Danh sách câu hỏi
Có 209547 câu hỏi trên 4191 trang
You are going to read a newspaper article about sleep. Five paragraphs have been removed from the article. Choose from the paragraphs A – F the one which fits each gap (1 – 5). There is one extra paragraph which you do not need to use.
Enough Sleep?
Tiredness, it is often claimed, has become the modern conditions. As the richer, busier countries have grown, so sleeplessness and anxiety have also grown in the popular psyche. Research in the USA has found 40 million Americans to be chronically affected, and some recent best-selling novels in Britain have featured insomniacs as protagonists, or sleep-research laboratories as their settings.
However, there is a strong degree of certainty among scientists that women sleep for half an hour longer than men, and that older people require less sleep, though they don’t know why. When asked what sleep is for, some sleep researchers reply in cosmic terms: “Sleep is a tactic to travel through time without injury.”
_______________________________________________________________________________________
A. Beyond this, certainties blur into theories. It is often suggested, for example, that sleep repairs body tissue, or restores muscles, or rests the frontal section of the brain that controls speech and creativity. But all of this may happen more quickly during relaxed wakefulness, so no one is really sure.
B. Part of this interest is in sleep in general: in its rhythms, its uses and in problems with sleeping. But a central preoccupation remains. “People need more sleep,” says one leading sleep researcher. “People cut back on sleep when they’re busy. They get up too early to avoid rush hour.”
C. The sleep researchers seem interested in this theory. But the laboratory is not funded to investigate such matters. Its sponsors what its research to lead to practical solutions such as deciding where Take a break signs should be placed on motorways, and how different kinds of food and drink can affect driving and sleeplessness.
D. A coffee might have helped. Two cups, Dr. Reyner says, even after no sleep at all, can make you a safe driver for half an hour or more. She recommends a whole basket of alertness products: tablets, energy drinks, caffeinated chewing gum. Shift workers, she is quite sure, could probably use them.
E. In fact, the laboratory’s interest is more physical. In a darkened room stands a motorway simulator, the front section of a car facing a wide projection screen. The subjects are always told to arrive at 2pm, in the body’s natural mid-afternoon lull, after a short night’s sleep or no sleep at all. The projector is switched on and they are asked to drive, while answering questions. An endless road rolls ahead, sunlight glares; and the air is warm.
F. In Europe, such propositions are perhaps most thoroughly tested in a small, unassuming building on a university campus in the English midlands. The university sleep research laboratory has investigated, among many subjects, the effects of fatigue on sailors, the effects of airport noise on sleepers, and the dangers of motorway driving for flagging drivers.
[…] Lúc ấy đã khuya. Trong nhà ngủ yên thì Mị trở dậy thổi lửa. Ngọn lửa bập bùng sáng lên, Mị lé mắt trông sang thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại. Nhìn thấy tình cảnh như thế, Mị chợt nhớ lại đêm năm trước, A Sử trói Mị, Mị cũng phải trói đứng thế kia. Nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ, không biết lau đi được.
Trời ơi, nó bắt trói đứng người ta đến chết, nó bắt mình chết cũng thôi, nó bắt trói đến chết người đàn bà ngày trước cũng ở cái nhà này. Chúng nó thật độc ác.
Cơ chừng này chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết. Ta là thân đàn bà, nó đã bắt về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi… Người kia việc gì mà phải chết thế. A Phủ… Mị phảng phất nghĩ như vậy.
Đám than đã vạc hẳn lửa. Mị không thổi, cũng không đứng lên. Mị nhớ lại đời mình. Mị lại tưởng tượng như có thể một lúc nào, biết đâu A Phủ chẳng đã trốn được rồi, lúc ấy bố con Pá Tra sẽ bảo là Mị đã cởi trói cho nó. Mị liền phải trói thay vào đấy. Mị phải chết trên cái cọc ấy. Nghĩ thế, trong tình cảnh này, làm sao Mị cũng không thấy sợ…
Lúc ấy, trong nhà đã tối bưng. Mị rón rén bước lại, A Phủ vẫn nhắm mắt. Nhưng Mị tưởng như A Phủ đương biết có người bước lại… Mị rút con dao nhỏ cắt lúa, cắt nút dây mây. A Phủ cứ thở phè từng hơi, không biết mê hay tỉnh. Lần lần, đến lúc gỡ được hết dây trói ở người A Phủ thì Mị cũng hốt hoảng. Mị chỉ thì thào được một tiếng “Đi ngay…” rồi Mị nghẹn lại. A Phủ bỗng khuỵu xuống, không bước nổi. Nhưng trước cái chết có thể đến nơi ngay, A Phủ lại quật sức vùng lên, chạy.
Mị đứng lặng trong bóng tối.
Rồi Mị cũng vụt chạy ra. Trời tối lắm. Mị vẫn băng đi. Mị đuổi kịp A Phủ, đã lăn, chạy xuống tới lưng dốc.
Mị nói, thở trong hơi gió thốc lạnh buốt:
- A Phủ cho tôi đi!
A Phủ chưa kịp nói, Mị lại vừa thở vừa nói:
- Ở đây thì chết nất,
(Trích Vợ chồng A Phủ – Tô Hoài, Ngữ văn 12, Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2017)
Cảm nhận của anh/chị về tâm trạng nhân vật Mị trong đoạn trích trên. Từ đó, nhận xét về sức mạnh của tình yêu thương được thể hiện trong đoạn trích.
Đọc văn bản:
PHONG CÁCH SỐNG ĐẸP
Trong cuộc sống, mọi người đều muốn vươn tới những gì hay nhất, đẹp nhất và hoàn hảo nhất. Tuy nhiên đứng trước những cám dỗ của cuộc sống, bắt buộc mỗi người phải có đủ bản lĩnh để chọn cho mình một cách sống tích cực. Sống đẹp là một lối sống tích cực mà chúng ta cần phải hướng tới.
Sống đẹp được mỗi người cảm nhận theo cách khác nhau. Sống đẹp không phải quá khó để chúng ta có thể vươn tới, mà nó rất gần gũi với mỗi người. Điều đó chỉ khó khăn khi ta e ngại, buông xuôi, phó mặc cho số phận. Sống đẹp chỉ đơn giản là khi ta sống hết lòng vì mọi người, sống nhân ái và bao dung đối với tất cả. Rồi bạn sẽ thấy cuộc đời này thật đáng sống biết bao, tình cảm giữa người và người thật nồng ấm. Khi bạn sống đẹp là bạn đã thể hiện lối sống đầy tính nhân văn. Mở rộng lòng mình, đem yêu thương trao đi, chúng ta không mong được nhận lại, mà để ta cho đi niềm tin và hy vọng để họ có thể mạnh mẽ hơn. Sống đẹp chính là bạn đang sống có ích, có mục đích và có lý tưởng hẳn hoi. Sống có ý chí, bất chấp mọi khó khăn, thử thách để vươn lên. Vững tin vào tương lai tươi sáng, không bao giờ lùi bước hay đầu hàng số phận. Sống đẹp luôn là động lực để chúng ta phấn đấu. Nếu muốn có lối sống đẹp, chúng ta cần phải nhận thức đúng và trau dồi thường xuyên. Rèn luyện hàng ngày lâu dần sẽ hình thành thói quen, lối sống của ta vì vậy cũng dần được cải thiện.
Đẹp không có nghĩa là hình thể phải đẹp, mà điều quan trọng là đẹp ở tâm hồn, suy nghĩ và hành động. Cái đẹp được thể hiện từ những những việc làm nhỏ nhất trong cuộc sống đến nghị lực sống trong mỗi con người. Sẽ đẹp hơn nếu chúng ta biết xử lý hài hòa mối quan hệ tương tác giữa giá trị vật chất và giá trị tinh thần. Sống đẹp đòi hỏi chúng ta phải biết nhận thức, biết yêu thương, biết giữ mình khỏi những cạm bẫy của cuộc đời. Ranh giới giữa sống đẹp và không đẹp vô cùng mong manh, vì cuộc sống hiện đại dễ làm cho con người có xu hướng sống thiên về vật chất, vô tình đánh mất vẻ đẹp của tâm hồn. Bên cạnh những người có lối sống đẹp cũng có một số người lại có những lối sống đi ngược lại với chuẩn mực đạo đức xã hội. Họ sống ích kỷ, vụ lợi, chỉ biết đến lợi ích của bản thân, sống buông thả tùy tiện, tha hóa nhân cách. Phong cách của bạn phải do bạn quyết định, có sống đẹp hay không cũng do chính bạn quyết định. Hãy sống sao khi ngoảnh đầu nhìn lại, ta thấy mình đã làm được nhiều việc thật ý nghĩa.
Học tập và rèn luyện đúng cách là con đường duy nhất đưa ta đến với một lối sống đẹp. Hãy sống đẹp mỗi ngày, hãy luôn gắn kết mình với mọi người, với cuộc sống, rồi bạn sẽ thấy cuộc đời này vốn dĩ rất đẹp.
( Theo Minh Uyên, baobinhthuan.com.vn)
Xác định phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong văn bản.
Ít lâu nay hắn xe thóc Liên đoàn lên tỉnh. Mỗi bận qua cửa nhà kho lại thấy mấy chị con gái ngồi vêu ra ở đây. Hắn đoán họ ngồi đấy nhặt hạt rơi vãi, hay ai có công việc gì gọi đến thì làm. Một lần hắn đang gò lưng kéo cái xe bò thóc vào dốc tỉnh, hắn hò một câu chơi cho đỡ nhọc. Hắn hò rằng:
“Muốn ăn cơm trắng mấy giò này!
Lại đây mà đẩy xe bò với anh, nì!”
Chủ tâm hắn cũng chẳng có ý chòng ghẹo cô nào, nhưng mấy cô gái lại cứ đẩy vai cô ả này ra với hắn, cười như nắc nẻ:
- Kìa anh ấy gọi! Có muốn ăn cơm trắng mấy giò thì ra đẩy xe bò với anh ấy!
Thị cong cớn:
- Có khối cơm trắng mấy giò đấy! Này, nhà tôi ơi, nói thật hay nói khoác đấy?
Tràng ngoái cổ lại vuốt mồ hôi trên mặt cười:
- Thật đấy, có đẩy thì ra mau lên!
Thị vùng đứng dậy, ton ton chạy lại đẩy xe cho Tràng.
- Đã thật thì đẩy chứ sợ gì, đằng ấy nhỉ! - Thị liếc mắt, cười tít.
Tràng thích lắm. Từ cha sinh mẹ đẻ đến giờ, chưa có người con gái nào cười với hắn tình tứ như thế.
Lần thứ hai, Tràng vừa trả hàng xong, ngồi uống nước ở ngoài cổng chợ tỉnh thì thị ở đâu sầm sập chạy đến. Thị đứng trước mặt hắn sưng sỉa nói:
- Điêu! Người thế mà điêu!
Hắn giương mắt nhìn thị, không hiểu. Thật ra lúc ấy hắn cũng chưa nhận ra thị là ai. Hôm nay thị rách quá, áo quần tả tơi như tổ đỉa, thị gầy sọp hẳn đi, trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt.
- Hôm ấy leo lẻo cái mồm hẹn xuống, thế mà mất mặt. à, hắn nhớ ra rồi, hắn toét miệng cười:
- Chả hôm ấy thì hôm nay vậy. Này hẵng ngồi xuống ăn miếng giầu đã.
- Có ăn gì thì ăn, chả ăn giầu.
Thị vẫn đứng cong cớn trước mặt hắn.
- Đây, muốn ăn gì thì ăn.
Hắn vỗ vỗ vào túi:
- Rích bố cu, hở!
Hai con mắt trũng hoáy của thị tức thì sáng lên, thị đon đả:
- Ăn thật nhá! Ừ ăn thì ăn sợ gì.
Thế là thị ngồi sà xuống ăn thật. Thị cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì. Ăn xong thị cầm dọc đôi đũa quệt ngang miệng, thở:
- Hà, ngon! Về chị ấy thấy hụt tiền thì bỏ bố.
Hắn cười:
- Làm đếch gì có vợ. Này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về.
Nói thế Tràng cũng tưởng là nói đùa, ai ngờ thị về thật
(Trích Vợ nhặt, Kim Lân, Ngữ văn 12, Tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam, 2018, tr.26,27)
Anh/ Chị hãy phân tích nhân vật người vợ nhặt trong đoạn văn trên; từ đó, nhận xét về tư tưởng nhân đạo của nhà văn khi xây dựng nhân vật.
Đọc văn bản:
3-12-1971
[…]
Mình xa Hà Nội, xa phố xá, con người, kỷ niệm… thế cũng mấy tháng rồi. Quen dần với rừng âm u của Yên Thế, những lần vào sâu trong rừng lấy gỗ. Nghìn âm thanh, vạn âm thanh... Nhưng không chút âm thanh nào giống những bờ đường bình yên của thành phố. Hôm đi xem triển lãm Vân Hồ, nhìn người, nhìn cảnh Hà Nội, thấy phong thái bình tĩnh, tự tin quá, những hàng cây vô tư lự, những vòng xe lăn. Bọn mình túm tụm dưới gốc bàng bên vỉa hè và ao ước ngày trở lại Thủ đô. Những đứa con trai, con gái của Hà Nội đi xa vẫn hướng về quả tim Tổ quốc như thế đó.
Mình không nhớ Hà Nội chung chung như thế, Hà Nội, với mình là ngôi nhà nhỏ bên cái ao nhỏ dạo này chắc là nhiều muỗi lắm. Là phố Nguyễn Du với đường cây ven hồ, ở đó có ngôi nhà 72 vừa gần gũi, vừa xa lạ, xa vời. Là đường Bà Triệu, thư viện, đường Nguyễn Ái Quốc, hồ Tây... Là những kỷ niệm thấm mát tâm hồn…
Nghĩ về Hà Nội là nghĩ về N. Anh, nghĩ đến những ngày bên nhau đi trong hương đêm mùa hè, của đêm mùa thu... Ta gặp nhau làm gì nhỉ? Ta nắm tay nhau làm gì nhỉ? Ta siết chặt trong nỗi xúc động làm gì... N. Anh bé nhỏ yêu dấu đêm nay ở đâu... Thương N. Anh thật nhiều mà không biết nói sao, không biết làm sao cả. Tội nghiệp N. Anh, cứ phải buồn mãi, buồn dai dẳng... Sao không vui với bạn bè mỉm cười. Mùa xuân... đâu rồi? Đêm gần nhau nhất lại là đêm chia tay. Hạnh phúc thả những đốm sáng bay lơ lửng trên trời. Vũ trụ bao la quá mà tay N. Anh nhỏ nhắn chừng nào...
(Trích Mãi mãi tuổi hai mươi, nhật kí của liệt sĩ Nguyễn Văn Thạc, NXB Thanh niên, 2005, Tr 56)
Xác định phong cách ngôn ngữ của đoạn trích trên.
Sáng hôm sau, mặt trời lên bằng con sào, Tràng mới trở dậy. Trong người êm ái lửng lơ như người vừa ở trong giấc mơ đi ra. Việc hắn có vợ đến hôm nay hắn vẫn còn ngỡ ngàng như không phải.
Hắn chắp hai tay sau lưng lững thững bước ra sân. Ánh nắng buổi sáng mùa hè sáng lóa xói vào hai con mắt còn cay sè của hắn. Hắn chớp chớp liên hồi mấy cái, và bỗng vừa chợt nhận ra, xung quanh mình có cái gì vừa thay đổi mới mẻ, khác lạ. Nhà cửa, sân vườn hôm nay đều được quét tước, thu dọn sạch sẽ gọn gàng. Mấy chiếc quần áo rách như tổ đỉa vẫn vắt khươm mươi niên ở một góc nhà đã thấy đem ra sân hong. Hai cái ang nước vẫn để khô cong ở dưới gốc ổi đã kín nước đầy ăm ắp. Đống rác mùn tung bành ngay lối đi đã hót sạch.
Ngoài vườn người mẹ đang lúi húi giẫy những búi cỏ mọc nham nhở. Vợ hắn quét lại cái sân, tiếng chổi từng nhát kêu sàn sạt trên mặt đất. Cảnh tượng thật đơn giản, bình thường nhưng đối với hắn lại rất thấm thía cảm động. Bỗng nhiên hắn thấy hắn thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng. Một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng. Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này. Hắn xăm xăm chạy ra giữa sân, hắn cũng muốn làm một việc gì để dự phần tu sửa lại căn nhà.
(Trích Vợ nhặt – Kim Lân, Ngữ văn 12, tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam, 2008, tr.30)
Phân tích nhân vật Tràng trong đoạn trích trên.Từ đó, nhận xét cái nhìn mới mẻ về người nông dân của nhà văn Kim Lân.
Ai ở xa về, có việc vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy có một cô con gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi. Người ta thường nói: Nhà Pá Tra làm thống lí, ăn của dân nhiều, đồn Tây lại cho muối về bán, giàu lắm, nhà có nhiều nương, nhiều bạc, nhiều thuốc phiện nhất làng. Thế thì con gái nó còn bao giờ phải xem cái khổ mà biết khổ, mà buồn. Nhưng rồi hỏi ra mới rõ cô ấy không phải là con gái nhà Pá Tra: Cô ấy là vợ A Sử, con trai thống lí Pá Tra.
Cô Mị về làm dâu nhà Pá Tra đã mấy năm. Từ năm nào, cô không nhớ, cũng không ai nhớ. Nhưng người nghèo ở Hồng Ngài thì vẫn còn kể lại câu chuyện Mị về làm người nhà quan thống lí. Ngày xưa, bố Mị lấy mẹ Mị không đủ tiền cưới, phải đến vay nhà thống lí, bố của thống lí Pá Tra bây giờ. Mỗi năm đem nộp lãi cho chủ nợ một nương ngô. Đến tận khi hai vợ chồng về già rồi mà cũng chưa trả được nợ. Người vợ chết, cũng chưa trả hết nợ.
Cho tới năm ấy Mị đã lớn, Mị là con gái đầu lòng. Thống lí Pá Tra đến bảo bố Mị:
– Cho tao đứa con gái này về làm dâu thì tao xóa hết nợ cho.
Ông lão nghĩ năm nào cũng phải trả một nương ngô cho người ta, thì tiếc ngô, nhưng cũng lại thương con quá. Ông chưa biết nói thế nào thì Mị bảo bố rằng:
– Con nay đã biết cuốc nương làm ngô, con phải làm nương ngô giả nợ thay cho bố. Bố đừng bán con cho nhà giàu.
Đến Tết năm ấy, Tết thì vui chơi, trai gái đánh pao, đánh quay rồi đêm đêm rủ nhau đi chơi. Những nhà có con gái thì bố mẹ không thể ngủ được vì tiếng chó sủa. Suốt đêm, con trai đến nhà người mình yêu, đứng thổi sáo xung quanh vách. Trai đến đứng nhẵn cả chân vách đầu buồng Mị. Một đêm khuya, Mị nghe tiếng gõ vách. Tiếng gõ vách hò hẹn của người yêu. Mị hồi hộp lặng lẽ quơ tay lên thì gặp hai ngón tay lách vào khe gỗ, sờ một ngón tay thấy có đeo nhẫn. Người yêu của Mị thường đeo nhẫn ngón tay ấy. Mị bèn nhấc tấm vách gỗ. Một bàn tay dắt Mị bước ra. Mị vừa bước ra, lập tức có mấy người choàng đến, nhét áo vào miệng Mị rồi bịt mắt, cõng Mị đi.
Sáng hôm sau, Mị mới biết mình đang ngồi trong nhà thống lí Pá Tra. Họ nhốt Mị vào buồng. Ngoài vách kia, tiếng nhạc sinh tiền cúng ma đương rập rờn nhảy múa.
(Trích Vợ chồng A Phủ – Tô Hoài, Ngữ văn 12, tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam, 2008, tr.4,5)
Phân tích đoạn trích trên.Từ đó, nhận xét về nghệ thuật kể chuyện của Tô Hoài.
Đọc văn bản:
Một anh sinh viên vừa tốt nghiệp đại học đang tìm việc làm đã tham dự một cuộc thi sáng tạo chuyên ngành do liên hiệp các trường đại học trong cả nước tổ chức. Sau nhiều vòng sơ khảo kéo dài cả tháng trời, anh được lọt vào nhóm những người xuất sắc nhất để dự thi vòng chung kết. Rồi anh cũng vất vả vượt qua các đối thủ trong cuộc đấu trí cuối cùng, kéo dài ba ngày liền căng thẳng và giành được giải nhất. Phần thưởng cho anh là một món tiền khá lớn mà cuộc đời sinh viên trước nay của anh chưng từng mơ ước tới. Sau khi rời khỏi hội trường và trốn nhanh khỏi ánh đèn camera của báo giới, anh vào bãi lấy xe ra về. Bất chợt một người phụ nữ tiến đến gần anh. Bà ta nghẹn ngào:
- Chú ơi! Chúc mừng chú, thật vinh dự cho chú khi đã đạt được giải nhất trong cuộc thi khó khăn này. Tôi có một chuyện muốn nói với chú nhưng không biết có tiện không. Nếu chí có con nhỏ chú mới hiểu được điều tôi sắp nói. Con của tôi đang bị ung thư nằm trong bệnh viện, nếu không có một khoản tiền để mổ, chắc em nó không qua khỏi được! Mà tôi thì…
- Thế bác cần bao nhiêu? – Anh sinh viên nhìn bà hỏi, lòng cảm thông thực sự.
Sau khi nghe người phụ nữ kể hết sự việc, anh liền rút phong bì đựng số tiền vừa được thưởng và trao hết cho bà.
- Cầu mong cho con bác qua được hiểm nguy. Bác về lo cho em ấy ngay đi – anh nói.
- Cảm ơn chú, không biết tôi phải lấy gì để đền ơn chú đây.
Nói rồi người phụ nữ với vẻ xúc động quày quả bước ra cổng.
Vài ngày sau anh có dịp quay lại trường. Một người trông thấy liền tới hỏi:
- Có người kể với tôi rằng tối hôm trước anh có gặp một người phụ nữ sau cuộc thi và anh đã cho bà ấy tiền để chữa bệnh cho đứa con sắp chết của bà ấy, phải không?
Người thanh niên gật đầu xác nhận.
- Vậy thì tôi phải báo với anh tin này để anh biết. Bà ta là một tay lừa đảo thật sự đấy. Bà ta chẳng có đứa con nào bị bệnh gần chết cả. Anh cả tin quá! Anh bị lừa rồi, anh bạn ạ!
Một thoáng im lặng, anh thanh niên hỏi lại:
- Có thật là không có đứa bé nào bị bệnh gần chết cả, đúng không?
- Đúng vậy. Tôi bảo đảm với anh như thế - người đàn ông quả quyết.
- Ồ, đó là tin tốt lành nhất trong ngày mà tôi được nghe đấy – người thanh niên nói.
Đoạn anh nói thêm:
- Chúng ta nên ăn mừng vì không có đứa trẻ nào phải chết cả.
(Trích từ “Hạt giống tâm hồn”, Tập 1, Nhiều tác giả, NXB Tổng hợp TP.HCM, 2019)
Xác định phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong văn bản.