót xa vừa bội phục. Nguyễn Ngọc Tư lựa chọn ngôi kể thứ nhất, đan xen điểm nhìn của “tôi” và người xóm núi, tạo nên hành lang cảm xúc đa chiều: Khờ hiện ra ngô nghê dưới con mắt “du khách”, nhưng lại cứng cỏi, ấm áp trong cảm nhận của cộng đồng. Giọng văn Nam Bộ mộc mạc, tiết chế, như thể người kể chỉ lặng lẽ đặt câu chuyện xuống rồi bước ra ngoài, để dư âm buồn thấm dần. Qua Khờ, dư âm của “Đá trổ bông” đượm buồn nhưng đó phải chăng chính là sự thức tỉnh mà Nguyễn Ngọc Tư đang hướng chúng ta về con người bên trong con người của chính mình. Thật - giả, tốt - xấu, thiện - ác… vẫn luôn song hành tồn tại đòi hỏi mỗi người cần cẩn trọng trên hành trình làm người.
Lời giải
- Đảm bảo yêu cầu về hình thức, dung lượng
+ Viết đúng hình thức bài văn đầy đủ ba phần Mở bài, Thân bài, Kết bài.
+ Đảm bảo dung lượng khoảng 600 chữ.
- Xác định đúng vấn đề nghị luận: Phân tích truyện ngắn “Đá trổ bông” của Nguyễn Ngọc Tư.
- Lựa chọn được các thao tác lập luận phù hợp; kết hợp nhuần nhuyễn lí lẽ và dẫn chứng; trình bày được hệ thống ý phù hợp theo bố cục ba phần của bài văn nghị luận. Có thể triển khai theo hướng:
* Mở bài:
- Giới thiệu tác giả Nguyễn Ngọc Tư: nhà văn Nam Bộ với phong cách dung dị, sâu sắc, giàu nhân văn.
- Dẫn dắt truyện ngắn “Đá trổ bông” – một câu chuyện buồn nhưng đầy tính thức tỉnh về niềm tin, tình thương và thân phận con người.
- Khẳng định vấn đề: “Truyện khắc họa thành công nhân vật Khờ – một người có số phận bất hạnh nhưng mang trong mình vẻ đẹp nội tâm cao cả, qua đó thể hiện cái nhìn nhân văn và giọng văn nghệ thuật độc đáo của Nguyễn Ngọc Tư.”
* Thân bài:
1. Nhân vật Khờ – biểu tượng của một kiếp người bất hạnh
- Về trí tuệ: Trí khôn của một đứa trẻ 5–7 tuổi trong thân xác của người đàn ông ba mươi.
- Về hoàn cảnh: Năm lên chín tuổi, bị mẹ bỏ rơi trên đỉnh núi với lời hứa “đợi đá trổ bông mẹ sẽ lên đón”.
- Về cuộc đời: Cả đời luẩn quẩn nơi núi non, sống trong chờ đợi mỏi mòn một điều không thật – đá trổ bông, mẹ trở lại.
=> Hình ảnh của những kiếp người bị bỏ quên, đơn độc và hoang hoải giữa đời.
2. Khờ – con người của những vẻ đẹp tinh thần đáng trân trọng
- Hiền lành, chất phác: Luôn vui vẻ, nhe răng cười với mọi người, không bơ vơ dù một mình giữa nắng đá.
- Tốt bụng, chăm chỉ: Gánh nước, cọ đá, chẻ củi, cõng người già… giúp đỡ xóm núi không quản mệt nhọc.
- Kiên định, kiên cường: Dù bị sét đánh vẫn không rời núi, vẫn hỏi “đá trổ bông chưa?”, vẫn tìm từng ngách đá để chắc rằng mình không bỏ sót.
- Niềm tin hồn nhiên nhưng tha thiết: Tin đá sẽ nở hoa, tin mẹ sẽ quay về – một niềm tin vừa trẻ con vừa bi hùng.
=> Khờ là hiện thân của phẩm chất lương thiện, thủy chung, của một tình yêu thương không điều kiện và đức tin không vụ lợi.
3. Nghệ thuật xây dựng nhân vật và giọng văn đặc sắc
- Ngôi kể thứ nhất: nhân vật “tôi” làm cầu nối giữa người đọc và nhân vật Khờ, tạo cảm giác gần gũi, chân thực.
- Điểm nhìn đa chiều: vừa là cái nhìn cảm thông của người kể chuyện, vừa là cái nhìn thương mến của dân núi Xanh, vừa là cái nhìn vô tâm của du khách.
- Ngôn ngữ giản dị, mộc mạc, mang đậm chất Nam Bộ: gần gũi như giọng kể dân gian, làm tăng thêm tính chân thực và cảm xúc.
- Giọng điệu nhẹ nhàng, trầm tĩnh: không lên án, không bi lụy, nhưng để lại dư âm xót xa, day dứt.
* Kết bài:
- Khẳng định lại: Khờ là nhân vật tiêu biểu cho nghệ thuật kể chuyện giàu tính nhân văn của Nguyễn Ngọc Tư.
- Truyện ngắn không chỉ là bi kịch cá nhân, mà còn gợi suy tư về những thân phận yếu thế, những đức tin sai chỗ, những tình thương thiếu hụt trong cuộc sống hiện đại.
- Liên hệ mở rộng: “Đá trổ bông” không chỉ là giấc mộng của Khờ, mà là giấc mộng thức tỉnh lòng trắc ẩn, nhắc nhở con người đừng vô cảm với những phận đời nhỏ nhoi quanh mình.
Bài văn tham khảo
Nguyễn Ngọc Tư – cây bút Nam Bộ luôn lặng lẽ mở ra trước mắt chúng ta những cánh đồng bát ngát của ký ức và những kiếp người nhỏ nhoi – trong truyện ngắn “Đá trổ bông” đã thổi vào văn đàn đương đại một nốt lặng nghẹn ngào. Câu chuyện về Khờ – chàng trai sống vắt vẻo trên ngọn núi Trời với lời hứa “chờ đá trổ bông mẹ sẽ về” – không chỉ gợi xót xa cho một phận đời bất hạnh, mà còn trở thành tấm gương soi chiếu lòng nhân và niềm tin của con người giữa bể dâu cuộc sống.
Ngay từ những dòng mở đầu, nhân vật Khờ hiện ra bằng nét phác giản dị: “thằng nhỏ gánh nước… đang bốc khói”. Trong thân xác một người đàn ông gần ba mươi lại ẩn chứa trí tuệ của đứa trẻ lên năm. Tuổi thơ của Khờ khép lại từ ngày mẹ dắt cậu lên ngọn núi rồi bỏ đi biệt dạng. Hình ảnh “đá trổ bông” – vốn là lời dối ỡm ờ của người mẹ trẻ – biến thành sợi dây vô hình trói Khờ vào đỉnh núi hoang vu suốt ba mươi năm dài. Cuộc đời ấy là vòng tròn khép kín của chờ đợi: chờ đá nở hoa, chờ mẹ trở về, chờ điều không thể thành hiện thực. Ở Khờ, Nguyễn Ngọc Tư đã gửi gắm bóng dáng của biết bao mảnh đời thiệt thòi: bị bỏ quên, bị cắt đứt khỏi dòng chảy xã hội, chỉ bám víu vào một niềm tin mong manh để tồn tại.
Nhưng “Đá trổ bông” không dừng ở nỗi bi thương. Sau lớp sương khốn khổ, Khờ tỏa sáng một vẻ đẹp tinh thần hiếm có. Cậu hiền lành, chất phác như cỏ dại: gánh từng thùng nước mưa cho cả xóm, cọ đá trơn bậc thang, cõng bà Chín Sầu Đâu đi hốt thuốc, hái củi chất đầy miễu hoang cho dân núi dùng quanh năm. Dẫu nghèo đói cả vật chất lẫn yêu thương, Khờ vẫn gieo vào người khác hơi ấm “chắc nịch” khó lí giải. Niềm tin hồn nhiên – tưởng chừng trẻ con – lại là sức mạnh phi thường giúp cậu vượt qua bão sét, vượt qua hoang hoải của kiếp người. Thứ niềm tin “ngây khờ” ấy hóa thành niềm thủy chung tuyệt đối: Khờ không đi đâu, bởi “đá chưa nở bông nào”. Chính sự kiên định thuần khiết ấy khiến người đọc vừa thương cảm vừa kính phục: Khờ đã chọn yêu thương vô điều kiện, chọn ở lại để canh giữ một lời hứa, dù người hứa từ lâu đã quay lưng.
Thành công của truyện còn đến từ bút pháp kể chuyện tinh tế. Tác giả để “tôi” quan sát Khờ, nhờ thế nhân vật được khắc họa gián tiếp, chân thực. Điểm nhìn đan xen: cái tò mò của người lạ, cái thương mến của cư dân núi Xanh, cái hờ hững trêu ngươi của du khách – tất cả hợp thành bức tranh đa thanh, giúp Khờ hiện lên vừa ngô nghê vừa quật cường. Giọng văn Nam Bộ mộc mạc, tiết chế: “trửng giỡn”, “miễu”, “hong bị trời đánh”…, hệt hơi thở đời sống thô mộc nhưng đậm tình. Không bi lụy, không lên án, Nguyễn Ngọc Tư để câu chữ lặng lẽ chảy, đủ lâu để dư vị buồn ngấm vào người đọc.
Khép trang truyện, bóng Khờ lững thững khuất sau mô đá khô khốc, còn độc giả thì bỗng ngẫm: mỗi chúng ta liệu có đang ôm ấp một “đá trổ bông” nào đó – một ảo vọng xa vời nhưng giúp ta đứng vững giữa đời? “Đá trổ bông” không chỉ kể bi kịch của kẻ thiểu năng bị bỏ rơi; truyện đánh thức lòng trắc ẩn trong mỗi người, nhắn gửi rằng: nếu đời còn những Khờ tin đá sẽ nở hoa, thì đời càng cần những tấm lòng biết nở hoa trước tiên. Và khi con người biết nuôi dưỡng nhân ái, biết chịu trách nhiệm với lời hứa, đá vô tri dẫu không kết nhụy, vẫn sẽ bừng nở những bông hoa của tình thương trong trái tim người ở lại.
Lời giải
Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.
Lời giải
Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.
Lời giải
Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.
Lời giải
Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.