Quá trình rèn luyện nghề viết văn của tôi
(Đặng Thai Mai)
Ngày tôi mới bắt đầu đi dạy học, các cậu học sinh của tôi (có lẽ vì thấy thầy mình ăn nói cũng tương đối trôi chảy) nên thỉnh thoảng vẫn khuyên tôi nên viết văn cho đăng báo, nhưng tôi luôn lắc đầu nói với anh em: hễ đang còn chế độ kiểm duyệt thì tôi quyết chẳng viết gì đâu. Mà các cậu còn muốn mình viết bằng tiếng Pháp chứ gì? Xin miễn đi. Người Việt Nam viết tiếng Pháp khó lắm. Thế rồi, vì bệnh lười cũng có, vì ngại ngùng cũng có, tôi đã không hề nghĩ đến chuyện viết văn đăng báo.
Tôi chỉ mới bắt đầu viết từ ngày thành lập Mặt trận bình dân do Đảng lãnh đạo. Hồi này, dưới áp lực của cuộc đấu tranh trên đất nước cũng như ở bên Pháp, chính quyền thuộc địa đã phải nới tay trong chính sách văn hóa. Trong Nam ngoài Bắc, các cơ quan ngôn luận của Đảng đã tập hợp được khá nhiều nhà báo, nhà văn tiến bộ. Đối với tôi đây cũng là một dịp thuận lợi để đem ngòi bút mình phục vụ chủ trương của Đảng. Hàng tuần tôi đã có thể đóng góp vào một vài cột báo tiếng Việt, tiếng Pháp. Nhưng chỉ ba năm sau, cuộc chiến tranh thế giới bùng nổ và cái gọi là quyền tự do ngôn luận ở Đông Dương cũng bị thủ tiêu. Trên dải đất chữ S này bầu không khí chính trị, văn hóa lại ảm đạm hơn bao giờ hết. Nhiều anh em bị bắt đi an trí. Phần lớn các đồng chí lãnh đạo đã thoát ly, đi vào bí mật để tổ chức lực lượng chuẩn bị cho cuộc đấu tranh một mất một còn chống chủ nghĩa thực dân Pháp, chống đế quốc Nhật. Tuy vậy mối liên lạc giữa Đảng với giới văn học nghệ thuật vẫn không hề bị cắt đứt. Đối với anh em, bản “Đề cương về văn hóa Việt Nam” năm 1943 thật sự là một kim chỉ nam. [ ... ]
Điều may mắn là dưới sự lãnh đạo của Đảng, quần chúng nhân dần tiến lên không ngừng và lớp thanh niên trí thức thật sự yêu nước đã tìm được một hướng đi chắc chắn cho tư duy, cho nghệ thuật của mình. Lứa tuổi thanh niên, được hướng dẫn đúng đắn, được bồi dưỡng chu đáo trên đường đấu tranh cho một tương lai tốt đẹp hơn của nhân loại bao giờ cũng là hy vọng đẹp đẽ và lực lượng tiền phong chắc chắn của loài người.
(Trích Quá trình rèn luyện nghề viết văn của tôi, Đặng Thai Mai, Đặng Thai Mai hồi kí, NXB Hồng Đức, 2021, tr.274-275)
Quá trình rèn luyện nghề viết văn của tôi
(Đặng Thai Mai)
Ngày tôi mới bắt đầu đi dạy học, các cậu học sinh của tôi (có lẽ vì thấy thầy mình ăn nói cũng tương đối trôi chảy) nên thỉnh thoảng vẫn khuyên tôi nên viết văn cho đăng báo, nhưng tôi luôn lắc đầu nói với anh em: hễ đang còn chế độ kiểm duyệt thì tôi quyết chẳng viết gì đâu. Mà các cậu còn muốn mình viết bằng tiếng Pháp chứ gì? Xin miễn đi. Người Việt Nam viết tiếng Pháp khó lắm. Thế rồi, vì bệnh lười cũng có, vì ngại ngùng cũng có, tôi đã không hề nghĩ đến chuyện viết văn đăng báo.
Tôi chỉ mới bắt đầu viết từ ngày thành lập Mặt trận bình dân do Đảng lãnh đạo. Hồi này, dưới áp lực của cuộc đấu tranh trên đất nước cũng như ở bên Pháp, chính quyền thuộc địa đã phải nới tay trong chính sách văn hóa. Trong Nam ngoài Bắc, các cơ quan ngôn luận của Đảng đã tập hợp được khá nhiều nhà báo, nhà văn tiến bộ. Đối với tôi đây cũng là một dịp thuận lợi để đem ngòi bút mình phục vụ chủ trương của Đảng. Hàng tuần tôi đã có thể đóng góp vào một vài cột báo tiếng Việt, tiếng Pháp. Nhưng chỉ ba năm sau, cuộc chiến tranh thế giới bùng nổ và cái gọi là quyền tự do ngôn luận ở Đông Dương cũng bị thủ tiêu. Trên dải đất chữ S này bầu không khí chính trị, văn hóa lại ảm đạm hơn bao giờ hết. Nhiều anh em bị bắt đi an trí. Phần lớn các đồng chí lãnh đạo đã thoát ly, đi vào bí mật để tổ chức lực lượng chuẩn bị cho cuộc đấu tranh một mất một còn chống chủ nghĩa thực dân Pháp, chống đế quốc Nhật. Tuy vậy mối liên lạc giữa Đảng với giới văn học nghệ thuật vẫn không hề bị cắt đứt. Đối với anh em, bản “Đề cương về văn hóa Việt Nam” năm 1943 thật sự là một kim chỉ nam. [ ... ]
Điều may mắn là dưới sự lãnh đạo của Đảng, quần chúng nhân dần tiến lên không ngừng và lớp thanh niên trí thức thật sự yêu nước đã tìm được một hướng đi chắc chắn cho tư duy, cho nghệ thuật của mình. Lứa tuổi thanh niên, được hướng dẫn đúng đắn, được bồi dưỡng chu đáo trên đường đấu tranh cho một tương lai tốt đẹp hơn của nhân loại bao giờ cũng là hy vọng đẹp đẽ và lực lượng tiền phong chắc chắn của loài người.
(Trích Quá trình rèn luyện nghề viết văn của tôi, Đặng Thai Mai, Đặng Thai Mai hồi kí, NXB Hồng Đức, 2021, tr.274-275)
Xác định ít nhất hai dấu hiệu đặc trưng của hồi kí thể hiện trong đoạn trích trên.
Câu hỏi trong đề: 30 Ngữ liệu ngoài sách giáo khoa lớp 12 phần Kí !!
Quảng cáo
Trả lời:
- Ngôi kể thứ nhất (tôi), người viết trực tiếp kể lại quá trình, sự kiện gắn với bản thân.
- Nội dung gắn với những trải nghiệm có thật trong đời: công việc dạy học, viết báo, hoạt động trong phong trào cách mạng.
- Giọng điệu chân thành, giàu suy ngẫm.
Câu hỏi cùng đoạn
Câu 2:
Đoạn trích sử dụng phương thức biểu đạt chính nào? Nêu tác dụng.
- Phương thức chính: Tự sự kết hợp nghị luận, biểu cảm.
- Tác dụng: Giúp văn bản vừa có tính xác thực (ghi chép sự kiện), vừa có chiều sâu tư tưởng (những nhận định, chiêm nghiệm).
Câu 3:
Hãy chỉ ra một chi tiết cho thấy sự gắn bó của Đặng Thai Mai với cách mạng.
- Ông viết báo để “phục vụ chủ trương của Đảng”.
- Ông coi “Đề cương về văn hóa Việt Nam” (1943) là kim chỉ nam cho hoạt động văn nghệ.
Câu 4:
Tác giả đã kể về bối cảnh lịch sử – xã hội nào trong hồi kí?
- Thời kỳ Mặt trận Bình dân được thành lập (1936), có sự nới lỏng chính sách văn hóa.
- Thời kỳ Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, tự do báo chí bị thủ tiêu, tình hình chính trị – văn hóa ảm đạm.
Câu 5:
Chỉ ra phép chêm xen được sử dụng trong đoạn trích.
Phép chêm xen: (có lẽ thấy thầy mình ăn nói cũng tương đối trôi chảy)
Câu 6:
Nêu tác dụng của yếu tố biểu cảm được sử dụng trong đoạn trích.
- Yếu tố biểu cảm được sử dụng trong đoạn trích:
+ Tác giả bộc lộ cảm xúc khi viết văn bằng tiếng Pháp
+ Niềm vui sướng khi viết văn phục vụ chủ trương của Đảng
+ Cảm xúc hụt hẫng khi chiến tranh thế giới bùng nổ ảnh hưởng tới đời sống nghệ thuật ...
- Tác dụng:
+ Tạo ấn tượng và chất văn cho những hồi ức được kể.
+ Giúp người đọc có những trải nghiệm phong phú về thế giới tinh thần của tác giả; đem lại cảm xúc và sức hấp dẫn cho người đọc.
Câu 7:
Chỉ ra và phân tích ngắn gọn tác dụng của yếu tố phi hư cấu trong đoạn trích.
- Yếu tố phi hư cấu: sự kiện lịch sử, chính sách thuộc địa, Mặt trận Bình dân, Đề cương Văn hóa 1943…
- Tác dụng: Tạo độ tin cậy, giúp người đọc thấy rõ gắn kết giữa đời viết văn và vận mệnh dân tộc.
Câu 8:
Theo tác giả, nguyên nhân nào khiến ông không viết văn khi mới đi dạy học?
- Do chế độ kiểm duyệt khắt khe, ông không muốn viết dưới sự trói buộc.
- Do tâm lý ngại ngùng, lười biếng, chưa sẵn sàng.
Câu 9:
Qua đoạn trích, anh/chị nhận xét gì về quan niệm nghề văn của Đặng Thai Mai?
- Viết văn gắn liền với trách nhiệm xã hội, phục vụ sự nghiệp cách mạng, không tách rời vận mệnh đất nước.
- Coi văn chương là vũ khí tư tưởng, là công cụ đấu tranh.
Câu 10:
Nhận xét sự ảnh hưởng của đời sống chính trị, xã hội tới tình hình sáng tác nghệ thuật được nêu trong đoạn trích.
- Sự ảnh hưởng của đời sống chính trị, xã hội tới tình hình sáng tác nghệ thuật:
+ Dưới sự kiểm duyệt của pháp, “tôi” không viết văn
+ Từ ngày thành lập Mặt trận bình dân do Đảng lãnh đạo, đời sống nghệ thuật sôi nổi.
+ Cuộc chiến tranh thế giới bùng nổ văn hóa nghệ thuật ảm đạm.
+ “Đề cương về văn hóa Việt Nam” năm 1943 ra đời, sự lãnh đạo của Đảng giúp lớp thanh niên trí thức tạo hướng đi mới cho tư duy, nghệ thuật.
- Đời sống chính trị, xã hội ảnh hưởng sâu sắc, có vai trò quyết định tới tình hình sáng tác nghệ thuật; qua đó cho thấy vai trò của Đảng đối với tình hình sáng tác và sự phát triển tư duy nghệ thuật.
Câu 11:
Anh/chị hãy nêu chủ đề tư tưởng chính được thể hiện trong đoạn trích.
Văn bản khẳng định: sự nghiệp viết văn của tác giả gắn liền với con đường cách mạng; văn chương phải phục vụ lý tưởng dân tộc, hướng thanh niên trí thức vào lẽ sống cao đẹp.
Câu 12:
Qua đoạn trích, anh/chị rút ra được bài học gì cho bản thân?
- Cần nhận thức sâu sắc về trách nhiệm của người cầm bút, của trí thức đối với đất nước.
- Cần sống và lao động nghệ thuật gắn với sự thật, với lợi ích của nhân dân.
Hot: 1000+ Đề thi giữa kì 1 file word cấu trúc mới 2025 Toán, Văn, Anh... lớp 1-12 (chỉ từ 60k). Tải ngay
- 30 đề thi tốt nghiệp môn Ngữ Văn (có đáp án chi tiết) ( 38.000₫ )
- 30 Bộ đề, Tổng ôn, sổ tay NLXH, sổ tay trọng tâm môn Ngữ Văn (có đáp án chi tiết) ( 60.000₫ )
- Sổ tay lớp 12 các môn Toán, Lí, Hóa, Văn, Sử, Địa, KTPL (chương trình mới) ( 36.000₫ )
- Tuyển tập 30 đề thi đánh giá năng lực Đại học Quốc gia Hà Nội, TP Hồ Chí Minh (2 cuốn) ( 150.000₫ )
CÂU HỎI HOT CÙNG CHỦ ĐỀ
Lời giải
Gợi ý:
- Đảm bảo yêu cầu về hình thức, dung lượng
+ Viết đúng hình thức bài văn đầy đủ ba phần Mở bài, Thân bài, Kết bài.
+ Đảm bảo dung lượng khoảng 600 chữ.
- Xác định đúng vấn đề nghị luận: phân tích đặc điểm nghệ thuật hồi kí trong đoạn trích “Quá trình rèn luyện nghề viết văn của tôi” (Đặng Thai Mai).
- Lựa chọn được các thao tác lập luận phù hợp; kết hợp nhuần nhuyễn lí lẽ và dẫn chứng; trình bày được hệ thống ý phù hợp theo bố cục ba phần của bài văn nghị luận. Có thể triển khai theo hướng:
* Mở bài:
- Giới thiệu tác giả Đặng Thai Mai – nhà văn, nhà nghiên cứu lớn, trí thức cách mạng.
- Đoạn trích là hồi kí, tiêu biểu cho phong cách ký của ông.
- Nêu vấn đề: đặc điểm nghệ thuật hồi kí trong văn bản.* Thân bài:
1. Ngôi kể, giọng kể:
- Ngôi thứ nhất (“tôi”), nhân vật “tôi” chính là tác giả.
- Giọng văn chân thành, gần gũi, vừa kể vừa tâm sự.
2. Yếu tố phi hư cấu:
- Ghi chép sự kiện lịch sử xác thực: Mặt trận Bình dân, Chiến tranh thế giới thứ hai, Đề cương văn hóa Việt Nam 1943.
- Miêu tả hoàn cảnh chính trị, xã hội có thật → độ tin cậy cao.
3. Sự kết hợp tự sự – nghị luận – trữ tình:
- Tự sự: kể về hành trình cầm bút, những chặng đường viết báo.
- Nghị luận: nêu quan điểm nghề văn gắn với trách nhiệm xã hội.
- Trữ tình: thể hiện cảm xúc chân thành trước vận mệnh dân tộc và niềm tin vào lớp trẻ.
4. Giá trị nghệ thuật và tư tưởng:
- Là hồi kí nên giàu tính xác thực, giúp người đọc hiểu bối cảnh văn học – lịch sử.
- Lời văn súc tích, chân thành, giàu sức gợi.
- Thể hiện rõ chủ đề: văn chương gắn liền với dân tộc và trách nhiệm trí thức.
* Kết bài:
- Khẳng định nghệ thuật hồi kí của Đặng Thai Mai: chân thực, kết hợp tự sự và nghị luận.
- Mở rộng: Đoạn trích góp phần cho thấy vai trò của văn chương và trí thức trong cách mạng, còn nguyên giá trị hôm nay.
Bài văn tham khảo
Đặng Thai Mai không chỉ là một học giả uyên bác mà còn là một nhà văn hóa lớn của dân tộc. Hồi kí “Quá trình rèn luyện nghề viết văn của tôi” đã để lại dấu ấn đặc sắc về cả nội dung tư tưởng và nghệ thuật. Đoạn trích cho thấy rõ đặc điểm nổi bật của hồi kí: sự chân thực trong ghi chép, sự đan xen giữa tự sự, nghị luận và trữ tình, cùng giọng văn giàu trải nghiệm cá nhân.
Trước hết, đoạn trích mang dấu ấn hồi kí rõ rệt ở ngôi kể thứ nhất. Nhân vật “tôi” trong tác phẩm đồng thời là tác giả, trực tiếp hồi tưởng và kể lại những trải nghiệm cá nhân. Giọng văn vì thế chân thành, gần gũi, có khi hóm hỉnh (“xin miễn đi”, “vì bệnh lười cũng có, vì ngại ngùng cũng có”), có khi lại thấm đẫm suy tư, nghiêm trang. Qua lời kể ấy, người đọc có cảm giác đang được nghe chính tác giả tâm sự, trò chuyện.
Một đặc điểm quan trọng khác của hồi kí là tính phi hư cấu, được thể hiện rõ trong đoạn trích. Đặng Thai Mai ghi chép lại những sự kiện lịch sử có thật: sự thành lập Mặt trận Bình dân, chính sách nới lỏng văn hóa của chính quyền thực dân, sự bùng nổ của Chiến tranh thế giới thứ hai, sự ra đời của “Đề cương về văn hóa Việt Nam” năm 1943. Những sự kiện này vừa phản ánh bối cảnh xã hội, vừa gắn liền với bước đường trưởng thành trong nghề văn của tác giả. Nhờ đó, đoạn trích có sức thuyết phục và giá trị tư liệu cao.
Đặc sắc hơn cả, đoạn trích cho thấy sự kết hợp giữa tự sự, nghị luận và trữ tình. Ở bình diện tự sự, tác giả kể lại một cách mạch lạc chặng đường viết văn: từ chỗ ngại ngần, không muốn viết, đến lúc tìm thấy cơ hội và động lực để cầm bút phục vụ cách mạng. Ở bình diện nghị luận, tác giả thể hiện quan niệm nghề văn gắn với trách nhiệm xã hội, với lý tưởng dân tộc. Những suy ngẫm về vai trò của “Đề cương văn hóa Việt Nam” hay niềm tin đặt vào thế hệ thanh niên trí thức mang tính chỉ đạo, định hướng. Và ở bình diện trữ tình, giọng văn nhiều lúc trầm lắng, chất chứa tình yêu quê hương, niềm tin vào tương lai. Chính sự kết hợp ấy đã tạo nên chiều sâu cảm xúc và sức lan tỏa tư tưởng cho hồi kí.
Có thể nói, “Quá trình rèn luyện nghề viết văn của tôi” không chỉ có giá trị lịch sử tư liệu mà còn là minh chứng cho một phong cách hồi kí đặc sắc: chân thực, giàu suy ngẫm, kết hợp tự sự và nghị luận, nhuốm màu trữ tình. Đoạn trích giúp người đọc hiểu rằng nghề văn không thể tách rời vận mệnh dân tộc; người trí thức chỉ thật sự có giá trị khi biết gắn cuộc đời mình với lợi ích chung. Đây là một quan niệm đúng đắn, vẫn còn nguyên ý nghĩa trong thời đại hôm nay.
Lời giải
Gợi ý:
- Đảm bảo yêu cầu về hình thức, dung lượng
+ Viết đúng hình thức đoạn văn (diễn dịch, quy nạp, móc xích…).
+ Đảm bảo dung lượng khoảng 200 chữ.
- Xác định đúng vấn đề nghị luận: tác dụng của việc kết hợp yếu tố tự sự và nghị luận trong hồi kí “Quá trình rèn luyện nghề viết văn của tôi” (Đặng Thai Mai).
- Hệ thống ý
+ Yếu tố tự sự: kể lại quá trình đến với nghề viết, bối cảnh xã hội.
+ Yếu tố nghị luận: những nhận định, suy ngẫm về vai trò của văn chương, trách nhiệm cầm bút.
+ Sự kết hợp này giúp tác phẩm vừa chân thực, vừa sâu sắc, tăng tính thuyết phục.
+ Đánh giá ý nghĩa: làm nổi bật tư tưởng, phong cách viết hồi kí của Đặng Thai Mai.
- Phát triển đoạn văn logic, thuyết phục
+ Dẫn chứng từ văn bản để minh chứng cho nhận định.
+ Phân tích rõ tác dụng của việc kết hợp yếu tố tự sự và nghị luận trong việc thể hiện nội dung văn bản.
- Đảm bảo ngữ pháp, liên kết:
+ Trình bày rõ ràng, mạch lạc, không mắc lỗi chính tả.
- Sáng tạo
+ Cách diễn đạt mới mẻ, có suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận.
Đoạn văn tham khảo
Trong hồi kí “Quá trình rèn luyện nghề viết văn của tôi”, Đặng Thai Mai đã khéo léo kết hợp yếu tố tự sự và nghị luận, tạo nên sức hấp dẫn đặc biệt cho tác phẩm. Phần tự sự giúp người đọc hình dung quá trình tác giả đến với nghề viết trong một bối cảnh xã hội đầy biến động: từ chỗ ngần ngại cầm bút đến lúc tích cực tham gia viết báo, viết văn dưới sự lãnh đạo của Đảng. Xen kẽ với lời kể ấy là những đoạn nghị luận giàu suy ngẫm, thể hiện quan niệm về sứ mệnh của người cầm bút, về mối liên hệ giữa văn chương và vận mệnh dân tộc. Nhờ sự kết hợp ấy, hồi kí không chỉ đơn thuần tái hiện những kỉ niệm, mà còn nâng cao thành một văn bản mang tính định hướng tư tưởng cho thế hệ sau. Sự hòa quyện giữa tự sự và nghị luận đã làm cho tác phẩm vừa chân thực, gần gũi, vừa sâu sắc, giàu sức thuyết phục. Qua đó, ta nhận ra bản lĩnh, nhân cách và trách nhiệm lớn lao của một trí thức – nhà văn luôn gắn ngòi bút với Tổ quốc và nhân dân.
Lời giải
Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.
Lời giải
Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.
Lời giải
Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.
Lời giải
Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.