Câu hỏi:

29/10/2025 63 Lưu

NGHÊU, SÒ, ỐC, HẾN

(trích)

LỚP 5:

TRẦN ỐC: May may mà rủi rủi

Rủi rủi lại may may!

May chân Ốc chạy hay,

Rủi cho Ngao bị bắt

Việc tưởng đà rất ngặt,

Thế ta phải sớm toan

Mau chân Ốc vội vàng,

Cứu thầy Ngao cho được.

(Hạ)

LỚP 6

LÍ HÀ: Trai đinh! Cùm chân nó lại

(Chúng dân cùm, Ngao không cho)

LỮ NGAO: Đứa nào động đến móng chân thầy, thầy đá cho mà chết.

DÂN CHÚNG: Bẩm thầy Lí, nó đá.

LÍ HÀ: Bay lấy dây cột đầu treo lên xà nhà cho tao!

(Chúng dân cùm Ngao...)

LỮ NGAO: Thôi được, thầy cho bay cùm.

LÍ HÀ: Cùm cả hai chân.

LỮ NGAO: Ấy, ấy! Thầy không cho.

TRÙM SÒ: Lấy dùi đục gõ mắt cá chân đi!

LỮ NGAO: Thôi, bay nói hết lời, thầy cho bay cùm hai chân đây.

TRÙM SÒ: Thôi anh em dân canh giữ lấy nó. Gia đình bay! Về ngay! Mời thầy Lí về nhà tôi xơi chén rượu.

(Hạ)

LỚP 7

TRẦN ỐC:

Khuyển bỉ vật bi! Vật bi!

Hữu ngô lai trợ! Lai trợ!

Gian nan hà túc lự?

Khẩn cấp khả đào sanh! (1)

(Quân canh ngủ. Ốc sờ soạng lại chỗ Ngao, Ngao hất Ốc ra.)

LỮ NGAO: A! A! Thầy biết rồi. Thằng Trùm Sò mời thẳng Lí Hà về uống rượu, rồi bàn bạc với nhau, thấy bắt thầy cùm là thất lí, mới cho người ra mở cùm cho thầy, để thầy đi đàng thầy cho trôi. Chớ giải thầy lên quan thì phải tốn kém. Thầy dại gì cho bay mở cùm! Tao nằm đây, con dòi bằng cổ tay tao chưa về... Phen này, Trùm Sò phải hết cửa hết nhà với thầy cho coi! Bay giải thầy lên quan, trước hết phải mua chai rượu làm lễ ra mắt quan. Quan Huyện mới nhận chai rượu đó, mới đưa vào trong cho bà Huyện. Quan mới xử lăng nhăng chỉ chi đó, rồi quan nạt quan nộ, lão Trùm Sò phải lén ngõ sau mua lại chai rượu của bà Huyện, để thưa thưa, bẩm bẩm lần nữa. Vậy là nay khai, mai báo, chai rượu đó cứ luân hồi ngõ trước ngõ sau làm cho Trùm Sò phải hết nhà! Hết nhà! Hà hà... Bay có khôn ra đây, thầy bày cho! Bay sắm khay trầu can rượu với chừng dăm quan tiền thôi, bay qua thưa với mụ thầy là con vợ tao đấy, nói khó với nó một tiếng, nó qua nhận thầy về. Vậy mà chắc chi thầy đã về cho! Em chết rồi, em Sò của thầy ơi! Hà hà...

TRẦN ỐC: (Phải giả tiếng mèo để làm hiệu riêng gọi) Ngao! Ng.ao!

LỮ NGAO: (Đoán biết ám hiệu, cùng theo tiếng mèo đáp lại) Ốc! Ốc!

(Óc đến mở cùm công Ngao thoát chạy. Quân canh thức dậy, hô hoán truy lùng….)

TRẦN ỐC: Lâm nước bí! Lâm nước bí! Khó thoát thân! Khó thoát thân! Quả dân đinh đã đuổi theo gần. Đốt xích hậu (2) mới mong chạy thoát.

(Ốc giấu Ngao một nơi, trở lại đốt xích hậu, chúng dân đổ về chữa cháy. Ốc cũng Ngao chạy thoát.)

LÍ HÀ, TRÙM SÒ: Cùng bọn người nhà

Chỉ thị hoả tại xóm nọ

Một đoàn tới đó,

Ngõ (3) cứu lửa kia!

(Hạ)

(Theo Tổng tập văn học Việt Nam, tập 12, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 2000)

Chú thích:

Tóm tắt vở tuồng: Trộm Ốc nhờ thầy bói Nghêu (hay Ngao) gieo quẻ chỉ hướng vào ăn trộm nhà Trùm Sò. Ốc đem của trộm được bán cho Thị Hến, một gái góa trẻ đẹp. Lý trưởng và Trùm Sò đến lục soát bắt được tang vật, liền giải Thị Hến lên trình quan huyện. Khi đến công đường, Thị Hến đã làm cho quan huyện và thầy đề mê mệt vì nhan sắc của mình. Kết quả là Trùm Sò mất tiền, thầy Lý bị đòn, Thị Hến được tha bổng. Kết thúc vở là cảnh cả quan huyện, thầy đề, thầy Lý vì mê mẩn Thị Hến chạm mặt nhau và bị các bà vợ đánh ghen tại nhà Thị Hến.

(1) Khuyên gã chớ buồn! Chớ buồn! Có ta đến giúp! Đến giúp! Gian nan đâu đủ cho ta phải lo? Mau gấp lên có thể chạy thoát.

(2) Xích hậu: điếm canh (điểm: nhà nhỏ, thường ở đầu làng, dùng làm nơi canh gác).

(3) Ngõ (viết đầy đủ là ngõ hầu): từ biểu thị điều sắp nêu ra là mục đích mà việc làm vừa nói đến mong sao đạt cho được.

Xác định thể loại của văn bản trên.

Quảng cáo

Trả lời:

verified Giải bởi Vietjack

Thể loại tuồng đồ.

Câu hỏi cùng đoạn

Câu 2:

Văn bản kể lại sự việc gì?

Xem lời giải

verified Giải bởi Vietjack

Ngao bị bắt khi đi ăn trộm cùng Ốc, được Ốc đốt xích hậu giải thoát.

Câu 3:

Tiếng cười trong lớp kịch 6 được tạo ra từ điều gì?

Xem lời giải

verified Giải bởi Vietjack

Lời nói thể hiện sự “anh hùng rơm” và hành động từng bước nhượng bộ của Ngao.

Câu 4:

Lời thoại của Lữ Ngao trong đoạn trích “A! A!... Hà hà!...” là độc thoại hay độc thoại nội tâm hay đối thoại? Nếu là đối thoại thì đối thoại với ai?

Xem lời giải

verified Giải bởi Vietjack

Độc thoại nội tâm.

Câu 5:

Trong lời thoại “A! A!... Hà hà!...”, Lữ Ngao nhầm lẫn điều gì?

Xem lời giải

verified Giải bởi Vietjack

Mình được Lí Hà sai quân canh mở cùm vì phát hiện việc bắt giữ người là “thất lí”

Câu 6:

Tại sao Ngao cho rằng “Phen này, Trùm Sò phải hết cửa hết nhà với thầy cho coi!”?

Xem lời giải

verified Giải bởi Vietjack

Vì Trùm Sò bắt Ngao giải lên quan Huyện cho nên phải theo hầu việc kiện tụng tốn kém.

Câu 7:

Trong lớp kịch 7, tiếng cười được thể hiện như thế nào qua ngôn ngữ của nhân vật Ốc và Ngao?

Xem lời giải

verified Giải bởi Vietjack

- Để chỉ ra những biểu hiện của tiếng cười qua ngôn ngữ của Ốc và Ngao, HS cần đọc kĩ lại lớp kịch 7, xác định xem lời nào là ngôn ngữ của nhân vật nào, lời thoại đó thể hiện tiếng cười ra sao.

Ví dụ: Lời của Ốc gồm các câu văn chữ Hán mở đầu lớp kịch 7, giả tiếng mèo kêu làm ám hiệu để báo cho Ngao biết, lời nói hốt hoảng và quyết định đốt xích hậu để cõng Ngao chạy thoát sự truy đuổi của dân đinh. Trong văn học, các câu văn, câu thơ chữ Hán thường thể hiện sắc thái trang trọng, cổ kính. Ở văn bản này, nó lại tạo ra sắc thái hài hước. Một tên ăn trộm thường phải lẩn lút, im hơi lặng tiếng, ở đây lại tỏ ra “hay chữ” và “tự tin” “đại ngôn” “có ta đến giúp, đến giúp”. Âm thanh giả tiếng mèo kêu cũng tạo ra tiếng cười vì cách “chơi chữ” (“ngao” — từ tượng thanh chỉ tiếng mèo kêu và “Ngao” – tên của nhân vật). Lời thoại của Ốc ở cuối lớp kịch 7 có nhịp điệu nhanh, giàu sức tạo hình, thể hiện thái độ vội vã, hốt hoảng khi biết bị phát hiện và sự ma lanh, nhanh chóng nghĩ ra phương án giải thoát,..

Câu 8:

Qua đoạn trích, tác giả dân gian phản ánh thực trạng gì khi người dân “vào cửa quan”?

Xem lời giải

verified Giải bởi Vietjack

Qua đoạn trích Nghêu, Sò, Ốc, Hến, tác giả dân gian đã phản ánh sâu sắc thực trạng bất công, mục nát của bộ máy quan lại phong kiến xưa, nơi mà “cửa quan” không còn là chốn thực thi công lý mà là nơi buôn bán quyền lực, tiền bạc và tình dục.

Câu 9:

“Vậy là nay khai, mai báo, chai rượu đó cứ luân hồi ngõ trước ngõ sau làm cho Trùm Sò phải hết nhà!” Theo em, nhân vật Ốc sử dụng từ “luân hồi” trong câu văn trên có được không? Vì sao?

Xem lời giải

verified Giải bởi Vietjack

- Trong từ điển, từ “luân hồi” có nghĩa là “chết ở kiếp này rồi lại sinh ra ở kiếp khác, cứ quay vòng mãi mãi như vậy, theo quan niệm của đạo Phật”.

- Nhân vật Ốc sử dụng từ này để miêu tả “chai rượu” làm lễ vào cửa quan của người theo kiện.

+ Nếu hiểu theo nghĩa gốc thì cách sử dụng như trên là chưa phù hợp, có thể thay bằng từ khác.

+ Nếu hiểu Ốc sử dụng từ này để cường điệu nhằm mục đích nhấn mạnh, tô đậm những phản ánh về sự thối nát ở chốn cửa quan thì có thể đồng tình với cách sử dụng đó.

CÂU HỎI HOT CÙNG CHỦ ĐỀ

Lời giải

Gợi ý:

- Đảm bảo yêu cầu về hình thức, dung lượng

+ Viết đúng hình thức đoạn văn (diễn dịch, quy nạp, móc xích…).

+ Đảm bảo dung lượng khoảng 200 chữ.

- Xác định đúng vấn đề nghị luận

+ Trình bày suy nghĩ về thực trạng công lý và quyền con người trong xã hội phong kiến xưa được phản ánh qua tác phẩm.

- Hệ thống ý:

+ Thực trạng được phản ánh:

. “Cửa quan” là nơi bất công, đầy gian trá, nơi đồng tiền và quyền lực chi phối công lý.

. Người dân lương thiện bị hành hạ, vu oan, phải chịu đòn roi, nhục nhã mà không có nơi kêu oan.

. Kẻ có quyền (quan, lý trưởng, trùm làng…) thì tham lam, nhũng nhiễu, coi việc xử án là dịp trục lợi, nhận hối lộ, ăn chặn.

+ Giá trị hiện thực:

. Phơi bày sự thối nát, vô đạo của bộ máy quan lại thời phong kiến.

. Tiếng cười trào phúng của nhân dân nhằm lên án bất công, đòi lại tiếng nói cho người dân thấp cổ bé họng.

+ Ý nghĩa nhân văn:

. Thể hiện ước mơ về một xã hội công bằng, nơi con người được tôn trọng và bảo vệ.

- Phát triển đoạn văn logic, thuyết phục

+ Dẫn chứng từ văn bản để minh chứng cho nhận định.

+ Thể hiện rõ suy nghĩ về thực trạng công lý và quyền con người trong xã hội phong kiến xưa được phản ánh qua tác phẩm.

- Đảm bảo ngữ pháp, liên kết:

+ Trình bày rõ ràng, mạch lạc, không mắc lỗi chính tả.

- Sáng tạo

+ Cách diễn đạt mới mẻ, có suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận.

Đoạn văn tham khảo

Đoạn trích Nghêu, Sò, Ốc, Hến đã phản ánh một cách sâu sắc và chua chát thực trạng công lý và quyền con người bị chà đạp trong xã hội phong kiến xưa. Cửa quan – nơi lẽ ra phải thực thi công lý – lại trở thành chốn buôn bán quyền lực, tiền bạc và tình dục. Người dân thấp cổ bé họng bị tra khảo, đánh đập, oan sai; trong khi bọn cường hào, lý trưởng, quan huyện thì hống hách, tham lam, sẵn sàng nhận hối lộ và bắt tay nhau để trục lợi. Qua đó, tác giả dân gian đã dùng tiếng cười châm biếm sắc sảo để phơi bày sự thối nát, vô nhân đạo của bộ máy cai trị, đồng thời thể hiện niềm cảm thông với người dân lương thiện bị dồn ép vào cảnh khốn cùng. Tiếng cười trong tác phẩm không chỉ là nụ cười chế giễu mà còn là tiếng khóc cho thân phận con người, gửi gắm ước vọng về một xã hội công bằng, nơi công lý không bị mua bán. Ngày nay, thông điệp ấy vẫn còn nguyên giá trị trong việc xây dựng một xã hội văn minh, dân chủ, thượng tôn pháp luật.

Lời giải

Gợi ý:

- Đảm bảo yêu cầu về hình thức, dung lượng

+ Viết đúng hình thức bài văn đầy đủ ba phần Mở bài, Thân bài, Kết bài.

+ Đảm bảo dung lượng khoảng 600 chữ.

- Xác định đúng vấn đề nghị luận: Bàn về giá trị tiếng cười trào phúng trong văn học dân gian Việt Nam, qua đó làm rõ tác dụng phê phán và phản kháng xã hội của tiếng cười nhân dân.

- Lựa chọn được các thao tác lập luận phù hợp; kết hợp nhuần nhuyễn lí lẽ và dẫn chứng; trình bày được hệ thống ý phù hợp theo bố cục ba phần của bài văn nghị luận. Có thể triển khai theo hướng:

* Mở bài:

- Giới thiệu khái quát vở Nghêu, Sò, Ốc, Hến – một tác phẩm tuồng dân gian nổi tiếng.

- Nêu vấn đề nghị luận: tiếng cười trào phúng trong văn học dân gian, đặc biệt qua tác phẩm này, không chỉ để mua vui mà còn là vũ khí sắc bén của nhân dân trong việc phê phán cái xấu, khẳng định cái thiện.

* Thân bài:

a. Giải thích vấn đề

- Tiếng cười trào phúng là hình thức thể hiện thái độ mỉa mai, châm biếm, phê phán của người dân đối với những thói hư tật xấu, hiện tượng tiêu cực trong xã hội.

- Trong văn học dân gian, tiếng cười không hề vô nghĩa, mà ẩn chứa tinh thần phản kháng, khát vọng công bằng và tự do.

b. Biểu hiện trong Nghêu, Sò, Ốc, Hến

- Các nhân vật quan, lý trưởng, trùm làng bị phơi bày với bộ mặt tham lam, ngu dốt, háo sắc, nhũng nhiễu.

- Tình huống trào phúng dồn dập: người dân bị cùm, bị đày đọa, nhưng vẫn có cách “lật ngược thế cờ” nhờ sự thông minh, mưu mẹo của dân nghèo (Ốc cứu Ngao, Thị Hến đối phó quan huyện).

- Qua những lời thoại, sự việc lố bịch, tiếng cười bật ra vừa hài hước, vừa chua chát:

+ Lý Hà, Trùm Sò vừa tra khảo dân vừa bàn chuyện “xơi rượu” – phơi bày thói cửa quyền.

+ Ngao “lý sự cùn” nhưng lại nói trúng bản chất: muốn thoát án phải “đưa rượu” – tố cáo nạn hối lộ.

- Tiếng cười ở đây vừa mang tính giải trí, vừa là phản kháng ngầm của nhân dân đối với thế lực phong kiến.

c. Ý nghĩa và giá trị

- Giá trị hiện thực: phơi bày bản chất thối nát của xã hội phong kiến – nơi quan lại tham nhũng, đạo đức đảo lộn.

- Giá trị nhân đạo: tiếng cười xuất phát từ lòng yêu đời, yêu công lý; là niềm tin vào trí tuệ, bản lĩnh của người dân lao động.

- Giá trị nghệ thuật: sử dụng ngôn ngữ dân gian sinh động, đối thoại tự nhiên, tạo tình huống hài hước mà sâu cay.

- Tiếng cười ấy giúp nhân dân giải tỏa nỗi uất ức, đồng thời góp phần giữ gìn tinh thần phản biện và sức sống dân tộc.

d. Liên hệ mở rộng

- Tiếng cười trào phúng không chỉ có trong tuồng dân gian, mà còn trong ca dao, truyện cười, chèo cổ, và văn học trung đại như Truyện Trạng Quỳnh, Số đỏ (sau này).

- Ngày nay, tiếng cười phê phán vẫn hiện diện trong văn học, điện ảnh, mạng xã hội – thể hiện tinh thần tự do ngôn luận và sức sống của dân tộc Việt.

* Kết bài:

- Khẳng định: Tiếng cười trào phúng trong Nghêu, Sò, Ốc, Hến là tiếng nói phản kháng mạnh mẽ của nhân dân trước bất công và áp bức.

- Tiếng cười ấy vượt thời gian, trở thành biểu tượng cho trí tuệ, lòng nhân hậu và sức sống kiên cường của người Việt.

Bài viết tham khảo

Trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam, tiếng cười luôn mang ý nghĩa sâu sắc: không chỉ là niềm vui mà còn là cách nhân dân bộc lộ thái độ sống, phản kháng cái xấu, hướng tới cái đẹp. Vở tuồng Nghêu, Sò, Ốc, Hến là một minh chứng tiêu biểu cho giá trị ấy – nơi tiếng cười trào phúng vang lên vừa giòn giã vừa đắng cay, phản ánh sâu sắc xã hội phong kiến mục ruỗng và tinh thần bất khuất của người dân lao động.

Tiếng cười trào phúng là tiếng cười châm biếm, mỉa mai, lột trần những thói hư tật xấu của con người và xã hội. Trong Nghêu, Sò, Ốc, Hến, tiếng cười ấy vang lên từ chính những nghịch cảnh đời thường: bọn quan lại như Lý Hà, Trùm Sò hiện lên ngu xuẩn, háo sắc, tham lam, còn người dân thì bị áp bức nhưng không ngu dại, trái lại thông minh và mưu trí. Cảnh Lý Hà ra lệnh “cùm chân nó lại” rồi được Trùm Sò mời đi “xơi chén rượu” vừa hài hước vừa cay đắng – nó bóc trần thói cửa quyền, hối lộ và sự coi thường sinh mạng con người. Ngao – kẻ bị cùm – vẫn có thể “nói lý” về việc phải hối lộ quan mới thoát án, một cách tố cáo tinh tế mà sâu cay. Trong khi đó, Ốc liều mình cứu bạn, đốt xích hậu để đánh lạc hướng quân canh – hành động ấy thể hiện trí tuệ và lòng nghĩa hiệp của người dân nghèo. Tiếng cười bật lên từ mưu mẹo, từ sự lật ngược tình thế, khiến cái ác, cái ngu trở thành trò cười cho thiên hạ.

Qua đó, nhân dân không chỉ cười để mua vui, mà cười để sống, để phản kháng. Tiếng cười trong Nghêu, Sò, Ốc, Hến có giá trị hiện thực rõ rệt: phơi bày xã hội phong kiến đầy bất công, nơi đồng tiền thao túng công lý. Đồng thời, tiếng cười ấy mang giá trị nhân đạo sâu sắc: nó đứng về phía người lương thiện, bênh vực cái đẹp, khẳng định niềm tin vào trí tuệ và sức mạnh của nhân dân. Nghệ thuật trào phúng dân gian đã tạo nên những tình huống, ngôn ngữ, hành động vừa buồn cười vừa thấm thía, thể hiện óc sáng tạo và tinh thần dân chủ của người Việt xưa.

Hơn thế, tiếng cười trào phúng vẫn còn giá trị cho đến hôm nay. Trong xã hội hiện đại, con người vẫn cần tiếng cười để soi chiếu những bất cập, để phê phán cái xấu và khẳng định cái đúng. Từ Nghêu, Sò, Ốc, Hến đến Số đỏ của Vũ Trọng Phụng hay các tác phẩm châm biếm đương đại, tiếng cười vẫn là dòng chảy bền bỉ trong đời sống tinh thần dân tộc.

Tiếng cười trào phúng trong Nghêu, Sò, Ốc, Hến không chỉ là nét đặc sắc nghệ thuật mà còn là biểu hiện của bản lĩnh và trí tuệ nhân dân. Qua tiếng cười, người dân lao động đã gửi gắm thái độ phê phán, niềm tin và khát vọng về một xã hội công bằng hơn. Tiếng cười ấy vang vọng mãi, vừa là bản nhạc trào phúng, vừa là khúc ca nhân ái, nhân văn của dân tộc Việt Nam.

Lời giải

Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.

Nâng cấp VIP

Lời giải

Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.

Nâng cấp VIP

Lời giải

Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.

Nâng cấp VIP

Lời giải

Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.

Nâng cấp VIP