Câu hỏi:

21/07/2025 31 Lưu

PHIÊN CHỢ GIÁT

(Nguyễn Minh Châu)

(Lược phần đầu: Lão Khúng là người dân đầu tiên lên khai phá vùng đất mới, và con bò Khoang Đen gắn bó với gia đình lão từ những ngày đầu vất vả, khó khăn ấy. Tuy nhiên, nay con bò đã già, dù cả gia đình đều quyến luyến nó, nhưng lão đành phải bán đi. Trên đường đưa con bò xuống thị trấn Cầu Giát để bán, nhân tiện thăm đứa con gái đang trọ học ở đấy, lão đi đến một quyết định…)

Thế rồi đột nhiên lão Khúng đi đến một cái quyết định đầy điên rồ: lão quyết định giải thoát cho con vật! Tự nhiên lão thấy lão đang làm một công việc vô cùng nhân đạo. Cả một đời con vật nai lưng ra kéo cày để nuôi sống gia đình lão, và bây giờ lão đền ơn trả nghĩa cho con vật bằng việc đem bán nó cho người ta giết thịt? Lão thấy lão không còn là giống người nữa…

[…]

Lão nhảy xuống, đi đến bên cạnh con vật, đặt cả hai bàn tay lên cái cổ sần sùi đang đầy hơi sương lẫn mồ hôi, lão vỗ vỗ con vật một hồi rồi cầm cái ách đặt xuống bên cạnh hai chân trước của nó. Con vật ngẩng cao cổ, thè lưỡi liếm lên vai, lên cổ lão, mỗi lần cái lưỡi mềm và ram ráp đụng vào da thịt, lão lại sởn gai ốc, tưởng như con vật đã cảm thấy được lão đang nghĩ gì; đang toan tính những gì; lão đang cởi ách suốt đời cho nó! Lão Khúng tự nhiên trở nên vội vã, lão kéo chiếc xe sang bên vệ đường, đem giấu sau những đám bờ bụi lúp xúp lẫn những tảng đá rồi trở về bên con vật đang đứng đó, nguyên tại chỗ. – Nào, bây giờ thì tao giải thoát cho mày, lão lầm rầm nói với con vật thân yêu bằng cái giọng hơi cau có, mày hầu tao thế là đủ rồi đấy con ạ, bây giờ thì mày hãy đi đi, hãy vào rừng mà sống, cỏ đấy, cỏ trong rừng thiếu gì, mày ăn suốt đời không hết, khát thì có nước suối. Ở đây đi sâu vào bên trong sẽ có một bầy bò hoang. Chúng nó sướng như những bà hoàng, ông hoàng giữa núi non, cây cỏ, chẳng bao giờ phải kéo cày, kéo xe… Hãy đi đi, nào!

Lão cuộn vào năm ngón tay trái cái dây chão đã được tháo ra khỏi mũi con Khoang Đen, dùng đầu dây đánh một cái thật đau vào bên hông, bắt nó phải chạy té vào rừng. Con đường đi đến thế giới tự do của con Khoang Đen thật chẳng khác nào con đường đi đày. Sau lưng nó, lão Khúng lúc nào cũng hầm hầm hè hè giơ cao thanh roi sẵn sàng quất vào mông đến đau điếng nếu nó dừng lại, hoặc ngoái nhìn trở lại.

Cuộc xua đuổi cứ thế diễn ra lặng lẽ giữa đêm trường. Càng xua được con vật dẫn mình vào giữa rừng sâu và càng xa con đường “bò lăn” ở ngoài kia, lão Khúng càng thấy yên tâm, lại thấy có một cái gì khoái lạc, tự thỏa mãn, chẳng lẽ lão cảm thấy được lão đang xua đuổi cái số phận quá đỗi nhọc nhằn của lão ra khỏi ra khỏi đời lão, cái số phận nửa người nửa con vật?

[…]

Sau khi xua được con vật sang bên kia sườn núi đá (…) thì lão Khúng đột ngột quay lưng lại phía nó. Không nói thêm một lời nào, lão bỏ đi, mất hút vào đêm tối. Lão trở về bên chiếc xe bò khi màn đêm đã nhợt trắng. Lão biết rằng từ đây trở đi chỉ còn một phần ba đường đất và đường sá cũng đỡ khốn khổ hơn.

(Lược một đoạn: Lão Khúng thay con bò, tự mình kéo chiếc xe về thị trấn Cầu Giát).

Lão Khúng đi thẳng đến trước một gian phòng cuối dãy mà lão vẫn quen thuộc, ở đấy con gái lão ở chung với mấy cô bạn học lớp dưới. Gian phòng của con lão khóa kín cửa. Lão đang toan gỡ đống củi xuống trước cửa phòng con gái lão thì tự nhiên lão ngớ người ra: lão vừa nhìn thấy một con bò đang nằm nhai cỏ bên vạt sân bóng chuyền của đám con gái ở bên hồi nhà. Ngay lập tức lão giật nảy mình sực nhận ra đích thị là nó, con Khoang Đen của nhà lão, cái con Khoang Đen mà trong đêm khuya khoắt lão đã đích thân dắt vào tận trong rừng thật sâu, rồi lại còn dùng roi vọt đánh đập vô cùng tàn nhẫn để xua nó đi về với cuộc sống tự do.

Con vật ngước cặp mắt đầy nhẫn nhục và sầu não lên nhìn lão Khúng. Đó là cái nhìn của một sinh vật tự nguyện chấp nhận số phận. Đứng lặng thinh bên chiếc xe chất đầy củi mà lão đã thay nó toát mồ hôi một mình kéo về được đến đây, lão Khúng cũng chả biết nói gì với con vật, lại càng không thể tránh móc, lão chỉ đưa mắt nhìn người bạn đời làm ăn thân thiết bằng cái nhìn cũng đầy sầu não và phiền muộn.

(Trích Phiên chợ Giát, Nguyễn Minh Châu, in trong Nguyễn Minh Châu – Tác phẩm chọn lọc, NXB Giáo dục Việt Nam, TP.HCM, 2009, Tr.231-237)

Xác định ngôi kể của người kể chuyện ở văn bản Phiên chợ Giát.

Quảng cáo

Trả lời:

verified
Giải bởi Vietjack

- Người kể chuyện: ngôi thứ ba.

Câu hỏi cùng đoạn

Câu 2:

Liệt kê những chi tiết trong văn bản miêu tả cử chỉ của lão Khúng với con bò khoang đen trước khi lão đưa nó vào rừng.

Xem lời giải

verified Lời giải của GV VietJack

- Những chi tiết miêu tả cử chỉ của lão Khúng với con bò khoang đen trước khi lão đưa nó vào rừng: đặt cả hai bàn tay lên cái cổ sần sùi đang đầy hơi sương lẫn mồ hôi, vỗ vỗ con vật một hồi, cầm cái ách đặt xuống bên cạnh hai chân trước của nó.

Câu 3:

Dựa vào đoạn trích, hãy cho biết: vì sao lão Khúng quyết định giải thoát cho con Khoang Đen?

Xem lời giải

verified Lời giải của GV VietJack

- Nguyên nhân Lão Khúng quyết định giải thoát cho con Khoang Đen là vì: Cả một đời con vật nai lưng ra kéo cày để nuôi sống gia đình lão, và bây giờ lão đền ơn trả nghĩa cho con vật bằng việc đem bán nó cho người ta giết thịt? Lão thấy lão không còn là giống người nữa…

Câu 4:

Trình bày hiệu quả của việc lựa chọn điểm nhìn của người kể chuyện trong văn bản.

Xem lời giải

verified Lời giải của GV VietJack

- Điểm nhìn của người kể chuyện: chủ yếu mượn suy nghĩ, cảm nhận của nhân vật lão Khúng để kể chuyện (điểm nhìn bên trong)

- Hiệu quả:

+ Người kể chuyện có khả năng thâm nhập vào đời sống nội tâm của nhân vật lão Khúng: cho rằng việc trả con bò về rừng là một quyết định nhân văn, kiên quyết đuổi con bò về rừng, thấy sầu não và buồn phiền khi nó quay trở lại.

+ Làm nổi bật vẻ đẹp tâm hồn của nhân vật lão Khúng: một người nông dân chất phác nhưng có những suy nghĩ rất nhân văn và sâu sắc.

Câu 5:

Nêu ý nghĩa của chi tiết ở cuối truyện: con khoang đen không đi vào rừng mà quay trở lại với lão Khúng.

Xem lời giải

verified Lời giải của GV VietJack

Ý nghĩa của chi tiết con khoang đen không đi vào rừng mà quay trở lại với lão Khúng:

+ Làm cho câu chuyện thêm bất ngờ và kịch tính

+ Cho thấy sự trung thành của con khoang đen với chủ. Nó sẵn sàng chấp nhận thân phận vất vả, cực nhọc để sống, gắn bó, đáp lại tình cảm với chủ. Chi tiết này khiến người đọc cảm động và nhận ra: con vật cũng cần được yêu thương, chăm sóc, đối xử tử tế như những người bạn.

Câu 6:

Nhận xét vẻ đẹp tâm hồn của nhân vật lão Khúng được thể hiện trong đoạn trích.

Xem lời giải

verified Lời giải của GV VietJack

* Vẻ đẹp tâm hồn của nhân vật lão Khúng:

–  Biết yêu thương và trân trọng công lao của con Khoang Đen, người bạn đã cùng lão vất vả suốt bao nhiêu năm tháng.

–   Hành xử nhân đạo với con vật: trả nó về với thế giới tự do, để nó được sống sung sướng những ngày cuối đời.

* Nhận xét:

- Đó là vẻ đẹp đáng quý, đáng trọng của một người nông dân nghèo khổ.

- Vẻ đẹp ấy được thể hiện qua một hình thức nghệ thuật đặc sắc: nghệ thuật trần thuật hấp dẫn với người kể chuyện ngôi thứ ba, điểm nhìn bên trong; ngôn ngữ giản dị, tự nhiên; xây dựng tình huống truyện độc đáo,...

- Vẻ đẹp tâm hồn lão Khúng được khắc họa qua tấm lòng thấu hiểu, trân trọng của nhà văn.

- Vẻ đẹp tâm hồn của lão Khúng tác động tích cực đến người đọc, nhắc nhở con người về cách đối xử với động vật, bồi đắp ở người đọc lòng trắc ẩn...

Câu 7:

Tư tưởng mà nhà văn gửi gắm qua chi tiết con Khoang Đen không đi vào rừng mà quay trở lại với lão Khúng gợi cho anh/chị suy nghĩ gì về cuộc sống tự do?

Xem lời giải

verified Lời giải của GV VietJack

Qua chi tiết con Khoang Đen không đi vào rừng mà quay trở lại với lão Khúng, nhà văn Nguyễn Minh Châu muốn thể hiện tư tưởng: Khi sự nô lệ đã ăn sâu vào trong tâm khảm, thì dù có được trao cho cơ hội tự do, con người vẫn không dám chấp nhận, mà lại tự nguyện quay trở lại để chui vào cái ách nô lệ của mình.

- Suy nghĩ về cuộc sống tự do:

+ Cuộc sống tự do là cuộc sống mà con người được nghĩ và làm theo ý mình, không chịu sự kiểm soát bởi một thế lực nào.

+ Cuộc sống tự do có thể là kết quả của một quá trình đấu tranh lâu dài mới có được, vì vậy nó rất đáng quý đối với cá nhân và đối với cả một dân tộc.

+ Cuộc sống tự do đem đến cho con người sự thoải mái, ung dung, an nhiên, tự tại, niềm vui và hạnh phúc, nhưng cũng có thể khiến ta phải tự mình đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, hiểm nguy.

+ Nhiều người, vì sợ trách nhiệm, sợ phải bước ra khỏi vùng an toàn mà từ chối cuộc sống tự do.

Câu 8:

Từ tình cảm của lão Khúng đối với con bò khoang đen, anh/chị hãy bày tỏ suy nghĩ về tình cảm yêu quý loài vật của các bạn trẻ ngày nay (trình bày khoảng 5-7 dòng).

Xem lời giải

verified Lời giải của GV VietJack

Có thể trình bày suy nghĩ theo hướng:

- Tình cảm của lão Khúng với con bò khoang đen: yêu thương và trân trọng.

- Giới trẻ ngày nay:

+ Nhiều bạn trẻ biết yêu quý và chăm sóc vật nuôi trong gia đình, có ý thức bảo tồn động vật hoang dã. Đó là một tình cảm có ý nghĩa nhân văn.

+ Biết yêu quý và chăm sóc vật nuôi, biết bảo tồn động vật hoang dã sẽ làm cho đời sống tâm hồn của con người thêm phong phú và giàu tình cảm.

CÂU HỎI HOT CÙNG CHỦ ĐỀ

Lời giải

- Đảm bảo yêu cầu về hình thức, dung lượng

+ Viết đúng hình thức đoạn văn (diễn dịch, quy nạp, móc xích…).

+ Đảm bảo dung lượng khoảng 200 chữ.

- Xác định đúng vấn đề nghị luận

+ Cảm nhận về vẻ đẹp tâm hồn nhân vật lão Khúng.

- Hệ thống ý:

+ Lão Khúng là người nông dân có trái tim nhân hậu và suy nghĩ sâu sắc: biết yêu thương, trân trọng công lao của con khoang đen như yêu thương, trân trọng một con người; thấy con vật ấy đã một đời làm lụng vất vả, lão kiên quyết trả nó về với thế giới tự do để nó không bị người ta giết thịt và được sống cuộc sống sung sướng như những con bò hoang trong rừng. Tình cảm, suy nghĩ và hành động của lão Khúng với con khoang đen khiến chúng ta xúc động và trân trọng.

+ Hình ảnh lão Khúng được hiện lên thông qua tình huống truyện độc đáo, với điểm nhìn từ chính nhân vật giúp người đọc có được cảm giác kết nối trực tiếp, gần gũi với nhân vật.

- Phát triển đoạn văn logic, thuyết phục

+ Dẫn chứng từ văn bản để minh chứng cho nhận định.

+ Thể hiện rõ suy nghĩ, cảm xúc về vẻ đẹp tâm hồn, nhân cách của nhân vật lão Khúng.

- Đảm bảo ngữ pháp, liên kết:

+ Trình bày rõ ràng, mạch lạc, không mắc lỗi chính tả.

- Sáng tạo

+ Cách diễn đạt mới mẻ, có suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận trong văn bản truyện.

Đoạn văn tham khảo

Nhân vật lão Khúng trong truyện ngắn Phiên chợ Giát hiện lên là một người nông dân có trái tim nhân hậu và một tâm hồn sâu sắc. Dù nghèo khó, lam lũ, lão không chỉ coi con bò Khoang Đen là sức kéo mà còn là người bạn đồng hành, gắn bó như ruột thịt. Tấm lòng yêu thương, trân trọng công lao của con vật ấy thể hiện rõ khi lão quyết định không bán nó cho người ta giết thịt mà kiên quyết “trả tự do” cho nó – một quyết định đầy cảm tính nhưng lại giàu tính người. Lão không muốn phản bội tình nghĩa, không muốn “đền ơn trả nghĩa” bằng cách bán đứng bạn mình, dù chỉ là một con vật. Những hành động của lão – từ việc tháo dây chão, dùng roi xua con bò vào rừng, đến khoảnh khắc sững sờ khi con vật quay về – khiến người đọc xúc động và trân trọng một người nông dân lam lũ nhưng sống có tình, có nghĩa. Hình ảnh lão Khúng được khắc họa chân thực qua điểm nhìn nội tâm từ chính nhân vật, giúp truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu giàu cảm xúc và nhân văn sâu sắc.

Lời giải

- Đảm bảo yêu cầu về hình thức, dung lượng

+ Viết đúng hình thức bài văn đầy đủ ba phần Mở bài, Thân bài, Kết bài.

+ Đảm bảo dung lượng khoảng 600 chữ.

- Xác định đúng vấn đề nghị luận: Phân tích “Phiên chợ Giát” của Nguyễn Minh Châu.

- Lựa chọn được các thao tác lập luận phù hợp; kết hợp nhuần nhuyễn lí lẽ và dẫn chứng; trình bày được hệ thống ý phù hợp theo bố cục ba phần của bài văn nghị luận. Có thể triển khai theo hướng:

* Mở bài:

- Giới thiệu tác giả Nguyễn Minh Châu: nhà văn tiêu biểu cho văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới, với phong cách giàu triết lí, nhân văn, thường quan tâm đến số phận con người trong xã hội hiện đại.

- Giới thiệu tác phẩm Phiên chợ Giát: là một truyện ngắn đặc sắc thể hiện sâu sắc vẻ đẹp tâm hồn người nông dân, đồng thời đặt ra những suy tư nhân sinh về số phận, sự tồn tại, tình cảm giữa con người và loài vật.

- Dẫn dắt vấn đề nghị luận: Hành động “giải thoát” con bò của lão Khúng và sự trở lại của con vật không chỉ phản ánh tính cách nhân vật mà còn gửi gắm thông điệp nhân văn sâu sắc.

* Thân bài:

1. Tình huống truyện độc đáo, giàu chất nhân văn

- Tình huống trung tâm: Lão Khúng – một nông dân nghèo, vì hoàn cảnh phải bán con bò già Khoang Đen – người bạn gắn bó với gia đình từ thuở lập nghiệp.

- Bước ngoặt tâm lí: Trên đường đưa bò đi bán, lão đột ngột quyết định “giải thoát” cho nó, đưa nó vào rừng – hành động tưởng như điên rồ, nhưng thực chất là biểu hiện của một tấm lòng nhân hậu, tỉnh ngộ lương tri.

- Sự trở lại của con bò: Bất ngờ và đầy nghịch lí – biểu hiện cho số phận đã “gắn rễ”, cho sự bất lực của khát vọng tự do trong kiếp làm lụng.

2. Phân tích nhân vật lão Khúng – hình tượng người nông dân giàu nhân tính

- Tình cảm sâu nặng với con vật:

+ Coi con bò như một người bạn, không nỡ “bán đứng” nó để lấy tiền.

+ Nhận thức được sự “vô nhân đạo” của việc bán nó đi giết thịt: “Lão thấy lão không còn là giống người nữa”.

- Khát vọng giải thoát cho con vật cũng là một cách giải thoát cho chính mình:

+ Lão xua đuổi con bò như muốn “đuổi” cả kiếp sống cực nhọc, cơ cực của chính mình – cái “số phận nửa người nửa con vật”.

+ Nhưng lão lại không thể thoát khỏi nó – vẫn tự mình kéo xe, vẫn vác gánh nặng như trước.

- Cái nhìn cuối cùng giữa lão và con vật:

+ Ánh nhìn sầu não, nhẫn nhục của con bò như ánh nhìn của một kiếp người thấp cổ bé họng.

+ Cái nhìn của lão Khúng đầy trĩu nặng, đau xót và bất lực – như tự trách mình, tự cảm thông và cam chịu.

3. Giá trị tư tưởng – nhân văn của truyện

- Ngợi ca vẻ đẹp nhân hậu của con người lao động: Lão Khúng tuy nghèo khổ, lam lũ nhưng vẫn giữ được tình nghĩa, lòng trắc ẩn – một vẻ đẹp đạo đức đáng trân trọng.

- Nỗi day dứt về kiếp sống cơ cực, bị ràng buộc vào lao động, vào thân phận: Con bò không thể sống đời tự do – cũng như con người không dễ thoát khỏi số phận nghiệt ngã.

- Trăn trở của nhà văn trước những nghịch lí đời sống: Khi lòng tốt, khát vọng giải thoát đôi khi lại rơi vào bi kịch – sự thất bại của mơ ước tự do trong thực tế khắc nghiệt.

* Kết bài:

- Khẳng định ý nghĩa tác phẩm Phiên chợ Giát: là một truyện ngắn giàu tính nhân văn, thể hiện cái nhìn đầy thấu hiểu, cảm thông của Nguyễn Minh Châu đối với thân phận người lao động.

- Qua hình ảnh lão Khúng và con bò, nhà văn đặt ra câu hỏi nhân sinh về sự gắn bó giữa con người – lao động – số phận, về khát vọng sống tử tế, tự do giữa đời thường khắc nghiệt.

- Đánh giá: Đây là một trong những truyện ngắn giàu chiều sâu tư tưởng, thể hiện rõ tài năng và tư duy triết lí nhân văn của Nguyễn Minh Châu trong văn học đổi mới.

Bài viết tham khảo

Nguyễn Minh Châu là một trong những cây bút tiên phong trong công cuộc đổi mới văn học Việt Nam sau 1975. Ông luôn đi tìm “viên ngọc ẩn giấu trong bề sâu tâm hồn con người”, đặc biệt là những con người bé nhỏ trong đời sống thường nhật. Truyện ngắn Phiên chợ Giát là một minh chứng cho phong cách giàu nhân văn của nhà văn, khi ông khắc họa thành công hình ảnh người nông dân lão Khúng – một con người lam lũ, nhưng mang trái tim đầy yêu thương, biết suy tư và đau đáu trước thân phận con người và loài vật.

Tác phẩm được xây dựng trên một tình huống truyện giàu kịch tính và chất thơ: lão Khúng – người nông dân vùng cao nghèo khó, dắt con bò già mang tên Khoang Đen đi bán. Con vật ấy đã gắn bó với gia đình lão từ những ngày đầu khẩn hoang gian khổ. Nhưng khi phải đưa nó đến phiên chợ Giát để bán lấy tiền, lão bất ngờ nảy ra một quyết định "điên rồ" – thả con vật về rừng để nó được sống một cuộc đời tự do. Hành động đó đã khiến người đọc không khỏi xúc động, bởi nó xuất phát từ lòng trắc ẩn chân thành: "Cả một đời con vật nai lưng kéo cày để nuôi sống gia đình lão, và bây giờ lão đền ơn trả nghĩa cho con vật bằng việc đem bán nó cho người ta giết thịt?" – lão Khúng đã tự vấn chính mình như thế.

Lão Khúng là đại diện cho người nông dân truyền thống, tuy ít học nhưng có trái tim nhân hậu, tình nghĩa. Ở lão, tình cảm với con vật không đơn thuần là sự gắn bó giữa người và loài vật mà còn là biểu hiện sâu sắc của đạo lý "uống nước nhớ nguồn", của lòng biết ơn và ý thức nhân sinh. Lão không muốn phản bội một sinh linh đã gắn bó, đồng cam cộng khổ với mình suốt cuộc đời. Khi xua con bò vào rừng, lão không chỉ đang giải thoát cho nó, mà còn như đang xua đi cả số phận cơ cực, nhọc nhằn của chính mình – cái “số phận nửa người nửa con vật” đầy ám ảnh. Tuy nhiên, nghịch lý của cuộc sống lại hiện ra ở hồi kết: con bò quay trở lại. Ánh mắt “sầu não và nhẫn nhục” của nó là biểu tượng cho một kiếp sống đã quá gắn bó với khổ đau, đến mức không còn đủ sức để bước ra khỏi sự ràng buộc của số phận.

Hình tượng lão Khúng được nhà văn miêu tả bằng điểm nhìn nhân vật, ngôn ngữ mộc mạc, giàu chất nông thôn. Chính điều đó tạo nên sự gần gũi, chân thực và đầy xúc cảm cho người đọc. Nguyễn Minh Châu không tô vẽ lý tưởng hóa người nông dân, mà đi sâu vào những giằng xé nội tâm của họ – ở đó có nhân hậu, có trăn trở, có khát vọng tự do nhưng cũng đầy nghịch lý và bất lực.

Phiên chợ Giát là một truyện ngắn xuất sắc thể hiện rõ quan niệm nghệ thuật đầy nhân văn của Nguyễn Minh Châu. Tác phẩm không chỉ khắc họa vẻ đẹp tâm hồn người nông dân Việt Nam mà còn đặt ra những câu hỏi nhân sinh về tự do, số phận, lòng biết ơn và sự gắn bó giữa người với loài vật. Qua đó, nhà văn như muốn đánh thức trong mỗi chúng ta một niềm trân trọng sâu sắc với những điều tưởng như bình dị nhất trong đời sống thường ngày.

Lời giải

Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.

Nâng cấp VIP

Lời giải

Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.

Nâng cấp VIP

Lời giải

Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.

Nâng cấp VIP

Lời giải

Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.

Nâng cấp VIP