CON THÚ LỚN NHẤT
(Nguyễn Huy Thiệp)
Ngày ấy, ở Hua Tát có một gia đình ngụ cư không biết ở mường nào chuyển đến. Họ dựng nhà ở ngoài rìa bản, chỗ gần rừng ma. Nhà ấy chỉ có hai vợ chồng đều luống tuổi. Họ đi đâu cũng có nhau. Người vợ lúc nào cũng âm thầm, im lặng, suốt ngày không hề thấy nói một tiếng. Người chồng cao lớn, gầy guộc, mặt sắt lại, mũi như mỏ chim. Đôi mắt của lão đục và sâu hoắm, phảng phất những tia lân tinh lạnh lẽo.
Người chồng là tay thợ săn cự phách. Khẩu súng kíp trong tay lão như có mắt. Mỗi khi khẩu súng giơ lên, ít khi có chim chóc hoặc thú rừng nào thoát chết. Đằng sau nhà lão, lông chim, xương thú chất đầy thành đống. Những đống lông chim xơ xác đen xỉn như màu mực tàu, còn những đống xương thú màu đá vôi thì lốm đốm những vệt nước tủy vàng khè, hôi hám. Những đống ấy to như những cái mả. Lão thợ săn như là hiện thân thần Chết của rừng. Chim chóc và thú rừng sợ hãi lão. Cánh thợ săn ở Hua Tát vừa ghen tị, vừa bất bình với lão. Lão không tha bất cứ con vật nào trong tầm súng của mình. Có người kể rằng đã tận mắt nhìn thấy lão bắn chết một con công đang múa. Một con công đang múa nhé: cái đầu cong như lá lúa, cái đuôi xòe nửa vòng cung với đủ màu sắc, tia nắng mặt trời hắt ánh lửa lấp lánh như vàng, đôi chân kheo khéo lượn vòng. Chỉ có tình yêu thì mới lượn vòng tinh tế như thế. Con công đang múa, thế mà - “Đùng” - khẩu súng trong tay lão già giật lên, phụt ra một lưỡi lửa đỏ. Con công ngã gục, cái cánh có ánh cầu vồng ngũ sắc nhòe máu. Vợ lão già đến, khô đét, đen ngòm, âm thầm nhặt con công cho vào cái lếp sau lưng.
Tuy vậy, suốt đời lão già chỉ săn được những con chim, con thú bình thường. Lão già chưa bao giờ săn được con thú lớn ba bốn tạ thịt. Khẩu súng lão chỉ bắn được những con vật nhỏ ngu ngốc. Đấy chính là điều lão già khổ tâm, dằn vặt. Cả bản Hua Tát xa lánh vợ chồng lão, không ai nói chuyện, chơi bời với gia đình lão. Nhìn thấy vợ chồng lão, người ta tránh ngoắt đi. Cứ thế, lão thợ săn sống cô đơn bên người vợ âm thầm.
Cuối năm ấy, ở Hua Tát động rừng, cây cối xơ xác, chim chóc trốn biệt, không có dấu chân một con thú nào trong rừng. Chưa bao giờ người Hua Tát sống vất vả đến thế. Người ta đồn là Then bắt đầu trừng phạt. Lão thợ săn ngụ cư kiếm ăn cũng rất khó khăn. Vợ chồng lão lang thang khắp rừng. Lần đầu tiên trong đời lão già gặp phải cảnh này. Ba tuần trăng, khẩu súng của lão không hề được nổ. Lão già dậy từ gà gáy canh ba vác súng đi đến tối mịt. Người vợ gầy của lão không còn đủ sức đi theo chồng nữa. Mụ ở nhà nhóm lửa chờ đợi. Ngọn lửa mụ nhóm như có ma ám, không đỏ mà lại xanh lét như mắt chó sói.
Lần ấy lão già đi vắng cả tuần liền. Người lão mệt lả. Đầu gối lão chùn xuống, các bắp thịt nhão ra tưởng chừng có thể dùng tay bấu được như bấu những con vắt nhẽo bết máu. Lão đã lết khắp nơi mà không gặp gì. Đến một con chim sâu, thậm chí một con bướm lão cũng không thấy. Lão hoang mang sợ hãi. Then đã trừng phạt thế gian như lời người ta đồn đại hay chăng?
Cuối cùng, mệt lả, lão già kiệt sức phải lết về nhà. Đến con suối đầu bản, lão dừng lại nhìn về nhà mình. Nhà lão có ánh lửa, cái ánh lửa xanh lét, chắc là vợ lão vẫn thức đợi chồng. Lão nhắm nghiền đôi mắt đục và sâu hoắm lại. Ngẫm nghĩ một lát, lão lộn lại rừng. Mũi lão đã đánh hơi thấy mùi thú…Lão gặp may thật. Lão đã nhìn thấy nó. Cái con công ấy đang múa. Kìa, đôi chân con công di chuyển nhẹ nhàng về phía bên phải, cái đuôi xòe thành đường tròn lại dịch về phía bên trái, cái ánh xanh gay gắt trên túm lông dầu của nó rực rỡ làm sao! Lão già giương súng lên: “Đùng!” Phát súng nổ. Lão nghe thấy tiếng rú thất thanh. Lão chạy lại con thú bị bắn ngã. Đấy là vợ lão. Mụ đi ra rừng đợi lão, tay mụ còn cầm bộ lông chim công.
Lão thợ săn nằm sấp xuống, úp mặt vào vũng máu trên lớp lá mục nồng nồng, ngái và hoi như mùi chuột. Miệng lão hộc lên như tiếng lợn lòi. Lão nằm thế rất lâu. Mây đen sà xuống thấp, khu rừng tối sẫm, nóng hâm hấp như da người sốt. Gần sáng, lão già .. bỗng đứng phắt dậy nhanh như con sóc. Lão nảy ý định lấy xác vợ lão làm mồi để săn con thú, con thú lớn nhất đời mình. Lão nằm trong bụi cây gần cái xác thối rữa của vợ lão một sải tay, đạn lên nòng, khắc khoải chờ đợi. Nhưng Then đã trừng phạt lão. Không có con thú nào đến với lão, chỉ có cái chết đến với lão.
Ba ngày sau, người ta lôi cái xác còng queo của lão ra khỏi bụi cây. Một vết đạn xuyên qua trán lão. Lão đã bắn được con thú lớn nhất đời mình.
(Trích Những ngọn gió Hua Tát, Tuyển tập Nguyễn Huy Thiệp)
* Chú thích: Nguyễn Huy Thiệp là hiện tượng độc đáo của văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới, để lại sức ảnh hưởng và dấu ấn lớn trên văn đàn. Ông viết nhiều thể loại: truyện ngắn, thơ, tiểu thuyết, tiểu luận văn chương, kịch... nhưng đặc sắc nhất là truyện ngắn. Truyện ngắn của ông có cấu trúc, nhân vật, ngôn ngữ, cách triển khai riêng biệt, lối văn tự sự mang xu hướng tự thuật, cô đọng, ngắn gọn. Một trong những mảng đề tài đặc sắc nhất của truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp là nông thôn, với Chảy đi sông ơi (1985), Những bài học nông thôn (1988), Thương nhớ đồng quê (1992)... Mảng đề tài thứ hai là về miền rừng núi, mang dấu ấn 10 năm ông dạy học ở Tây Bắc. Đó là những truyện ngắn xuất sắc: Những ngọn gió Hua Tát (1971-1986), Muối của rừng (1986).
Xác định đề tài của văn bản Con thú lớn nhất.
CON THÚ LỚN NHẤT
(Nguyễn Huy Thiệp)
Ngày ấy, ở Hua Tát có một gia đình ngụ cư không biết ở mường nào chuyển đến. Họ dựng nhà ở ngoài rìa bản, chỗ gần rừng ma. Nhà ấy chỉ có hai vợ chồng đều luống tuổi. Họ đi đâu cũng có nhau. Người vợ lúc nào cũng âm thầm, im lặng, suốt ngày không hề thấy nói một tiếng. Người chồng cao lớn, gầy guộc, mặt sắt lại, mũi như mỏ chim. Đôi mắt của lão đục và sâu hoắm, phảng phất những tia lân tinh lạnh lẽo.
Người chồng là tay thợ săn cự phách. Khẩu súng kíp trong tay lão như có mắt. Mỗi khi khẩu súng giơ lên, ít khi có chim chóc hoặc thú rừng nào thoát chết. Đằng sau nhà lão, lông chim, xương thú chất đầy thành đống. Những đống lông chim xơ xác đen xỉn như màu mực tàu, còn những đống xương thú màu đá vôi thì lốm đốm những vệt nước tủy vàng khè, hôi hám. Những đống ấy to như những cái mả. Lão thợ săn như là hiện thân thần Chết của rừng. Chim chóc và thú rừng sợ hãi lão. Cánh thợ săn ở Hua Tát vừa ghen tị, vừa bất bình với lão. Lão không tha bất cứ con vật nào trong tầm súng của mình. Có người kể rằng đã tận mắt nhìn thấy lão bắn chết một con công đang múa. Một con công đang múa nhé: cái đầu cong như lá lúa, cái đuôi xòe nửa vòng cung với đủ màu sắc, tia nắng mặt trời hắt ánh lửa lấp lánh như vàng, đôi chân kheo khéo lượn vòng. Chỉ có tình yêu thì mới lượn vòng tinh tế như thế. Con công đang múa, thế mà - “Đùng” - khẩu súng trong tay lão già giật lên, phụt ra một lưỡi lửa đỏ. Con công ngã gục, cái cánh có ánh cầu vồng ngũ sắc nhòe máu. Vợ lão già đến, khô đét, đen ngòm, âm thầm nhặt con công cho vào cái lếp sau lưng.
Tuy vậy, suốt đời lão già chỉ săn được những con chim, con thú bình thường. Lão già chưa bao giờ săn được con thú lớn ba bốn tạ thịt. Khẩu súng lão chỉ bắn được những con vật nhỏ ngu ngốc. Đấy chính là điều lão già khổ tâm, dằn vặt. Cả bản Hua Tát xa lánh vợ chồng lão, không ai nói chuyện, chơi bời với gia đình lão. Nhìn thấy vợ chồng lão, người ta tránh ngoắt đi. Cứ thế, lão thợ săn sống cô đơn bên người vợ âm thầm.
Cuối năm ấy, ở Hua Tát động rừng, cây cối xơ xác, chim chóc trốn biệt, không có dấu chân một con thú nào trong rừng. Chưa bao giờ người Hua Tát sống vất vả đến thế. Người ta đồn là Then bắt đầu trừng phạt. Lão thợ săn ngụ cư kiếm ăn cũng rất khó khăn. Vợ chồng lão lang thang khắp rừng. Lần đầu tiên trong đời lão già gặp phải cảnh này. Ba tuần trăng, khẩu súng của lão không hề được nổ. Lão già dậy từ gà gáy canh ba vác súng đi đến tối mịt. Người vợ gầy của lão không còn đủ sức đi theo chồng nữa. Mụ ở nhà nhóm lửa chờ đợi. Ngọn lửa mụ nhóm như có ma ám, không đỏ mà lại xanh lét như mắt chó sói.
Lần ấy lão già đi vắng cả tuần liền. Người lão mệt lả. Đầu gối lão chùn xuống, các bắp thịt nhão ra tưởng chừng có thể dùng tay bấu được như bấu những con vắt nhẽo bết máu. Lão đã lết khắp nơi mà không gặp gì. Đến một con chim sâu, thậm chí một con bướm lão cũng không thấy. Lão hoang mang sợ hãi. Then đã trừng phạt thế gian như lời người ta đồn đại hay chăng?
Cuối cùng, mệt lả, lão già kiệt sức phải lết về nhà. Đến con suối đầu bản, lão dừng lại nhìn về nhà mình. Nhà lão có ánh lửa, cái ánh lửa xanh lét, chắc là vợ lão vẫn thức đợi chồng. Lão nhắm nghiền đôi mắt đục và sâu hoắm lại. Ngẫm nghĩ một lát, lão lộn lại rừng. Mũi lão đã đánh hơi thấy mùi thú…Lão gặp may thật. Lão đã nhìn thấy nó. Cái con công ấy đang múa. Kìa, đôi chân con công di chuyển nhẹ nhàng về phía bên phải, cái đuôi xòe thành đường tròn lại dịch về phía bên trái, cái ánh xanh gay gắt trên túm lông dầu của nó rực rỡ làm sao! Lão già giương súng lên: “Đùng!” Phát súng nổ. Lão nghe thấy tiếng rú thất thanh. Lão chạy lại con thú bị bắn ngã. Đấy là vợ lão. Mụ đi ra rừng đợi lão, tay mụ còn cầm bộ lông chim công.
Lão thợ săn nằm sấp xuống, úp mặt vào vũng máu trên lớp lá mục nồng nồng, ngái và hoi như mùi chuột. Miệng lão hộc lên như tiếng lợn lòi. Lão nằm thế rất lâu. Mây đen sà xuống thấp, khu rừng tối sẫm, nóng hâm hấp như da người sốt. Gần sáng, lão già .. bỗng đứng phắt dậy nhanh như con sóc. Lão nảy ý định lấy xác vợ lão làm mồi để săn con thú, con thú lớn nhất đời mình. Lão nằm trong bụi cây gần cái xác thối rữa của vợ lão một sải tay, đạn lên nòng, khắc khoải chờ đợi. Nhưng Then đã trừng phạt lão. Không có con thú nào đến với lão, chỉ có cái chết đến với lão.
Ba ngày sau, người ta lôi cái xác còng queo của lão ra khỏi bụi cây. Một vết đạn xuyên qua trán lão. Lão đã bắn được con thú lớn nhất đời mình.
(Trích Những ngọn gió Hua Tát, Tuyển tập Nguyễn Huy Thiệp)
* Chú thích: Nguyễn Huy Thiệp là hiện tượng độc đáo của văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới, để lại sức ảnh hưởng và dấu ấn lớn trên văn đàn. Ông viết nhiều thể loại: truyện ngắn, thơ, tiểu thuyết, tiểu luận văn chương, kịch... nhưng đặc sắc nhất là truyện ngắn. Truyện ngắn của ông có cấu trúc, nhân vật, ngôn ngữ, cách triển khai riêng biệt, lối văn tự sự mang xu hướng tự thuật, cô đọng, ngắn gọn. Một trong những mảng đề tài đặc sắc nhất của truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp là nông thôn, với Chảy đi sông ơi (1985), Những bài học nông thôn (1988), Thương nhớ đồng quê (1992)... Mảng đề tài thứ hai là về miền rừng núi, mang dấu ấn 10 năm ông dạy học ở Tây Bắc. Đó là những truyện ngắn xuất sắc: Những ngọn gió Hua Tát (1971-1986), Muối của rừng (1986).
Câu hỏi trong đề: (Ngữ liệu ngoài sgk) Con thú lớn nhất !!
Quảng cáo
Trả lời:
- Đề tài của văn bản: người đi săn.
Câu hỏi cùng đoạn
Câu 2:
Chỉ ra dấu hiệu nhận biết ngôi kể, điểm nhìn của người kể chuyện.
Chỉ ra dấu hiệu nhận biết ngôi kể, điểm nhìn của người kể chuyện.
Lời giải của GV VietJack
- Người kể chuyện sử dụng ngôi kể thứ ba, điểm nhìn toàn tri.
- Dấu hiệu nhận biết: người kể chuyện xưng hô với nhân vật là “lão, mụ”; người kể không tham gia vào câu chuyện, quan sát từ bên ngoài và kể lại toàn bộ câu chuyện.
Câu 3:
Truyện được chia làm mấy phần? Nêu nội dung chính của từng phần.
Truyện được chia làm mấy phần? Nêu nội dung chính của từng phần.
Lời giải của GV VietJack
Truyện được chia làm ba phần:
- Phần thứ nhất (từ đầu đến những tia lân tinh lạnh lẽo): Giới thiệu các nhân vật (vợ chồng lão thợ săn).
- Phần thứ hai (tiếp đến bên người vợ âm thầm): Tài bắn “bách phát bách trúng” của gã thợ săn với biệt danh “thần Chết của rừng” cùng khát vọng bắn được con thú lớn của gã.
- Phần thứ ba (còn lại): Gã thợ săn và “con thú lớn nhất” trong đời săn bắn của gã.
Câu 4:
Phân tích hiệu quả nghệ thuật của biện pháp tu từ ẩn dụ trong câu văn sau: Con công đang múa, thế mà - “Đùng” - khẩu súng trong tay lão già giật lên, phụt ra một lưỡi lửa đỏ. Con công ngã gục, cái cánh có ánh cầu vồng ngũ sắc nhòe máu.
Phân tích hiệu quả nghệ thuật của biện pháp tu từ ẩn dụ trong câu văn sau: Con công đang múa, thế mà - “Đùng” - khẩu súng trong tay lão già giật lên, phụt ra một lưỡi lửa đỏ. Con công ngã gục, cái cánh có ánh cầu vồng ngũ sắc nhòe máu.
Lời giải của GV VietJack
Phân tích hiệu quả nghệ thuật của biện pháp tu từ:
- Ẩn dụ: con công múa, cái cánh ánh cầu vồng ngũ sắc; khẩu súng. Hình ảnh con công: tượng trưng cho cái đẹp; khẩu súng: biểu tượng của sự tàn ác, nhẫn tâm.
- Hiệu quả nghệ thuật:
+ Làm tăng tính gợi hình, gợi cảm, cô đọng, hàm súc, đa nghĩa cho lời văn.
+ Thể hiện bản chất tàn bạo của lão thợ săn. Cái đẹp, vũ điệu của con công không thể cảm hoá được lão thợ săn. Họng súng của hắn như mù loà tàn nhẫn giương lên bắn chết con công.
+ Nỗi day dứt của nhà văn trước bản chất bạo tàn của con người.
Câu 5:
Phân tích một chi tiết khiến anh/ chị ấn tượng nhất trong văn bản.
Phân tích một chi tiết khiến anh/ chị ấn tượng nhất trong văn bản.
Lời giải của GV VietJack
Thí sinh chọn và phân tích một chi tiết đặc sắc khiến bản thân tượng nhất trong văn bản. Chẳng hạn:
- Chi tiết mỗi khi khẩu súng giơ lên, ít khi có chim chóc hoặc thú rừng nào thoát chết tô đậm ấn tượng về khả năng bắn trúng mục tiêu của lão thợ săn.
Hoặc:
- Chi tiết đằng sau nhà lão, lông chim, xương thú chất đầy thành đống chứng tỏ lão thợ săn đã bắn chết rất nhiều muông thú.
Hoặc:
- Chi tiết lão thợ săn như là hiện thân thần Chết của rừng mô tả sự gớm ghiếc của nhân vật, ẩn chứa nỗi ám ảnh, kinh hoàng về sự tàn độc của nhân vật.
Hoặc:
- Chi tiết lão thợ săn bắn chết con công đang múa (thường thì loài công chỉ xoè đuôi múa để hấp dẫn bạn tình trong mùa giao phối) khắc hoạ sự tính cách vô tình, vô cảm trước cái đẹp và tình yêu, sự tàn độc đến kiệt cùng của tay thợ săn.
Câu 6:
Anh/ Chị hãy nêu nhận xét về ước mơ lớn nhất đời mình của nhân vật lão thợ săn.
Anh/ Chị hãy nêu nhận xét về ước mơ lớn nhất đời mình của nhân vật lão thợ săn.
Lời giải của GV VietJack
- Ước mơ của lão thợ săn là săn được con thú lớn nhất đời mình.
- Nhận xét:
+ Ước mơ của lão thợ săn gắn liền với tham vọng. Hành trình thực hiện ước mơ chính là hành trình hoá thú của một con người. Bản năng thú tính trỗi dậy, lớn dần, lấn át phần người và lão trở thành con mãnh thú đáng sợ.
+ Tư tưởng của nhà văn: cảnh tỉnh con người về hậu quả của lối sống bản năng, tàn nhẫn, vô nhân tính.
Câu 7:
Nêu triết lí nhân sinh của truyện.
Nêu triết lí nhân sinh của truyện.
Lời giải của GV VietJack
Thí sinh có thể chỉ ra một vài triết lí nhân sinh trong truyện Con thú lớn nhất.
- Triết lí nhân sinh được biểu hiện trực tiếp qua lời của người kể chuyện: Chỉ có tình yêu thì mới lượn vòng tinh tế như thế.
- Triết lí nhân sinh được gián tiếp biểu hiện qua sự kiện lão thợ săn bắn nhầm phải vợ lão: “ác giả ác báo”, “gieo nhân nào gặt quả ấy” (Lão đã giết rất nhiều muông thú trong rừng, đã tàn độc, vô tình trước tình yêu nên chính lão đã bị trả giá bởi sự tàn độc và vô tình của mình: bắn trúng phải người vợ đầu gối tay kề với lão.)
- Triết lí nhân sinh được gián tiếp biểu hiện qua biểu tượng con thú lớn nhất. Con thú lớn nhất trong mỗi con người chính là sự độc ác, vô tâm, vô tình trong bản thân của chúng ta. Đó cũng chính là con thú lớn nhất chúng ta nên săn lùng để tiêu diệt trong hành trình sống của mình.
Câu 8:
Từ chủ đề của câu chuyện, anh/ chị hãy chia sẻ góc nhìn của mình về lối sống bản năng của con người.
Từ chủ đề của câu chuyện, anh/ chị hãy chia sẻ góc nhìn của mình về lối sống bản năng của con người.
Lời giải của GV VietJack
- Chủ đề của câu chuyện: Bi kịch của lão thợ săn khi chìm trong tham vọng của mình. Truyện có ý nghĩa thức tỉnh mỗi con người về hậu quả của lối sống bản năng. Con người cần đấu tranh với chính mình để hoàn thiện nhân cách.
- Chia sẻ góc nhìn của bản thân: trong mỗi con người đều có phần bản năng và ý thức xã hội. Nếu phần bản năng không được kiểm soát, con người sẽ sa xuống thành loài mãnh thú tàn bạo. Câu chuyện của Nguyễn Huy Thiệp đã gióng lên hồi chuông cảnh báo về hiện tượng người tha hoá, mất nhân tính trong xã hội hiện nay.
(Lưu ý: Chấp nhận những chia sẻ và góc nhìn chủ quan của HS, nếu lí giải thuyết phục)
Câu 9:
Chỉ ra một thông điệp mà anh/ chị rút ra từ văn bản truyện.
Chỉ ra một thông điệp mà anh/ chị rút ra từ văn bản truyện.
Lời giải của GV VietJack
Thông điệp mà anh/ chị rút ra từ văn bản truyện:
- Hãy sống hòa hợp, nhân ái với thiên nhiên.
- Ở hiền gặp lành, ở ác gặp ác.
Câu 10:
Từ ngữ liệu ở phần đọc hiểu, anh/ chị hãy viết đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày cảm nhận về chi tiết: “Một vết đạn xuyên qua trán lão. Lão đã bắn được con thú lớn nhất đời mình”.
Từ ngữ liệu ở phần đọc hiểu, anh/ chị hãy viết đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày cảm nhận về chi tiết: “Một vết đạn xuyên qua trán lão. Lão đã bắn được con thú lớn nhất đời mình”.
Lời giải của GV VietJack
- Đảm bảo yêu cầu về hình thức, dung lượng
+ Viết đúng hình thức đoạn văn (diễn dịch, quy nạp, móc xích…).
+ Đảm bảo dung lượng khoảng 200 chữ.
- Xác định đúng vấn đề nghị luận
+ Cảm nhận về chi tiết: “Một vết đạn xuyên qua trán lão. Lão đã bắn được con thú lớn nhất đời mình” trong văn bản Con thú lớn nhất – Nguyễn Huy Thiệp.
- Hệ thống ý:
* Vị trí của chi tiết trong mạch truyện: chi tiết lão thợ săn tự bắn vào trán mình, đó là lúc hắn bắn được con thú lớn nhất đời mình nằm ở phần kết thúc truyện.
* Phân tích giá trị của chi tiết:
+ Giá trị nội dung:
. Bộc lộ ý nghĩa nhan đề: Nhan đề đặt ra một ẩn số về con thú lớn nhất mà lão thợ săn mong ước cả đời. Chi tiết kết thúc truyện đã bất ngờ hé lộ, hoá ra con thú lớn nhất đời không phải con vật trong thế giới tự nhiên mà là con thú tồn tại ngay trong bản thân người thợ săn.
. Thể hiện tính cách nhân vật: bạo tàn, vô nhân tính. Con thú lớn nhất là hình ảnh ẩn dụ cho phần con, phần bản năng. Khi phần lương tri mất đi, phần bản năng chi phối hành động, suy nghĩ, lối sống thì lão thợ săn sa xuống thành loài ác thú. Vì vậy, cuộc đời lão thợ săn kết thúc trong bi kịch.
+ Thể hiện chủ đề của tác phẩm: nhà văn trăn trở trước vấn đề con người tha hoá, vô nhân tính trong xã hội hiện nay.
- Giá trị nghệ thuật: làm tăng tính sinh động, hấp dẫn cho câu chuyện; là mảnh ghép không thể thiếu của cốt truyện.
* Đánh giá: chi tiết nghệ thuật độc đáo, đặc sắc làm nên tầm vóc nhà văn lớn; nhà văn thức tỉnh con người đấu tranh với phần bản năng để hoàn thiện phần người cao quý.
- Phát triển đoạn văn logic, thuyết phục
+ Dẫn chứng từ văn bản để minh chứng cho nhận định.
+ Thể hiện rõ cảm nhận, suy nghĩ về chi tiết trong truyện.
- Đảm bảo ngữ pháp, liên kết:
+ Trình bày rõ ràng, mạch lạc, không mắc lỗi chính tả.
- Sáng tạo
+ Cách diễn đạt mới mẻ, có suy nghĩ sâu sắc về văn bản truyện.
Đoạn văn tham khảo
Chi tiết “Một vết đạn xuyên qua trán lão. Lão đã bắn được con thú lớn nhất đời mình” nằm ở phần kết thúc truyện Con thú lớn nhất của Nguyễn Huy Thiệp, là một cú chốt bất ngờ nhưng đầy ám ảnh, mở ra tầng sâu tư tưởng cho toàn bộ văn bản. Suốt cuộc đời, lão thợ săn khát khao săn được “con thú lớn nhất”, nhưng nghịch cảnh và bản chất tàn độc đã đẩy lão đi đến hành vi vô nhân tính: bắn chết chính vợ mình. Từ đó, nhà văn hé lộ: con thú lớn nhất đời người không nằm trong rừng thẳm mà trú ngụ ngay trong bản thân mỗi người – chính là phần bản năng, phần “con” vô thức và hung bạo. Khi phần người bị đánh mất, con người sẽ biến thành ác thú. Chi tiết vết đạn xuyên qua trán lão không chỉ là cái chết về thể xác, mà còn là sự trừng phạt đích đáng cho kẻ đã đánh mất nhân tính. Đồng thời, chi tiết này góp phần lý giải nhan đề, hoàn tất cấu trúc truyện và thể hiện chủ đề lớn: nỗi trăn trở về con người đang dần tha hóa trong xã hội hiện đại. Với cách kết cấu chặt chẽ, biểu tượng giàu sức gợi và kết thúc bất ngờ, Nguyễn Huy Thiệp đã để lại một dấu ấn nghệ thuật sâu sắc, thức tỉnh độc giả về nhu cầu đấu tranh để hoàn thiện phần “người” trong mỗi chúng ta.
Hot: 500+ Đề thi thử tốt nghiệp THPT các môn, ĐGNL các trường ĐH... file word có đáp án (2025). Tải ngay
CÂU HỎI HOT CÙNG CHỦ ĐỀ
Lời giải
- Đảm bảo yêu cầu về hình thức, dung lượng
+ Viết đúng hình thức bài văn đầy đủ ba phần Mở bài, Thân bài, Kết bài.
+ Đảm bảo dung lượng khoảng 600 chữ.
- Xác định đúng vấn đề nghị luận: Phân tích truyện ngắn “Con thú lớn nhất” của Nguyễn Huy Thiệp.
- Lựa chọn được các thao tác lập luận phù hợp; kết hợp nhuần nhuyễn lí lẽ và dẫn chứng; trình bày được hệ thống ý phù hợp theo bố cục ba phần của bài văn nghị luận. Có thể triển khai theo hướng:
* Mở bài:
- Giới thiệu tác giả Nguyễn Huy Thiệp – cây bút tiêu biểu của văn học đổi mới, nổi tiếng với văn phong sắc lạnh, phản ánh mặt tối của con người.
- Dẫn vào truyện ngắn “Con thú lớn nhất” – một tác phẩm mang giọng điệu bi kịch, kết hợp chất huyền thoại và hiện thực, với hình tượng ẩn dụ đầy ám ảnh: “con thú lớn nhất đời người”.
* Thân bài:
1. Khái quát nội dung và tình huống truyện
- Câu chuyện kể về một lão thợ săn sống biệt lập cùng vợ già bên rừng Hua Tát.
- Lão giết hại không thương tiếc mọi sinh vật rừng, nhưng lại đau đáu khát vọng săn được “con thú lớn nhất đời mình”.
- Bi kịch xảy ra khi lão vô tình giết chết vợ mình và cuối cùng chết bên xác vợ trong nỗi ám ảnh và tuyệt vọng.
2. Phân tích nhân vật lão thợ săn – trung tâm của truyện
a. Một con người bạo tàn, vô cảm, sống bằng bản năng
- Sở hữu khả năng săn bắn siêu phàm, lão coi việc giết chóc là lẽ sống duy nhất.
- Lạnh lùng bắn chết cả những sinh vật đẹp đẽ như chim công đang múa – biểu tượng của sự sống, của tình yêu.
- Không hề rung động trước cái chết, kể cả của chính vợ mình – người đồng hành âm thầm, cam chịu.
b. Khát vọng săn “con thú lớn nhất” – biểu tượng cho tham vọng mù quáng
- Cả đời lão chỉ săn được thú nhỏ, điều này khiến lão ám ảnh, dằn vặt.
- “Con thú lớn nhất” không có hình thù cụ thể, là một ẩn dụ cho dục vọng, quyền lực, sự khẳng định bản ngã.
- Khát vọng này đã đẩy lão đến bước tận diệt chính tình thân, rồi điên loạn và chết thảm.
3. Phân tích chi tiết kết thúc – “Lão đã bắn được con thú lớn nhất đời mình”
- Chi tiết gây ám ảnh: lão tự kết liễu cuộc đời mình bằng một viên đạn.
-> Hé lộ: “con thú lớn nhất” không nằm ngoài kia, mà nằm ngay trong chính lão – phần bản năng thú tính, sự tha hóa, vô nhân tính.
- Khi phần “người” bị lấn át, con người trở thành chính thú dữ – đáng sợ hơn cả thú hoang.
- Bi kịch này mang tính ẩn dụ sâu sắc cho hiện thực: con người nếu bị dẫn dắt bởi bản năng, sẽ tự hủy hoại bản thân và những điều thiêng liêng nhất.
4. Giá trị tư tưởng và nghệ thuật của tác phẩm
a. Giá trị tư tưởng
- Phê phán con người sống vô cảm, bị chi phối bởi dục vọng và bản năng.
- Cảnh tỉnh con người hiện đại về sự tha hóa, đánh mất nhân tính.
- Đặt ra câu hỏi đạo đức: đâu là ranh giới giữa con người và con thú?
b. Giá trị nghệ thuật
- Giọng văn lạnh lùng, dữ dội, đậm tính biểu tượng và ẩn dụ.
- Miêu tả sắc sảo, giàu sức gợi – nhất là trong những cảnh giết chóc và cái chết.
- Xây dựng nhân vật và chi tiết giàu tính hình tượng – điển hình là hình ảnh “con thú lớn nhất”.
* Kết bài:
- Khẳng định: “Con thú lớn nhất” là một truyện ngắn giàu triết lý nhân sinh sâu sắc, thể hiện tài năng độc đáo của Nguyễn Huy Thiệp trong việc phơi bày mặt tối của con người.
- Tác phẩm là lời cảnh tỉnh: Hãy giữ phần “người” trong chính mình để không trở thành “con thú lớn nhất” đáng sợ nhất.
Bài văn tham khảo
Trong nền văn học Việt Nam hiện đại, Nguyễn Huy Thiệp là một cây bút độc đáo, luôn khiến người đọc phải đối diện với những sự thật trần trụi và đau đớn về con người. Truyện ngắn “Con thú lớn nhất” là một tác phẩm tiêu biểu cho phong cách ấy – dữ dội, sắc lạnh và đầy ám ảnh. Bằng một hình tượng ẩn dụ xuyên suốt – “con thú lớn nhất” – Nguyễn Huy Thiệp không chỉ kể một câu chuyện về rừng núi, về con người vùng cao mà còn gióng lên một hồi chuông cảnh tỉnh về sự tha hóa, về mặt tối trong mỗi cá thể người.
Truyện xoay quanh nhân vật chính là một lão thợ săn sống cùng vợ nơi rừng Hua Tát. Lão nổi tiếng vì khả năng sát hại mọi sinh vật trong rừng với khẩu súng kíp “như có mắt”. Chim chóc, thú rừng đều chết dưới tay lão, ngay cả một con công đang múa – biểu tượng của cái đẹp, của tình yêu – cũng không được tha. Nhưng suốt đời, lão không bao giờ đạt được điều mà lão ao ước nhất: săn được “con thú lớn nhất”. Khát vọng tưởng chừng vô hại ấy lại chính là thứ thúc đẩy lão bước vào con đường tha hóa hoàn toàn – bắn chết cả người vợ hiền lành, âm thầm sống bên lão. Từ một kẻ sát sinh vô cảm, lão trở thành kẻ giết người không chút lương tri, để rồi sau đó, chết cô độc và kinh hoàng bên xác vợ mình.
Chi tiết kết thúc truyện – “Một vết đạn xuyên qua trán lão. Lão đã bắn được con thú lớn nhất đời mình” – là một chi tiết biểu tượng đầy ám ảnh và lật ngược toàn bộ mạch truyện. Hóa ra, con thú lớn nhất đời lão không phải là một con hổ, một con lợn rừng nặng ba bốn tạ, mà chính là bản thân lão – phần thú tính, phần bản năng tàn bạo tồn tại trong con người. Lão đã phải tự hạ thủ chính mình để giết chết “con thú” đó – một kết thúc vừa bi thương vừa mang tính trừng phạt. Nguyễn Huy Thiệp đã ngầm khẳng định: khi phần người bị đánh mất, con người sẽ sa xuống thành loài ác thú. Và bi kịch ấy không chỉ là cá nhân, mà còn là hồi chuông nhức nhối về một xã hội đầy rẫy sự vô cảm, nơi bản năng dễ dàng thắng lương tri.
Giá trị của truyện không chỉ nằm ở tư tưởng sâu sắc mà còn thể hiện qua thủ pháp nghệ thuật điêu luyện. Nguyễn Huy Thiệp sử dụng giọng văn lạnh lùng, sắc sảo, ngôn ngữ giàu sức gợi, xây dựng những chi tiết biểu tượng – từ hình ảnh con công, đống xương thú sau nhà, đến ánh lửa xanh lét... Tất cả tạo nên không khí rờn rợn, ma mị, phảng phất chất huyền thoại nhưng lại vô cùng chân thật trong cảm xúc và suy tư. Nhất là chi tiết cuối cùng – viên đạn xuyên qua trán – không chỉ hoàn thiện cấu trúc truyện mà còn mở ra chiều sâu triết lý nhân sinh.
“Con thú lớn nhất” là một tác phẩm đặc sắc và có giá trị nhân văn sâu sắc. Dưới lớp vỏ truyện rừng rậm, Nguyễn Huy Thiệp đã khám phá tận cùng bản chất con người, chỉ ra bi kịch của những kẻ bị bản năng chi phối, đánh mất nhân tính. Tác phẩm như một lời thức tỉnh gửi tới mỗi chúng ta: hãy luôn giữ gìn phần “người” trong chính mình để không trở thành “con thú lớn nhất” – thứ đáng sợ nhất trên đời.
Lời giải
- Người kể chuyện sử dụng ngôi kể thứ ba, điểm nhìn toàn tri.
- Dấu hiệu nhận biết: người kể chuyện xưng hô với nhân vật là “lão, mụ”; người kể không tham gia vào câu chuyện, quan sát từ bên ngoài và kể lại toàn bộ câu chuyện.
Lời giải
Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.
Lời giải
Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.
Lời giải
Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.
Lời giải
Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.