Từ đoạn trích trong vở tuồng dân gian Nghêu, Sò, Ốc, Hến, anh/chị hãy viết một bài văn khoảng 600 chữ bàn về giá trị tiếng cười trào phúng trong văn học dân gian Việt Nam, qua đó làm rõ tác dụng phê phán và phản kháng xã hội của tiếng cười nhân dân.
                                    
                                                                                                                        Từ đoạn trích trong vở tuồng dân gian Nghêu, Sò, Ốc, Hến, anh/chị hãy viết một bài văn khoảng 600 chữ bàn về giá trị tiếng cười trào phúng trong văn học dân gian Việt Nam, qua đó làm rõ tác dụng phê phán và phản kháng xã hội của tiếng cười nhân dân.
Quảng cáo
Trả lời:
Gợi ý:
- Đảm bảo yêu cầu về hình thức, dung lượng
+ Viết đúng hình thức bài văn đầy đủ ba phần Mở bài, Thân bài, Kết bài.
+ Đảm bảo dung lượng khoảng 600 chữ.
- Xác định đúng vấn đề nghị luận: Bàn về giá trị tiếng cười trào phúng trong văn học dân gian Việt Nam, qua đó làm rõ tác dụng phê phán và phản kháng xã hội của tiếng cười nhân dân.
- Lựa chọn được các thao tác lập luận phù hợp; kết hợp nhuần nhuyễn lí lẽ và dẫn chứng; trình bày được hệ thống ý phù hợp theo bố cục ba phần của bài văn nghị luận. Có thể triển khai theo hướng:
* Mở bài:
- Giới thiệu khái quát vở Nghêu, Sò, Ốc, Hến – một tác phẩm tuồng dân gian nổi tiếng.
- Nêu vấn đề nghị luận: tiếng cười trào phúng trong văn học dân gian, đặc biệt qua tác phẩm này, không chỉ để mua vui mà còn là vũ khí sắc bén của nhân dân trong việc phê phán cái xấu, khẳng định cái thiện.
* Thân bài:
a. Giải thích vấn đề
- Tiếng cười trào phúng là hình thức thể hiện thái độ mỉa mai, châm biếm, phê phán của người dân đối với những thói hư tật xấu, hiện tượng tiêu cực trong xã hội.
- Trong văn học dân gian, tiếng cười không hề vô nghĩa, mà ẩn chứa tinh thần phản kháng, khát vọng công bằng và tự do.
b. Biểu hiện trong Nghêu, Sò, Ốc, Hến
- Các nhân vật quan, lý trưởng, trùm làng bị phơi bày với bộ mặt tham lam, ngu dốt, háo sắc, nhũng nhiễu.
- Tình huống trào phúng dồn dập: người dân bị cùm, bị đày đọa, nhưng vẫn có cách “lật ngược thế cờ” nhờ sự thông minh, mưu mẹo của dân nghèo (Ốc cứu Ngao, Thị Hến đối phó quan huyện).
- Qua những lời thoại, sự việc lố bịch, tiếng cười bật ra vừa hài hước, vừa chua chát:
+ Lý Hà, Trùm Sò vừa tra khảo dân vừa bàn chuyện “xơi rượu” – phơi bày thói cửa quyền.
+ Ngao “lý sự cùn” nhưng lại nói trúng bản chất: muốn thoát án phải “đưa rượu” – tố cáo nạn hối lộ.
- Tiếng cười ở đây vừa mang tính giải trí, vừa là phản kháng ngầm của nhân dân đối với thế lực phong kiến.
c. Ý nghĩa và giá trị
- Giá trị hiện thực: phơi bày bản chất thối nát của xã hội phong kiến – nơi quan lại tham nhũng, đạo đức đảo lộn.
- Giá trị nhân đạo: tiếng cười xuất phát từ lòng yêu đời, yêu công lý; là niềm tin vào trí tuệ, bản lĩnh của người dân lao động.
- Giá trị nghệ thuật: sử dụng ngôn ngữ dân gian sinh động, đối thoại tự nhiên, tạo tình huống hài hước mà sâu cay.
- Tiếng cười ấy giúp nhân dân giải tỏa nỗi uất ức, đồng thời góp phần giữ gìn tinh thần phản biện và sức sống dân tộc.
d. Liên hệ mở rộng
- Tiếng cười trào phúng không chỉ có trong tuồng dân gian, mà còn trong ca dao, truyện cười, chèo cổ, và văn học trung đại như Truyện Trạng Quỳnh, Số đỏ (sau này).
- Ngày nay, tiếng cười phê phán vẫn hiện diện trong văn học, điện ảnh, mạng xã hội – thể hiện tinh thần tự do ngôn luận và sức sống của dân tộc Việt.
* Kết bài:
- Khẳng định: Tiếng cười trào phúng trong Nghêu, Sò, Ốc, Hến là tiếng nói phản kháng mạnh mẽ của nhân dân trước bất công và áp bức.
- Tiếng cười ấy vượt thời gian, trở thành biểu tượng cho trí tuệ, lòng nhân hậu và sức sống kiên cường của người Việt.
Bài viết tham khảo
Trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam, tiếng cười luôn mang ý nghĩa sâu sắc: không chỉ là niềm vui mà còn là cách nhân dân bộc lộ thái độ sống, phản kháng cái xấu, hướng tới cái đẹp. Vở tuồng Nghêu, Sò, Ốc, Hến là một minh chứng tiêu biểu cho giá trị ấy – nơi tiếng cười trào phúng vang lên vừa giòn giã vừa đắng cay, phản ánh sâu sắc xã hội phong kiến mục ruỗng và tinh thần bất khuất của người dân lao động.
Tiếng cười trào phúng là tiếng cười châm biếm, mỉa mai, lột trần những thói hư tật xấu của con người và xã hội. Trong Nghêu, Sò, Ốc, Hến, tiếng cười ấy vang lên từ chính những nghịch cảnh đời thường: bọn quan lại như Lý Hà, Trùm Sò hiện lên ngu xuẩn, háo sắc, tham lam, còn người dân thì bị áp bức nhưng không ngu dại, trái lại thông minh và mưu trí. Cảnh Lý Hà ra lệnh “cùm chân nó lại” rồi được Trùm Sò mời đi “xơi chén rượu” vừa hài hước vừa cay đắng – nó bóc trần thói cửa quyền, hối lộ và sự coi thường sinh mạng con người. Ngao – kẻ bị cùm – vẫn có thể “nói lý” về việc phải hối lộ quan mới thoát án, một cách tố cáo tinh tế mà sâu cay. Trong khi đó, Ốc liều mình cứu bạn, đốt xích hậu để đánh lạc hướng quân canh – hành động ấy thể hiện trí tuệ và lòng nghĩa hiệp của người dân nghèo. Tiếng cười bật lên từ mưu mẹo, từ sự lật ngược tình thế, khiến cái ác, cái ngu trở thành trò cười cho thiên hạ.
Qua đó, nhân dân không chỉ cười để mua vui, mà cười để sống, để phản kháng. Tiếng cười trong Nghêu, Sò, Ốc, Hến có giá trị hiện thực rõ rệt: phơi bày xã hội phong kiến đầy bất công, nơi đồng tiền thao túng công lý. Đồng thời, tiếng cười ấy mang giá trị nhân đạo sâu sắc: nó đứng về phía người lương thiện, bênh vực cái đẹp, khẳng định niềm tin vào trí tuệ và sức mạnh của nhân dân. Nghệ thuật trào phúng dân gian đã tạo nên những tình huống, ngôn ngữ, hành động vừa buồn cười vừa thấm thía, thể hiện óc sáng tạo và tinh thần dân chủ của người Việt xưa.
Hơn thế, tiếng cười trào phúng vẫn còn giá trị cho đến hôm nay. Trong xã hội hiện đại, con người vẫn cần tiếng cười để soi chiếu những bất cập, để phê phán cái xấu và khẳng định cái đúng. Từ Nghêu, Sò, Ốc, Hến đến Số đỏ của Vũ Trọng Phụng hay các tác phẩm châm biếm đương đại, tiếng cười vẫn là dòng chảy bền bỉ trong đời sống tinh thần dân tộc.
Tiếng cười trào phúng trong Nghêu, Sò, Ốc, Hến không chỉ là nét đặc sắc nghệ thuật mà còn là biểu hiện của bản lĩnh và trí tuệ nhân dân. Qua tiếng cười, người dân lao động đã gửi gắm thái độ phê phán, niềm tin và khát vọng về một xã hội công bằng hơn. Tiếng cười ấy vang vọng mãi, vừa là bản nhạc trào phúng, vừa là khúc ca nhân ái, nhân văn của dân tộc Việt Nam.
Hot: 1000+ Đề thi giữa kì 1 file word cấu trúc mới 2025 Toán, Văn, Anh... lớp 1-12 (chỉ từ 60k). Tải ngay
- Sách - Sổ tay kiến thức trọng tâm Vật lí 10 VietJack - Sách 2025 theo chương trình mới cho 2k9 ( 31.000₫ )
 - Trọng tâm Lí, Hóa, Sinh 10 cho cả 3 bộ KNTT, CTST và CD VietJack - Sách 2025 ( 40.000₫ )
 - Sách lớp 10 - Combo Trọng tâm Toán, Văn, Anh và Lí, Hóa, Sinh cho cả 3 bộ KNTT, CD, CTST VietJack ( 75.000₫ )
 - Sách lớp 11 - Trọng tâm Toán, Lý, Hóa, Sử, Địa lớp 11 3 bộ sách KNTT, CTST, CD VietJack ( 52.000₫ )
 
CÂU HỎI HOT CÙNG CHỦ ĐỀ
Lời giải
Thể loại tuồng đồ.
Lời giải
Gợi ý:
- Đảm bảo yêu cầu về hình thức, dung lượng
+ Viết đúng hình thức đoạn văn (diễn dịch, quy nạp, móc xích…).
+ Đảm bảo dung lượng khoảng 200 chữ.
- Xác định đúng vấn đề nghị luận
+ Trình bày suy nghĩ về thực trạng công lý và quyền con người trong xã hội phong kiến xưa được phản ánh qua tác phẩm.
- Hệ thống ý:
+ Thực trạng được phản ánh:
. “Cửa quan” là nơi bất công, đầy gian trá, nơi đồng tiền và quyền lực chi phối công lý.
. Người dân lương thiện bị hành hạ, vu oan, phải chịu đòn roi, nhục nhã mà không có nơi kêu oan.
. Kẻ có quyền (quan, lý trưởng, trùm làng…) thì tham lam, nhũng nhiễu, coi việc xử án là dịp trục lợi, nhận hối lộ, ăn chặn.
+ Giá trị hiện thực:
. Phơi bày sự thối nát, vô đạo của bộ máy quan lại thời phong kiến.
. Tiếng cười trào phúng của nhân dân nhằm lên án bất công, đòi lại tiếng nói cho người dân thấp cổ bé họng.
+ Ý nghĩa nhân văn:
. Thể hiện ước mơ về một xã hội công bằng, nơi con người được tôn trọng và bảo vệ.
- Phát triển đoạn văn logic, thuyết phục
+ Dẫn chứng từ văn bản để minh chứng cho nhận định.
+ Thể hiện rõ suy nghĩ về thực trạng công lý và quyền con người trong xã hội phong kiến xưa được phản ánh qua tác phẩm.
- Đảm bảo ngữ pháp, liên kết:
+ Trình bày rõ ràng, mạch lạc, không mắc lỗi chính tả.
- Sáng tạo
+ Cách diễn đạt mới mẻ, có suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận.
Đoạn văn tham khảo
Đoạn trích Nghêu, Sò, Ốc, Hến đã phản ánh một cách sâu sắc và chua chát thực trạng công lý và quyền con người bị chà đạp trong xã hội phong kiến xưa. Cửa quan – nơi lẽ ra phải thực thi công lý – lại trở thành chốn buôn bán quyền lực, tiền bạc và tình dục. Người dân thấp cổ bé họng bị tra khảo, đánh đập, oan sai; trong khi bọn cường hào, lý trưởng, quan huyện thì hống hách, tham lam, sẵn sàng nhận hối lộ và bắt tay nhau để trục lợi. Qua đó, tác giả dân gian đã dùng tiếng cười châm biếm sắc sảo để phơi bày sự thối nát, vô nhân đạo của bộ máy cai trị, đồng thời thể hiện niềm cảm thông với người dân lương thiện bị dồn ép vào cảnh khốn cùng. Tiếng cười trong tác phẩm không chỉ là nụ cười chế giễu mà còn là tiếng khóc cho thân phận con người, gửi gắm ước vọng về một xã hội công bằng, nơi công lý không bị mua bán. Ngày nay, thông điệp ấy vẫn còn nguyên giá trị trong việc xây dựng một xã hội văn minh, dân chủ, thượng tôn pháp luật.
Lời giải
Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.
Lời giải
Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.
Lời giải
Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.
Lời giải
Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.