Câu hỏi:

13/07/2024 1,113

Viết bài văn nghị luận phân tích, đánh giá tác phẩm truyện Cây khế. (10 mẫu)

Quảng cáo

Trả lời:

verified
Giải bởi Vietjack

Mẫu 1

Trong những câu chuyện cổ tích mà em đã đọc đã nghe truyện cổ tích Cây khế là câu chuyện để lại trong lòng em những ấn tượng vô cùng sâu sắc trong lòng em, bởi nó thể hiện cuộc đấu tranh giữa những cái thiện và cái ác.

Truyện cổ tích “Cây khế” là một câu chuyện có nhiều tình tiết vô cùng hấp dẫn, được tạo bởi trí tưởng tượng của con người khiến cho người đọc vô cùng yêu mến thích thú. Câu chuyện xoay quanh hai nhân vật anh và em cha mẹ qua đời để lại một khối tài sản cho hai anh em cùng nhau mưu sinh. Nhưng khi cả hai trưởng thành người anh quyết định phân chia tài sản cho người em ra ngoài ở riêng. Những người anh tham lam chiếm hết tài sản của cải có giá trị, chỉ phân chia cho người em một cây khế và cái lều mà thôi.

Theo như lý giải của người anh trai thì anh ta là cả có trách nhiệm to lớn phải cúng giỗ cha mẹ, rồi trách nhiệm với người quá cố nên những tài sản như nhà cửa, trâu bò, lợn, gà ruộng vườn anh ta có quyền thừa hưởng. Người em thấy anh phân chia cho mình như vậy cũng không ý kiến gì mà chỉ âm thầm đồng ý. Anh liên dọn ra ở riêng, trông chờ cây khế của mình chín để bán kiếm tiền sống qua ngày. Còn ngày ngày người em phải đi làm thuê cho người ta kiếm tiền mưu sinh. Công việc nặng nhọc nhưng ông vô cùng nhưng người em vẫn vui vẻ yêu đời.

Một ngày nọ, người em ngủ say thì nghe có tiếng chim thần tới ăn khế của mình.. Người em hốt hoảng chạy cầu xin chim thần “Chim ơi đừng ăn khế của ta nữa ta chỉ có cây khế này làm tài sản mà thôi, chim ăn hết rồi ta lấy gì ta sống”. Chim thần nghe vậy liền nói với người em “Ta ăn một quả trả một cục vàng may túi ba gang mang đi mà đựng”. Nói rồi chim thần bay đi, để lại người em với những suy nghĩ vô cùng hoang mang không biết chim thần nói hư hay thực. Nhưng tối hôm đó người em vẫn may một chiếc túi ba gang như lời chim thần nói. Sáng hôm sau, đúng như lời hẹn chim thần đã tới như lời hẹn rồi cõng người em bay qua biển tới một đảo ngoài biển chứa toàn vàng là vàng. Người em thấy nhiều vàng trong lòng vui mừng khôn xiết vội vàng nhặt đầy túi rồi lên lưng chim thần cõng về nhà.

Người em giàu lên trông thấy, khiến cho người anh vô cùng ngạc nhiên không biết nguyên nhân nào khiến người em giàu nhanh như vậy. Người anh sang nhà em chơi hỏi chuyện người em, người em thật thà kể lại câu chuyện chim thần ăn khế trả vàng. Người anh nghe xong vội vàng xin đổi nhà cửa ruộng vườn cho người em chỉ lấy cây khế và túp lều của người em mà thôi. Người em đồng ý ngay, thế là tối đó người anh sang túp lều của người em để trông nom cây khế.

Ngày hôm sau, chim thần lại tới ăn khế. Người anh làm giống như người em hôm trước khóc lóc cầu xin chim thần đừng ăn khế của mình vì nó là tài sản duy nhất của mình. Chim thần liền đáp “Ăn một quả trả một cục vàng, may túi ba gang đem đi mà đựng”. Người anh tham lam tính toán nên đã may hẳn chiếc túi to gấp bốn lần mười hai gang tay để đi lấy vàng như lời chim thần nói.

Ngày hôm sau đúng như lời nói hứa, chim thần đã tới và đưa người anh đi lấy vàng. Người anh tới đảo vàng hai mắt sáng rực vô cùng mừng rỡ vội vàng nhét đầy túi tham của mình. Nhưng trên đường về gặp mưa bão người anh vốn đã to béo, lại mang quá nhiều vàng khiến chim thần đuối sức nên đã hất người anh ngã xuống biển chết mất mạng. Người anh phải gánh hậu quả thiệt mạng vì lòng tham vô đáy của mình, anh ta không nghe lời dặn của người dặn dò của chim thần nên đã thiệt mạng.Chú chim thần trong câu chuyện “Cây khế” là một người vô cùng trọng chữ tín, luôn thực hiện đúng lời hứa của mình, khi ăn khế chim thần đã hứa trả vàng nên lần nào cũng thực hiện vô cùng nghiêm túc lời hứa của mình.

Thông qua câu chuyện cổ tích “Cây khế” người xưa muốn khuyên nhủ nhắc nhở con người ta không nên để lòng tham của mình làm mờ mắt, hãy bình tĩnh tỉnh táo để phân tích biết trước biết sau, đúng sai trong cuộc sống này, để không biến mình thành kẻ tham lam. Tình cảm gia đình, tình cảm anh em luôn được người xưa coi như chân tay, vô cùng thiêng liêng cao quý không nên vì vật chất làm mất đi tình cảm anh em gắn bó tình cảm máu mủ, cùng cha cùng mẹ.



Những người ở hiền ắt sẽ gặp lành còn những kẻ gian ngoan, tham lam thì sẽ ác giả ác báo, con người đều có luật nhân quả của mình nên nếu gieo gió ắt gặp bão. Người anh tham lam nên đã biến mình thành nô lệ cho đồng tiền, chim thần đã giữ lời hứa nhưng người anh lại không giữ lời may một chiếc túi quá to khiến chim phải vất vả mang anh ta qua biển, nhưng gặp bão nên việc chim thần hất anh ta rơi xuống biển chính là hậu quả mà anh ta phải gánh chịu.

Mẫu 2

Truyện cổ tích là một món quà không thể thiếu với bất kỳ một đứa trẻ nào. Đặc biệt là với những em bé Việt Nam, thì truyện cổ tích chính là món ăn tinh thần quen thuộc, không thể nào bỏ qua.Trong những câu chuyện cổ tích em đã được nghe thì chuyện cổ tích "Cây khế" là câu chuyện để lại nhiều ấn tượng sâu sắc với người đọc bởi nó tố cáo tội ác của những kẻ tham lam và hướng con người tới cuộc sống lương thiện. Truyện cổ tích "Cây khế" là một câu chuyện chứa nhiều tình tiết ly kỳ hấp dẫn, khiến cho các bạn trẻ vô cùng thích thú, yêu mến câu chuyện này.

Chuyện kể về một gia đình nó có hai anh em, cha mẹ qua đời để lại tài sản cho hai anh em. Khi hai anh em lớn lên, đến tuổi lập gia đình và phải ra ở riêng, thì người anh quyết định phân chia tài sản cha mẹ để lại. Người anh cho rằng mình là anh cả trách nhiệm cúng giỗ cha mẹ nên nhà cửa, ruộng vườn, trâu bò, lợn gà cái gì quý giá thì người anh được hưởng. Chỉ chia cho người em một mảnh vườn nhỏ có một túp lều chui ra chui vào, và một cây khế.

Người em khi nghe anh phân chia cho vợ chồng mình như vậy cũng cảm thấy hợp lý nên vui vẻ đồng ý rồi dọn ra ở riêng. Ngày ngày, người em đi làm thuê cuốc mướn cho người ta, tối về nhà ngủ ở chiếc lều nhỏ cạnh cây khế. Một hôm người em đang ngủ say thì nghe tiếng quạ kêu rất to "Quạ!Quạ!" người em tỉnh giấc thấy có một con chim rất to đang ăn khế của mình. Người em cầm cây đuổi chú chim đi, mồm van xin "Chim ơi! mày đừng ăn khế của tao, cả gia tài của tạo có mỗi cây khế này thôi. Mày ăn hết tao biết lấy gì tao sống".

Chim thần nghe người em nói vậy liền đáp "Ăn một quả trả một cục vàng, may túi ba gang đem đi mà đựng". Nói rồi chú chim thần bay đi. Người em nghe vậy lấy làm lạ lắm, không biết chim thần có nói thật không. Nhưng anh vẫn thử xem sao, nghĩ vậy anh lấy mảnh vải may một chiếc túi ba gang. Đúng như lời chim thần đã nói, ngày hôm sau chim thần lại tới ăn khế, rồi bảo người em ngồi lên lưng mình nó cõng người em vượt biển cả tới một hòn đảo toàn vàng là vàng. Người em đựng đầy túi ba gang rồi chim thần lại cõng chàng bay về nhà.

Từ ngày có vàng cuộc sống của người em khấm khá hơn trông thấy. Hai vợ chồng người anh không hiểu chuyện gì xảy ra, rồi một hôm người anh sang gặp người em dò hỏi vì sao chú giàu nhanh thế? Người em thật thà kể lại câu chuyện ăn khế trả vàng của chim thần. Thế là người anh nghe xong thích quá bèn nói với người em rằng "Chúng ta hãy đổi vị trí cho nhau" từ nay em lấy nhà lớn, vườn tược, trâu bò, con anh dọn ra túp lều và lấy cây khế. Ngày hôm sau, người em cũng đang ngủ dưới gốc khế thì chim thần tới ăn khế, người anh giả vờ khóc lóc than nghèo chim thần lại nói "Ăn một quả trả một cục vàng may túi ba gang đem đi mà đựng"

Người anh tham lam may hẳn chiếc túi mười hai gang tay cho to đựng được nhiều vàng. Ngày hôm sau chim thần lại tới như đã hẹn nó cắp người em ra đảo vàng, người anh nhìn thấy vàng lóa cả mắt, rồi vơ vét rất nhiều đựng đầy túi, nhét vào người, nhưng khi đi qua biển chim thần gặp cơn bão người em to béo nặng cân, lại thêm số vàng lớn nên sức chim thần không cõng nổi nó hất người anh ngã rơi xuống biển chết mất xác. Hậu quả mà người anh nhận được đó chính là sự trả giá của người anh khi quá tham lam, không làm theo lời chim thần căn dặn, may một chiếc túi lớn đựng nhiều vàng, khiến chim thần kiệt sức.

Chú chim thần trong câu chuyện này là một chú chim trọng chữ tín biết giữ lời hứa. Khi đã hứa ăn khế trả vàng chú chim thần đều thực hiện nghiêm túc không nuốt lời, thể hiện chú chim là người biết giữ lời hứa của mình. Qua truyện cổ tích Cây khế người xưa muốn nhắc nhở con người chúng ta đừng để lòng tham che mờ đi đôi mắt của mình, hãy tỉnh táo để phân tích tình hình để biết phân biệt trước sau, đúng sai trong cuộc đời này. Tình cảm anh em trong gia đình là tình cảm thiêng liêng cao quý, không nên vì một chút của cải vật chất mà làm mất đi tình cảm gia đình gắn bó, keo sơn.Hãy luôn nhớ rằng "ở hiền gặp lành còn ác giả ác báo" con người sống ở đời đều có luật nhân quả của mình, không nên vì một chút tham lam, tiền bạc tài sản mà đánh mất nhân cách, lương tri của con người mình, biến mình thành nô lệ của đồng tiền một cách ngu ngốc.

Câu chuyện này cũng dạy chúng ta một bài học về sự đền ơn đáp nghĩa. Chú chim thần ăn khế biết lấy vàng để trả cho con người, thể hiện tấm lòng của chú chim dành cho người nuôi trồng cây khế. Chúng ta là những con người được hưởng những thành quả tốt đẹp từ bố mẹ, thầy cô… cần phải có thái độ biết ơn và trả ơn, đó mới là đúng đạo lý

Mẫu 3

Truyện cổ tích cây khế là một trong những câu chuyện rất thân thuộc đối với mỗi đứa trẻ. Đây là một trong nhưng câu chuyện thần kỳ mà mỗi đứa trẻ khi còn bé đều thuộc làu làu và nghe mãi mà không bao giờ biết chán. Hình ảnh con chim phượng hoàng biết nói tiếng người là một hình ảnh rất hấp dẫn và rất thu hút những độc giả bé con không khỏi mắt chứ A mồm chứ O khi nghe đến chuyện ấy. Và không ai là không biết tới câu nói của chim phượng hoàng với người em trai: “Ăn một quả, trả cục vàng, may túi ba gang, đem đi mà đựng”. Nhưng ẩn chứa trong những câu chuyện ly kỳ ấy lại là những bài học, những ý nghĩa sâu xa về cách đối xử giữa con người với con người.

Hai người anh em trai sống hòa thuận với nhau, khi cha mẹ mất, có để lại chút tài sản cho hai người con và căn dặn hai người phải sống hòa thuận và giúp đỡ lẫn nhau. Tuy nhiên, khi người anh trai có gia đình thì người anh không mảy may suy nghĩ đến đứa em trai út của mình mà ngang nhiên lấy hết tài sản, chỉ để lại cho em một túp lều tạm bợ và một cây khế. Người em trai tốt bụng vì thương anh chị làm lụng mà mình thì có một mình nên vui vẻ nhận lấy phần mà không hề so đo hay tính toán gì.

Người em trai thì chăm chỉ làm việc kiếm sống, nhưng luôn nhận được sự ghẻ lạnh và kinh thường từ người chị dâu và kể cả với anh trai mình. Nhiều người đọc phải thốt lên: làm sao lại có một người anh trai như vậy, sao mà lại nhẫn tâm đến thế. Anh em phải đùm bọc, thương yêu nhau nhưng người anh trai này lại tham lam và ích kỳ đến vậy.

Khi chú chim phượng hoàng đến ăn khế, câu nói của chim luôn vang vọng trong tâm trí mỗi chúng ta: “Ăn một quả, trả cục vàng, may túi ba gang, đem đi mà đựng”. Người em tốt bụng chỉ nghĩ chim nói vậy thôi, nên cũng không suy nghĩ gì vậy mà chim đã thực hiện đúng lời hứa của mình. Mấy ngày sau chim đến và chở người em trai đi đến nơi lấy vàng. Ngay đến cả một chú chim còn biết giữ lời hứa, đã nói thì phải thực hiện thì làm sao giữa con người với nhau lại không biết quan tâm, sẻ chia và giữ lời hứa với nhau?

Người em thật thà, đem kể hết chuyện với gia đình người anh, bản tính tham lam, người anh cũng muốn được giàu có như thế nên đã xin chim cho đi theo, nhưng vì lòng tham vô đáy, không bao giờ là quá đủ nên đã bị rơi xuống vực thảm. Hậu quả mà người anh nhận phải đều là do người chứ có phải tại chim đâu, mà chim đã cảnh báo trước rồi nhưng người anh tham lam đã không chịu nghe theo.

Con chim ‘thần’ trong truyện của Cây khế là một con có tình có nghĩa, biết giữ lời hứa. Chiếc túi ba gang mà chim dặn người em mang đi ẩn chứa một lời nhắn nhủ kín đáo: phải biết sống cho đúng đạo lý và không được để lòng tham che mờ mắt. Cũng qua chuyện này, dân gian muốn nhắc nhở chúng ta, lòng tham làm ta đánh mất đi chính bản thân mình, khiến con người ta trở nên thấp hèn, xấu xa. Và hãy luôn nhớ câu tục ngữ “ở hiền gặp lành” của ông cha ta, làm việc thiện thì sẽ ắt gặp nhiều điều may mắn và tốt đẹp.

Câu chuyện cây khế là câu chuyện rất hay, một câu chuyện về bài học về đến ơn đáp nghĩa, niềm tin ở hiền gặp lành đối với tất cả mọi người. Đặc biệt là phải giáo dục trẻ em ngay từ khi còn nhỏ.

Mẫu 4

Lòng tham của con người là vô tận. Và lòng tham có thể giết chết tình bạn, tình anh em, họ hàng…thậm chí lòng tham có thể giết chết chính chúng ta. Thế nên, dân gian ta từ xa xưa đã rút ra nhiều bài học quý báu để lại cho đời sau với những câu chuyện vô cùng ý nghĩa về lòng tham, trong đó có truyện cổ tích “Cây khế”.

Cây khế xoay quanh câu chuyện về hai anh em ruột. Sau khi bố mẹ đột ngột qua đời, do lời xúi giục của vợ mà người anh cả chiếm hết tài sản chỉ chia cho người em một mảnh đất nhỏ với cây khế. Và câu chuyện trở nên hấp dẫn với chính cây khế, người anh chia cho người em. Một chú chim lạ, to lớn đã đến ăn những quả khế chín mọng khiến vợ chồng người xem xót xa, chạy ra xua đuổi. Nhưng thay vì bỏ đi, chú chim đã mang đến cho đôi vợ chồng nghèo, tốt bụng món quà với lời hứa, “ăn một quả trả cục vàng”. Và thực tế, chú chim không chỉ trả một cục vàng mà còn cả bao tải ba gang vàng cho vợ chồng người em.

Đọc đến đây, độc giả, nhất là những đôc giả nhỏ tuổi không khỏi vui mừng hạnh phúc, bởi trải qua bao khó khăn, thiệt thòi, sự chèn ép của vợ chồng người anh, hai vợ chồng người em đã gặp may mắn với chính lòng tốt, và sự giản dị của mình. Họ được trả công và sứng đáng được hưởng một cuộc sống hạnh phúc. Tuy nhiên, nếu như câu chuyện dừng ở đó thì thật bình thường. Vợ chồng người anh sau khi biết được vì sao người em từ nghèo khó bỗng chốc giàu sang đã quyết định đổi gia tài của mình chỉ để lấy cây khế. Nhưng thay vì may túi ba gang tay, vợ chồng người anh đã may cái túi to đến chín gang tay. Và họ đã chết bởi chính lòng tham của mình, khi vàng quá nặng, chú chim không thể chở nổi đã hất cả vợ chồng người anh lẫn vàng bạc xuống biển sâu.

Đến đây, không chỉ vui khi vợ chồng người em được hạnh phúc với cuộc sống đầy đủ, sung túc mà còn hả hê trước hậu quả mà người anh phải gánh chịu. Như vậy, với truyện “Cây khế”, người em đại diện cho những người hiền lành, thật thà, chịu thương, chịu khó, biết chia sẻ, nhường nhịn. Còn người anh đại diện cho những kẻ tham lam, bủn xỉn, ích kỷ thậm chí là độc ác. Như bất kỳ một câu chuyện cổ tích hay ngụ ngôn trong dân gian, truyện cây khế không dài và diễn biến câu chuyện không phức tạp, nhưng qua câu chuyện, qua mối quan hệ giữa hai anh em cho chúng ta những bài học ý nghĩa ở đời.

Trước hết, đó là bài học về tình anh em máu mủ ruột già. Trong bất cứ trường hợp nào, anh em phải biết yêu thương lẫn nhau và đừng như người anh trong câu chuyện, thật ích kỷ, hẹp hòi chỉ nghĩ đến bản thân mình mà đẩy mọi khó khăn khăn về cho người em. Sự tham tham của lòng người khiến cho người anh bất chấp tình anh em mà không chia gia tài bố mẹ để lại, để rồi, trong khi người anh được sống sung sướng thì người em phải sống hoàn cảnh khó khăn. Nếu như, người anh bớt đi sự hẹp hòi ích kỷ của mình, thì tình anh em của họ sẽ bền chặt biết bao, họ sẽ trở thành chỗ dựa cho nhau.

Bài học thứ hai đó là sự cần cù, chăm chỉ, siêng năng sẽ được đáp trả xứng đáng. Người em trong câu chuyện cây khế là một ví dụ điển hình. Dù không được người anh chia sẻ của cả nhưng bằng sự cần cù, chịu thương, chịu khó của mình mà người em vẫn có một cuộc sống, dù không đủ đầy về vật chất nhưng không thiếu về tinh thần. Phần thưởng mà chú chim mang đến với họ dù thật bất ngờ và nhuốm màu “cổ tích” nhưng đó là món quà xứng đáng cho sự thật thà, chăm chỉ. Cuộc sống hiện thực cũng vậy, sự chăm chỉ, siêng năng sẽ luôn nhận được sự chia sẻ của mọi người.

Nhưng có lẽ bài học sinh động nhất, chân thực nhất và ý nghĩa nhất mà “Cây khế” mang lại cho chúng ta chính là bài học về lòng tham. Nếu như chúng ta bị lòng tham làm mờ mắt thì sẽ gây ra biết bao hậu họa. Lòng tham sẽ giết chết tình anh, khiến cho tình anh em trở nên xa cách, thậm chí thù hằn như những người xa lạ. Và lòng tham có thể giết chết chính chúng ta như nhân vật người anh trong câu chuyện này. Những người nông dân khi sáng tác truyện “Cây khế” thật hài hước khi lấy chi tiết túi “ba gang” và túi “chín gang” tay để đo lòng tham con người. Người em biết mình, biết ta, sự thật thà từ tính cách mà nghe theo đúng lời chỉ dẫn của chú chim. Còn người anh, do bị lòng tham làm mờ mắt mà không cam tâm may túi 3 gang mà may cái túi những chín gang tay để đựng vàng. Và hậu quả, vàng thì chẳng nhận được mà người cũng chết theo. Cảm nhận đến đây, ta không thể không nhớ tới những câu tục ngữ, ca giao mà dân gian ta đã răn dạy, như:

-“Tham vàng bỏ đống gạch dầy

Vàng thì ăn hết, gạch xây nên thành

Tham vàng bỏ ngãi anh ơi

Vàng thì ăn hết ngãi tôi vẫn còn

Người sao một hẹn thì nên

Tham vì nết chẳng hết chi người”

Truyện “cây khế” dù được những người nông dân lao động sáng tác từ xa xưa nhưng cho đến nay nó vẫn mang tính thời sự, vẫn là bài học ý nghĩa cho mỗi chúng ta.

Mẫu 5

Trong kho tàng văn học Việt Nam, có vô vàn những thể loại văn xuất sắc, mang ấn tượng, trải qua thời kỳ lâu dài nhưng truyện cổ tích vẫn giữ được giá trị và sức hấp dẫn mãnh liệt, nó nuôi dưỡng những tâm hồn trẻ thơ để chúng lớn lên mang những bài học đạo đức hành trang cho cả cuộc đời. Với những ngôn từ đơn giản, nhưng đầy sức hấp dẫn diệu kì, truyện cổ tích cây khế vì thế mà đã in đậm trong lòng mỗi người khi nhớ về.

Câu truyện được tác giả dân gian tâm huyết viết nên bằng cốt truyện đầy sâu sắc. Tình huống  truyện xuất phát từ chính những mối quan hệ tưởng chừng như quá quen thuộc trong một gia đình là anh em trai, sống hòa thuận với nhau, nhưng khi cha mẹ qua đời đã để lại cho hai người con một chút ít tài sản của họ dự phòng từ bao nhiêu năm cũng như dặn dò những lời tận đáy lòng rằng hai người bao giờ cũng phải đùm bọc, sống hòa thuận với nhau. Chuyện sẽ chẳng có gì để nói nếu như hai người nghe theo lời như ý nguyện của bố mẹ, và biết tiết chế, giữ cân bằng sự ham muốn, biết suy nghĩ cho người khác của cả hai. Khi lòng tham của con người ta nổi lên, thì thật đáng sợ, sẽ bất chấp làm mọi thứ chỉ để có được thứ mình mong muốn, cụ thể ở đây chính là tiền của. Cũng một phần do hoàn cảnh  của người anh trai giờ đây đã có vợ, anh ta quên hết cả người em ruột thịt mà ngang nhiên lấy đi hết tài sản, vun vén cho hạnh phúc riêng của mình, chẳng hề đắn đo chỉ đề lại cho người em túp lều nhỏ và một cây khế ra quả ăn nơi góc vườn. Người em vốn là người mang bản tính thật thà và tốt bụng, chàng trai ấy đã thương cho hoàn cảnh anh chị làm lụng vất vả, còn mình một thân một mình hoàn toàn có thể tự lo được không cần nhờ nữa vì gây phiền phức, chàng đã nhanh chóng chấp nhận không mảy may nghi ngờ, so đo gì.

Chăm chỉ cỡ nào vẫn bị anh chị cả ghẻ lạnh, khinh rẻ, không hề có sự cảm thông, giúp đỡ, thấy sự tình ngày một tệ hơn, chàng bất lực, đành ở riêng. Cây khế ngày nào được chăm sóc, qua ngày tháng đã nhanh cho ra những lứa quả ngon, ngọt, anh thường chọn quả to ngon để cúng giỗ cha mẹ mỗi dịp lễ, và để ăn. Ngày nọ, một con chim phượng hoàng đã bị thu hút bởi cây khế, nó xà xuống ăn quả, anh chàng thấy vậy ra sức đuổi đánh chim. Nhưng vì đây là một con chim thần nên nó đã cầu xin tha thứ và nói vang vọng:

“Ăn một quả khế

Trả một cục vàng

May túi ba gang

Mang đi mà đựng”

Con chim ấy biết giữ lời, mấy ngày sau đến như đã hẹn chở người em ra đảo lấy vàng, cho thấy được tinh cách của một con vật, nó còn hơn hẳn con người anh sống phụ bạc. Người em thật thà đem câu chuyện mình được bởi con chim thần mà giàu lên trông thấy, nói cho người anh, ông ta vẫn lợi dụng em mình và còn hòng chiếm đoạt lợi ích, khai thác từ con chim người anh đã dàn dựng sự đổi chác địa vị, để mong muốn giàu có hơn, háo hức với dự định của mình từ lâu, sáng sớm hôm sau người anh đã leo lên mình con chim vượt biển,  đến nơi hắn bị mê hoặc, nhét đầy túi vàng khắp người. Điều ấy đã đưa đến cái chết đáng giá cho nhân vật ở cuối câu truyện. Đó là cảnh báo của con chim thần đã đúng, vì con người quá cố chấp không chịu nghe, nên đã tự rước họa vào thân, vĩnh viễn bỏ xác mình nằm lại nơi biển khơi. 

Nhân dân ta vốn là người nhân hậu, nhưng trước những sự việc như thế này, trời đất không dung tha. Họ nêu lên hết suy nghĩ của mình trong câu chuyện. Dường như sử dụng nhiều những hình ảnh mang tính chất thần kỳ đậm tính cổ tích cũng chính là nói lên ý nghĩa của một cuộc sống đúng mực ai ai cũng đều mơ tới- là hình ảnh con chim thần biểu thị cho sự công lý, sự biết giữ lời, sống có tình nghĩa ở người xưa, là hinh ảnh chiếc túi ba gang mà chim dặn mang đi cũng nói lên rằng cái gì trong cuộc sống cũng cần phải sống đúng có chừng mực, đừng để lòng tham che mờ mắt, nhận được kết quả đắt giá.

Câu chuyện cây khế quả thực rất hay, câu chuyện một lần nữa dạy cho ta những bài học đầy tính thiết thực về cách đối nhân xử thế nhất là đối với anh em trong nhà phải đùm bọc, che chở cho nhau dù cho có khó khăn hoạn nạn thế nào, qua đây ta còn hiều thêm về một ví dụ lòng biết ơn đáp nghĩa vốn đã thấm vào dòng máu Việt bao đời, ta cần phát huy thêm truyền thống đó, đừng bao giờ nuôi dưỡng một tâm hồn tham lam sẽ dễ đánh mất chính mình và đôi khi phải trả giá rất đắt, hay đôi khi chỉ khiến ta tin rằng trên đời vẫn còn sự “ở hiền thì sẽ gặp lành”, không ngừng làm những việc thiện, có ích cho xã hội sẽ nhận lại những việc phước báo về sau này.

Hẳn vậy mà những câu truyện cổ tích vẫn chứa đựng nhiều giá trị đặc sắc, nhớ có nó để nuôi dưỡng tâm hồn, để nhận sự giáo dục thông qua sách truyện cũng là một cách rất tốt đặc biệt cần thiết cho thế hệ trẻ. Truyện cổ tích cây khế sẽ mãi ở đó, tồn tại mãi với thời gian để làm phong phú thêm giá trị cho nguồn văn học Việt bất tận.

Mẫu 6

Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam đã để lại nhiều câu chuyện với bài học vô cùng quý giá. Một trong số đó là câu chuyện “Cây khế”, vô cùng nổi tiếng và quen thuộc.

Truyện kể về hai anh em nhà nọ. Cha mẹ mất sớm, họ cùng nhau chăm lo làm lụng nên cũng đủ ăn. Nhưng từ khi có vợ, người anh đâm ra lười biếng. Còn hai vợ chồng người em vẫn cố gắng làm lụng. Thấy vậy, người anh sợ em tranh giành của cải, liền bàn với vợ cho vợ chồng người em ra ở riêng. Người anh chỉ chia cho em một gian nhà lụp xụp, ở trước cửa có một cây khế ngọt. Còn mình thì lấy hết tài sản quý giá mà cha để lại. Tác giả dân gian đã xây dựng sự đối lập của hai nhân vật chính trong truyện. Người anh thì lười biếng, tham lam. Còn người em thì hiền lành, chăm chỉ. Để từ đó đưa ra một bài học răn dạy quý giá.

Quanh năm vợ chồng người em chăm sóc cho cây khế tươi tốt. Đến mùa khế ra rất nhiều quả. Bỗng nhiên một hôm, có một con chim lạ đến ăn khế chín. Ròng rã một tháng trời, ngày nào chim cũng đến ăn. Người vợ đợi chim ăn xong liền xin nó đừng ăn nữa. Chim thần đáp lại: “Ăn một quả, trả cục vàng, may túi ba gang, mang đi mà đựng”. Hai vợ chồng người em làm theo lời chim. Hôm sau, chim đưa người em ra đảo lấy vàng và trở về. Từ đó, người em trở nên giàu có. Qua chi tiết này, tác giả dân gian muốn gửi gắm bài học rằng nếu chăm chỉ làm lụng mới có thành quả tốt, và người hiền lành tốt bụng sẽ được đền đáp xứng đáng.

Nhưng câu chuyện không chỉ dừng lại ở đó, sau khi biết chuyện, hai vợ chồng người anh vội vàng đến hỏi chuyện. Nghe em kể hết đầu đuôi, người anh liền gạ đổi hết gia sản để lấy túp lều và cây khế. Nhưng vợ chồng người anh không chịu làm gì, mà chỉ ngồi chờ chim đến ăn khế. Đến mùa khế chín, chim lại đến ăn và trả lời như người em kể. Hai vợ chồng người anh tham lam may cái túi to gấp ba lần. Đến nơi, người anh cố nhặt vàng và kim cương cho thật đầy. Trên đường về, vì quá nặng lại gặp gió lớn, chim đâm bổ xuống biển. Người anh bị ngọn sóng cuốn đi với tay nải vàng và châu báu đầy người, còn chim thì lại vùng lên bay về núi rừng. Kết thúc này muốn khẳng định rằng kẻ tham lam, lười biếng sẽ chịu hậu quả.

Câu chuyện có nhiều yếu tố tưởng tượng, kì ảo để góp phần thể hiện tư tưởng mà ông cha ta muốn gửi gắm.

Kho tàng truyện cổ tích rất phong phú. Trong đó, “Cây khế” là một truyện rất quen thuộc, gửi gắm bài học quý giá cho mỗi người.

Mẫu 7

Như mọi câu chuyện cổ tích khác, Cây khế được bắt đầu bằng cụm từ “ngày xửa ngày xưa” và “ở một nhà kia” chỉ thời gian trong quá khứ, và không gian không xác định. Tiếp đến tác giả dân gian bắt đầu giới thiệu những nhân vật chính trong truyện - đó là hai anh em. Cha mẹ mất sớm, họ cùng nhau làm lụng vất vả nên cũng đủ ăn. Nhưng từ khi có vợ, người anh đâm ra lười biếng. Người anh sợ rằng em tranh giành của cải, liền bàn với vợ cho người em ra ở riêng, và chỉ chia cho em một gian nhà lụp xụp, ở trước cửa có một cây khế ngọt. Qua đây, nhân vật người anh trong truyện hiện lên với tính cách tham lam, ích kỷ.

Còn người em lại hiền lành, chăm chỉ. Quanh năm, vợ chồng người em chăm sóc cho cây khế chín. Bỗng một hôm, một con chim bay đến ăn khế. Ròng rã một tháng trời, ngày nào chim cũng đến ăn. Người vợ đợi chim ăn xong liền xin nó đừng ăn nữa. Chim thần đáp lại: “Ăn một quả, trả cục vàng, may túi ba gang, mang đi mà đựng”. Vợ chồng người em làm theo lời chim nói. Hôm sau, chim thần giữ đúng lời hứa đưa người em ra đảo. Đến nơi, người em thấy trên đảo toàn đá trắng, đá xanh, đá đỏ, đá ngũ sắc. Chim bay một vòng quanh đảo, sau đó hạ xuống một cái hang. Ngay cửa hang toàn những thứ đá như thủy tinh và hổ phách đu các màu. Kể từ đó, cuộc sống người em trở nên giàu có, sung sướng.

Tiếng lành đồn xa, người anh biết chuyện, lân la đến hỏi em. Vốn tính thật thà, người em kể hết đầu đuôi, người anh liền gạ đổi hết gia sản để lấy túp lều và cây khế. Nhưng vợ chồng người anh không chịu làm gì, mà chỉ ngồi chờ chim đến ăn khế. Mùa khế chín, chim lại đến ăn và trả lời như người em kể. Người anh may cái túi to gấp ba lần. Chim thần đưa người anh đến đảo. Người anh cố nhặt vàng và kim cương cho thật đầy. Trên đường về, vì quá nặng lại gặp gió lớn, chim đâm bổ xuống biển. Còn người anh bị cuốn đi rất xa, còn chim thì lại vùng lên bay về núi rừng. Có thể thấy rằng, chính sự tham lam đã khiến cho người anh phải trả giá.

Như vậy, truyện “Cây khế” của ông cha ta gửi gắm bài học người chăm chỉ hiền lành sẽ được đền đáp xứng đáng. Còn kẻ xấu xa, lười biếng sẽ phải chịu hậu quả.

Mẫu 8

Truyện cổ tích dân gian Việt Nam luôn là những câu chuyện mang chi tiết tưởng tượng, kỳ ảo lý thú đã đi vào tuổi thơ của biết bao nhiêu thế hệ. Không những thế, mỗi câu chuyện lại là một bài học sâu sắc và triết lý sống của nhân dân lao động xưa dạy bảo con cháu. “Cây khế” là một trong những truyện cổ tích hay, đặc sắc và quen thuộc với tuổi thơ Việt Nam. Câu chuyện mang đến những bài học sâu sắc về tình anh em trong gia đình và đạo lý “ở hiền gặp lành”, “ác giả ác báo”.

Trước tiên, truyện “Cây khế” đưa người đọc, người nghe đến với hai người anh em trong gia đình cùng tình huống rất quen thuộc đối với nhiều gia đình Việt Nam, đó là việc chia gia tài sau khi cha mẹ qua đời. Truyện kể rằng, ngày xưa ở một nhà nọ có hai anh em. Cha mẹ mất sớm để lại gia tài nhà cửa, ruộng đất. Người anh tham làm nhận hết của cải ruộng đất về mình, chỉ chia cho người em trai mảnh vườn nhỏ có một cây khế. Người em vốn hiền lành nên vui vẻ nhận lời, hai vợ chồng ra sống ở túp lều bên cây khế. Tác giả dân gian đã xây dựng một tình huống chuyện rất hay và quen thuộc. Hình ảnh người anh thể hiện được một sự thật có trong cuộc sống, đó là có những kẻ tham lam, vì tiền bạc mà không nghĩ tới tình anh em. Qua đó, thể hiện thái độ chế giễu những kẻ tham lam, lười biếng trong xã hội.

Câu chuyện còn mang đến một bài học sâu sắc về triết lý “ở hiền gặp lành”. Hai vợ chồng người em chăm chỉ làm ăn, cày thuê cuốc mướn, chăm bón cây khế hàng ngày. Rồi cây khế tươi tốt ra quả sai trĩu cành cho quả chín vàng, ngon ngọt. Một ngày nọ có con chim phượng hoàng từ đâu bay đến ăn hết quả này đến quả khác, người vợ liền nói cả gia tài có một cây khế này, mong chim đừng ăn. Chim bèn nói “ăn một quả trả cục vàng, may túi ba gang mang đi mà đựng”. Thế rồi hai vợ chồng người em nghe theo. Hôm sau chim đến và đưa người em bay đến hòn đảo rất xa lấy vàng. Hai vợ chồng từ đó sống sung túc hơn, có ruộng vườn nhà cửa. Chi tiết tưởng tượng, kỳ ảo về chú chim phượng hoàng ăn khế trả vàng là một chi tiết đặc sắc trong câu chuyện. Đó là chi tiết li kỳ giúp cho câu chuyện trở nên hấp dẫn và lôi cuốn. Không những thế, thông qua chi tiết này, tác giả dân gian thể hiện một triết lý sâu sắc. Chỉ cần chăm chỉ, ở hiền ắt sẽ gặp lành. Vợ chồng người em là biểu tượng của người dân lao động xưa luôn chăm chỉ, chịu thương chịu khó và hiền lành nên đã đạt được thành quả tốt đẹp.

Không chỉ mang đến bài học “ở hiền gặp lành”, tác giả dân gian còn cho người đọc triết lý “ác giả, ác báo” và những người tham lam sẽ không có kết quả tốt đẹp. Vợ chồng người anh thấy người em trở nên sung túc bèn lân la hỏi chuyện. Vốn tính thật thà nên người em kể hết sự việc. Nghe xong, vợ chồng người anh ngỏ ý đổi tất cả tài sản của mình lấy cây khế. Người em đồng ý. Rồi một ngày nọ chim lại bay đến ăn và hứa trả vàng. Hai vợ chồng người anh mừng rỡ vô cùng, bèn bày kế may hẳn túi mười hai gang. Hôm sau chim đưa người anh đi lấy vàng, người anh lấy đầy vàng vào túi mười hai gang. Trên đường về gặp cơn gió mạnh, chim không chịu được sức nặng nên cánh chim bị nghiêng và người anh cùng túi vàng rơi xuống biển sâu. Chi tiết người anh bị rơi xuống biển sâu cùng túi vàng nặng trĩu là kết cục đích đáng mà tác giả dân gian đã dành cho những kẻ tham lam. Qua đó, nhân dân lao động xưa muốn dạy dỗ con cháu một bài học sâu sắc. Đó là trong cuộc sống không nên quá tham lam, ích kỷ, nếu không sẽ gặp một kết cục không hề tốt đẹp.

Gấp trang sách lại mà hình ảnh chú chim phượng hoàng ăn khế trả vàng vẫn hiện lên trong tâm trí người đọc. Câu chuyện “Cây khế” với chi tiết tưởng tượng kỳ ảo đã cho người đọc những giây phút lôi cuốn, kỳ thú cùng bài học sâu sắc về sự tham lam, triết lý sống “ở hiền gặp lành”, “ác giả ác báo”. Thế hệ người Việt Nam luôn tin rằng những câu chuyện cổ tích như “Cây khế” sẽ có sức sống lâu bền cùng lời răn dạy con cháu của cha ông ta.

Khi còn bé thơ, em đã từng được nghe bà kể truyện Cây Khế. Qua giọng đọc ấm áp và truyền cảm của bà, em hiểu rằng câu chuyện muốn khuyên răn mọi người hãy ăn ở khiêm nhường, biết yêu thương giúp đỡ lẫn nhau. Ngày hôm nay, được cô giáo giảng giải lại một lần nữa, em càng thấm thía hơn về ý nghĩa sâu sắc của truyện.

Truyện kể về cuộc chia gia tài của hai người anh em sau khi cha mất. Vợ chồng người anh tham lam chiếm hết của cải, bớt lại cho em một góc vườn và Cây Khế. Trong khi người anh ăn sung mặc sướng thì người em lại tần tảo ngược xuôi vất vả nhưng em chẳng hề kêu than. Em coi Cây khế là gia tài quý giá của mình. Một hôm có con quạ lớn từ đâu bay đến ăn khế, người em xót ruột van xin quạ đừng ăn.

Quạ kêu “ăn một quả, trả cục vàng, may túi ba gang mang đi mà đựng”. Người em làm theo lời quạ, may chiếc túi đúng ba gang. Đến nơi lấy vàng, người em cũng chỉ lấy vừa đầy túi rồi theo quạ về. Từ đó, cuộc sống gia đình em thay đổi hoàn toàn. Người anh thấy vậy bèn lân la hỏi chuyện. Người em thật thà chẳng dấu giếm, kể lại hết đầu đuôi cho anh nghe. Vợ chồng anh nổi lòng tham dụ dỗ em đổi cho chỗ ở với hi vọng kiếm được thật nhiều vàng từ Cây khế.

Quả nhiên, đến mùa sai quả, quạ lại đến ăn, vợ chồng người anh mừng rỡ làm giống như người em, cũng van xin quạ đừng ăn vì gia tài chỉ có Cây khế. Quạ cũng đáp lại “ăn một quả, trả cục vàng, may túi ba gang mang đi mà đựng”. Hai vợ chồng vội vàng may cái túi thật to mang theo, họ nhét đầy chặt túi, rồi nhét thêm cả vào túi quần, túi áo. Trên đường về, quạ đèo nặng quá, quạ kêu người anh bỏ đỡ vàng xuống nhưng anh ta không nghe. Quạ chao đảo khiến cả vàng và người rơi xuống biển. Chỉ trong nháy mắt, người anh đã bị biển khơi nhấn chìm.

Câu chuyện đã khép lại với kết thúc thỏa đáng. Ai gieo nhân nào ắt sẽ gặt quả ấy. Người em hiền lành, kham khổ nhưng không hề kêu than nửa lời. Mặc dù vậy, khi được vàng bạc châu báu, em cũng không nổi lòng tham, không tiêu pha lãng phí mà ngược lại, ngoài việc xây dựng nhà cửa, người em còn chia sẻ giúp đỡ những người gặp khó khăn. Hình ảnh người em là tấm gương sáng về tấm lòng thiện đức cho mọi người noi theo, là minh chứng cho câu tục ngữ “đói cho sạch, rách cho thơm”, “ở hiền gặp lành”.

Ngược lại, người anh tham lam, gian ác nên đã phải trả giá bằng chính mạng sống của mình. Chi tiết hắn bị rơi cả người và vàng xuống biển là một lời cảnh tỉnh cho những kẻ giàu sang mà ích kỷ, khi chết đi dù có bao nhiêu vàng bạc châu báu cũng chẳng thể cứu lại được sinh mạng. Vì vậy, sống ở đời hãy biết sẻ chia, khiêm nhường, đùm bọc lẫn nhau.



Qua câu chuyện, em càng thấm thía hơn những đạo lý làm người mà ông cha ta đã gửi gắm trong đó. Em sẽ cố gắng học tốt, chăm ngoan để sau này trở thành người tốt, người có ích cho xã hội và được mọi người yêu thương.

Nhắc đến những câu chuyện cổ tích của nước ta, không thể bỏ qua truyện “Cây khế”. Đây được xem là một trong những tác phẩm truyện cổ tích đặc sắc nhất trong kho tàng truyện dân gian của nước ta.

Truyện kể về hai anh em nhà nọ mồ côi cha mẹ từ nhỏ, sống nương tựa vào nhau. Cha mẹ mất để lại cho hai anh em một cây khế và một chút ruộng vườn, của cải, tuy không khá giả nhưng hai anh em vẫn có cuộc sống no đủ. Từ khi người anh trai lấy vợ bỗng sinh ra lười nhác, mọi việc đều đổ hết lên đầu vợ chồng người em. Thậm chí sợ em tranh công nên anh trai đã chia gia tài, chiếm hết của nải, đẩy vợ chồng em ra túp lều nát với cây khế của cha mẹ để lại. Vợ chồng người em chăm chỉ làm lụng, chăm bẵm cho cây khế ra quả, chim quý đến ăn và đã trả công vợ chồng em trai bằng vàng bạc. Tiếng đồn đến tai người anh, người anh tham lam nên gạ đổi gia tài lấy cây khế. Chim quý cũng đến ăn và hứa trả ơn bằng vàng, nhưng vì tính tham lam vô độ của người anh nên đã bị chim quý hất xuống biển sâu. Cốt truyện tuy rất đơn giản, ngắn gọn nhưng chất chứa trong đó những bài học về cuộc sống vô cùng sâu sắc và thấm thía.

Mẫu 9

Truyện “Cây khế” phản ánh cuộc xung đột giữa hai tuyến nhân vật trong một gia đình, một bên là vợ chồng người em trai hiền lành, chăm chỉ, chịu khó; một bên là vợ chồng người anh trai tham lam, ích kỉ, chỉ nghĩ đến đồng tiền. Thông qua khai thác xung đột trong gia đình này, tác giả dân gian đã phản ánh chủ đề của chuyện đó là phê phán sự tham lam, ích kỉ của con người, ca ngợi những con người chịu khó, chăm chỉ, biết sống lương thiện, biết thế nào là đủ. Câu chuyện còn là lời cảnh tỉnh cho những ai đã và đang xem nhẹ tình anh em trong gia đình, cắt đứt tình máu mủ ruột rà chỉ vì những cái lợi trước mắt. Chủ đề truyện này không mới nhưng nó vẫn có giá trị không riêng với thế giới cổ tích mà còn cả xã hội hiện thực bây giờ.

Góp phần tạo nên thành công cho câu chuyện, ngoài giá trị của chủ đề và bài học sâu sắc trong truyện Cây khế thì không thể quên sự đóng góp của các hình thức nghệ thuật. Chính những hình thức nghệ thuật đặc sắc ấy đã giúp cho chủ đề và bài học trong truyện trở nên sâu sắc, thấm thía hơn và hấp dẫn độc giả hơn.

Yếu tố nghệ thuật đầu tiên cần kể đến đó là nghệ thuật tạo tình huống. Tình huống truyện chia gia tài, vốn rất quen thuộc trong truyện kể dân gian. Nhờ tình huống này bản chất xấu xa tham lam của vợ chồng người anh trai được bộc lộ. Tình huống thứ hai, góp phần giúp mạch truyện tiến triển là tình huống chim quý xuất hiện và ăn khế của vợ chồng em trai. Nhờ chim quý vợ chồng em trai được đền đáp xứng đáng cho tấm lòng, sự lương thiện của mình. Cũng nhờ chim quý mà vợ chồng người anh trai đã bị trừng trị thích đáng cho bản tính tham lam, mờ mắt vì tiền của mình. Nhân vật chim quý đóng vai trò là nhân vật chức năng, thế lực siêu nhiên, thay nhân dân thực hiện mong ước của họ. Đây cũng là kiểu nhân vật khá quen thuộc trong truyện cổ tích Việt Nam.

Xây dựng nhân vật giàu tính biểu trưng cũng là một nét nổi bật cho truyện cổ tích Việt Nam. Trong đó người anh trai là tuyến nhân vật đại diện cho kiểu người tham lam, chỉ nghĩ đến đồng tiền; nhân vật em trai là đại diện cho tuyến nhân vật bất hạnh, mồ côi, chịu nhiều thiệt thòi, cam chịu. Hai tuyến nhân vật chính - tà khá quen thuộc trong truyện cổ tích, là đại diện cho các kiểu người trong xã hội phân chia giai cấp thời bấy giờ.

Nét đặc sắc cuối cùng em muốn nói đến trong bài viết là cách khắc họa tính cách nhân vật thông qua ngôn ngữ, hành động của nhân vật. Nhân vật trong truyện cổ tích vốn chưa có những tâm lý hay nét tính cách độc đáo, riêng biệt như trong văn xuôi của các tác giả văn học. Nhưng thông qua lời thoại, ngôn ngữ, hành động chúng ta cũng thấy được phần nào những nét tính cách đặc trưng của nhân vật. Chẳng hạn qua thái độ “rối rít, mừng quýnh, vái lấy vái để “ khi gặp chim thần của vợ chồng anh trai cũng đủ thấy vợ chồng anh ta là người tham lam, ích kỉ, tôn sùng vật chất, luôn trông chờ vào vận may; hành động “nhét đầy vàng vào tay áo, ống quần, lết mãi mới ra khỏi hang” đủ thấy anh trai tham lam đến mờ lý trí… còn vợ chồng người em trai thấy con chim thần chỉ biết than “ ông chim ơi, ông ăn hết khế nhà cháu…” rồi hành động “chỉ nhặt vừa đủ vàng bạc nhét vào túi rồi ra về” cũng đủ thấy người em trai vốn bản tính lương thiện, hiền lành. Nhân vật chỉ được khắc họa qua hành động, ngôn ngữ nhưng những nét tính cách nổi bật vẫn hiện lên tương đối đậm nét.

 Mẫu 10

Những phân tích ở trên đây cho thấy Cây khế là một truyện cổ tích tiêu biểu trong kho tàng truyện cổ Việt Nam. Về chủ đề, truyện chính là lời cảnh tỉnh, phê phán đến những người có lối sống ham vật chất, coi thường tình cảm máu mủ. Về hình thức nghệ thuật, tác giả đã kết hợp hài hòa các yếu tố về tình huống truyện, ngôn ngữ, hành động để nhân vật bộc lộ rõ cá tính của mình, thông qua đó chủ đề truyện cũng được tô đậm.

Câu chuyện là một bài học đắt giá cảnh tỉnh những người tham lam, không coi trọng tình cảm gia đình, sớm hay muộn cũng sẽ nhận phải một kết cục không may mắn.

 

CÂU HỎI HOT CÙNG CHỦ ĐỀ

Lời giải

Mẫu 1

Truyền thuyết Thánh Gióng nằm trong hệ thống các truyền thuyết thời kì Hùng Vương, nói về quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc. Trong truyền thuyết nổi bật lên là hình tượng người anh hùng Thánh Gióng với sức mạnh vô địch, kiên cường, anh dũng là đại diện tiêu biểu cho tinh thần đấu tranh quật khởi của dân tộc ta trước giặc ngoại xâm xâm lược.

Là một người anh hùng với sức mạnh phi thường bởi vậy sự ra đời của Thánh Gióng cũng thật khác thường, không phải được mẹ mang thai chín tháng mười ngày mà Gióng được mẹ sinh sau một lần ướm thử vào vết chân lạ, mang thai đến mươi hai tháng sau mới hạ sinh Gióng. Không dừng lại ở đó, Gióng sinh ra khôi ngôi, tuấn tú nhưng đã lên ba mà vẫn đặt đâu ngồi đó, không biết nói cũng chẳng biết cười. Có lẽ đây chính là dấu hiệu của một con người phi thường. Tiếng nói đầu tiên của Gióng cho thấy ý thức và trách nhiệm của một công dân trước vận mệnh dân tộc ấy là tiếng nói đòi đi đánh giặc.

Qua tiếng nói của Gióng các tác giả dân gian đồng thời gửi gắm tinh thần ý thức đánh giặc, cứu nước của dân tộc ta. Thánh Gióng ăn không biết no, quần áo vừa mặc xong đã chật, gia đình Gióng không còn đủ sức nuôi con, bởi vậy, bà con hàng xóm đã góp gạo cùng gia đình Gióng để nuôi lớn cậu bé. Gióng lớn lên bằng sức mạnh, bằng tình yêu thương và sự đoàn kết của dân làng. Đó cũng chính yếu tố làm nên sức mạnh phi thường của Gióng. Sức mạnh của Gióng là sự tổng hợp sức mạnh của dân tộc ta.

Thế giặc ngày càng mạnh, khi giặc đến gần, Gióng vươn vai biến thành tráng sĩ oai phong, lẫm liệt, Gióng mặc áo giáp sắt, cầm roi sắt và nhảy lên mình ngựa phi đến chỗ giặc. Với sức mạnh phi thường của mình Gióng đã đánh dẹp hết lớp này đến lớp khác. Dù roi sắt gãy cũng không làm Gióng nản chí, Gióng nhổ ngay những bụi tre bên đường để đánh đuổi giặc. Trước sức mạnh Gióng, giặc hồn tan phách lạc, chẳng mấy chốc đã bị dẹp hết.

Người anh hùng Thánh Gióng đã làm nên chiến công thần kì, đem lại tự do, hòa bình cho dân tộc. Nhưng người anh hùng đó còn sáng ngời về nhân cách, không tham lam danh vọng bổng lộc, sau khi dẹp giặc Gióng bay về trời. Đồng thời chi tiết này cũng thể hiện sự bất tử của Gióng trong lòng mọi người, Gióng về trời cũng là về cõi vô biên, bất tử mãi mãi trường tồn cùng đất nước, dân tộc.

Nhân vật được xây dựng bằng sự kết hợp giữa yếu tố thần kì và yếu tố anh hùng ca. Yếu tố thần kì được thể hiện ngay từ cách thụ thai, sự ra đời của Gióng, không chỉ vậy Gióng còn có sức mạnh kì diệu, lớn nhanh như thổi, vươn vai thành tráng sĩ để đánh đuổi giặc xâm lược. Gióng còn là hình tượng mang đậm dấu ấn anh hùng với vẻ đẹp kì vĩ (sinh ra từ vết chân lớn, vươn mình thành tráng sĩ,…). Sự kết hợp hài hòa giữa các yếu tố đó đã khái quát hóa, lí tưởng hóa hình tượng Gióng để Thánh Gióng trở thành biểu tượng bất tử cho lòng yêu nước, sức mạnh của dân tộc ta trong cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm.

Thánh Gióng là một hình tượng đẹp đẽ của dân tộc ta. Qua hình tượng Thánh Gióng các tác giả dân gian đề cao truyền thống yêu nước bất khuất và sức mạnh của dân tộc trong cuộc đấu tranh bảo vệ Tổ quốc.

Mẫu 2

Thánh Gióng là một trong những truyền thuyết nằm trong kho tàng truyền thuyết của Việt Nam. Thánh Gióng cũng mang những giá trị vô cùng to lớn đối với dân tộc. Thể hiện tinh thần yêu nước qua hình ảnh người anh hùng Thánh Gióng, truyền thuyết đã cho chúng ta biết được sức mạnh của lòng yêu nước, sức mạnh của chủ nghĩa anh hùng cứu nước.

Gióng có sự ra đời khác biệt so với mọi người. Hình ảnh người mẹ của Gióng trong một lần đi làm đồng đã thấy một vết cha to và lạ bèn ướm thử. Vậy là bà mang thai Gióng. Một sự ra đời kỳ lạ báo hiệu cho một tương lai hơn người. Gióng là thần được phái xuống để trừ giặc Minh cho dân nên sự ra đời của Gióng có yếu tố kỳ lạ là điều thường tình.

Không chỉ ra đời khác biệt, Thánh Gióng còn có cả quá trình lớn lên cũng vô cùng khác biệt. Mang thai chín tháng mười ngày, mẹ sinh Gióng. Thế nhưng Gióng sinh ra làm cách nào đi chăng nữa cũng không biết nói dù đã 3 tuổi. thế rồi, vào một hôm nghe sứ giả đi ngang qua đọc lời chiêu mộ người tài giúp dân đánh giặc Gióng đã cất tiếng nói đầu tiên.

Tiếng nói đầu tiên của Gióng không giống như những đứa trẻ khác, không phải là tiếng ê a, tiếng gọi cha mẹ mà là tiếng nói nhờ mẹ gọi sứ giả vào để nói chuyện. Câu nói đầu tiên với sứ giả ấy là lời yêu cầu cứu nước, là tinh thần và niềm tin vào sự chiến thắng. Đợi ba năm để đến ngày hôm nay Gióng được cất lên tiếng nói cho tổ quốc. Giọng nói đĩnh đạc, đàng hoàng, mạnh mẽ cứng cỏi lạ thường. Gióng nói với sứ giả báo với nhà vua chuẩn bị vũ khí, công cụ để mình ra trận đánh giặc. câu nói ấy cho thấy tinh thần yêu nước chống giặc ngoại xâm luôn luôn hiện diện thường trực trong tâm tưởng mỗi con người từ khi bé thơ. Tinh thần yêu nước chiến đấu vì đất nước sẽ không cứ người già hay trẻ, chỉ cần có lòng yêu nước là sẽ có thể chiến đấu giành lại hòa bình cho dân tộc.

Sau khi gặp sứ giả, hẹn ngày ra trận đánh giặc, Gióng ăn rất khỏe. Ăn bao nhiêu cũng không đủ. Dân làng góp gạo thổi cơm nuôi Gióng lớn. Và đương nhiên Gióng lớn nhanh như thổi. Đến ngày nhà vua đem ngựa sắt và những thứ mà Gióng yêu cầu tới là lúc Gióng vươn vai chuẩn bị ra trận.

Cái vươn vai kỳ diệu ấy đã biến Gióng thành một con người khác. Cái vươn vai ấy làm cho Gióng lớn bổng gấp ngàn lần. Qua chi tiết đó ta có thể thấy được sức sống mãnh liệt của người anh hùng, hình ảnh đại diện cho nhân dân. Mỗi khi gặp khó khăn không bao giờ gục ngã mà luôn luôn cố gắng vươn lên để chiến thắng. Cái sức mạnh vô biên ấy được nuôi lớn bởi những thứ bình thường giản dị trong cuộc sống hằng ngày. Đó là cơm gạo của nhân dân, đó là tình yêu thương của nhân dân đối với Gióng, đối với người anh hùng Việt Nam. Ngoài ra, đó còn là sức mạnh của tinh thần đoàn kết dân tộc vô cùng to lớn. Chi tiết Gióng lớn nhanh như thổi và mọi người trong làng góp gạo nuôi Gióng đã thể hiện được tinh thần đoàn kết, sự yêu thương đùm bọc giữa quân và dân ta trong những ngày chiến đấu gian khổ.

 

Người anh hùng Gióng sau khi đã nhận được tư trang từ nhà vua, sau khi đã nhận được sức mạnh từ nhân dân bằng tình yêu thương mộc mạc chân thành mà lên đường đi đánh giặc. Gióng ra đi trong khí thế hào hùng mạnh mẽ xông pha trận địa đánh ta quân giặc. Gióng cùng nhân dân không chỉ đợi giặc đến mà đánh, chàng còn cùng nhân dân tìm giặc mà đánh, khiến chúng thất bại thảm hại.

Trên đường đi đánh giặc, không đơn thuần là sử dụng vũ khí của vua ban, Thánh Gióng còn dùng cả những vũ khí sẵn có trên đường như cây tre, ngọn tầm vông. Trên đất nước này, đất nước mà tình thần yêu nước luôn hừng hực trong trái tim của mỗi con người thì tinh yêu nước ấy gắn liền với mọi vật trên mảnh đất quê hương. Không cứ là đao gươm hay vũ khí nào lợi hại, những cây cối ven đường cũng là thứ vũ khí mạnh mẽ của người anh hừng trong chiến tranh. Dù những cây cối ấy là nhỏ bé, tầm thường nhưng vẫn luôn mang một sức mạnh to lớn để đánh bại quân thù.

Trận đánh hiện lên qua lời kể của tác giả dân gian một cách nhanh gọn nhưng mạnh mẽ và cuốn hút làm nổi bật lên được hình tượng người anh hùng cứu nước của dân tộc ta. Trận đánh kết thúc, quân giặc tan tác trong thất bại, Gióng bay về trời. Một nhân vật ra đời trong phi thường, lớn lên một cách kỳ lạ, chiến đấu mạnh mẽ cho đến lúc ra đi cũng là một sự ra đi phi thường. Gióng tắm rửa cởi bỏ áo giáp sắt và bay về trời trên đỉnh Sóc Sơn. Giặc đã tan, đã đến lúc Gióng phải đi. Một sự ra đi nhẹ nhàng không màng danh lợi. Đánh giặc là điều hiển nhiên đối với Gióng cũng như đối với những người anh hùng Việt Nam. Họ xông pha trận mạc, hi sinh bản thân mình để đem lại bình yên cho tổ quốc và họ không chông mong vào một thứ gọi là danh lợi. Gióng là con của thần, được thân phái xuống đánh giặc giúp dân thì khi đã hoàn thành nhiệm vụ thì Gióng phải về trời.

Thánh Gióng bay về cõi vô biên bất tử, nhân dân đã lập đến thờ để tưởng nhớ đến công lao của Gióng, để thể hiện lòng biết ơn, sự yêu mến và trân trọng, luôn giữ mãi hình ảnh người anh hùng trong tâm trí họ mà biết ơn. Hình ảnh nhân vật Thánh Gióng ấy không chỉ có trong truyền thuyết, đó là những người anh hùng áo vải thực sự ngoài đời thật trong những cuộc kháng chiến khốc liệt. Họ là những con người sinh ra trong bình dị, lớn lên và nuôi dưỡng tình yêu quê hương đất nước để một ngày cống hiến cho tổ quốc thân yêu không hối tiếc. Có những chàng trai và những cô gái ấy đã hi sinh tuổi xuân và cuộc đời của mình cho đất nước. Những em nhỏ vẫn ngày ngày trưởng thành trong ngây thơ cùng với lòng yêu nước nồng nàn của mình. Cả một dân tộc với biết bao con người, biết bao thế hệ cùng chung một nhịp đập hướng về tổ quốc đã không tiếc đời minh hi sinh cho tổ quốc để ngày hôm nay chúng ta được sống trong hòa bình hạnh phúc. Cũng như Gióng, những người anh hùng ấy sẽ mãi bất tử trong lòng mỗi người dân Việt.

Nhân vật Thánh Gióng là nhân vật mang đậm màu sắc của những người anh hùng, của nhân dân lạo động bình dị mộc mạc. Một con người sinh ra lớn lên va chiến đấu một cách kỳ lạ nhưng đó lại là ước mơ, là mong muốn của nhân dân ta gửi gắm trong những câu chuyện này.

Mẫu 3

Truyền thuyết Thánh Gióng xuất hiện từ thời Hùng Vương dựng nước và được nhân dân ta lưu truyền từ đời này sang đời khác cho đến tận ngày nay. Đây là một truyền thuyết hay vào bậc nhất trong những truyền thuyết nói về truyền thống giữ nước của dân tộc ta.

Hình tượng Thánh Gióng với nhiều yếu tố thần kì là biểu tượng rực rỡ của ý thức và sức mạnh bảo vệ đất nước, đồng thời thể hiện quan niệm và ước mơ của nhân dân ta về người anh hùng cứu nước chống ngoại xâm. Người xưa cho rằng đã là anh hùng thì phải phi thường, phải có khả năng như thần thánh, do trời sai xuống giúp đời. Do đó mà cậu bé làng Gióng là một nhân vật kì lạ. Bà mẹ Gióng có thai cũng khác thường : Một hôm, bà ra đồng trông thấy một vết chân rất to, liền đặt bàn chân mình lên ướm thử để xem thua kém bao nhiêu. Không ngờ về nhà bà thụ thai ... Bà có thai không phải chín tháng mười ngày mà trọn mười hai tháng. Đây là sự tưởng tượng của dân gian về nhân vật phi thường của mình.

Điều kì lạ nữa là Gióng lên ba vẫn không biết nói, biết cười, cũng chẳng biết đi, cứ đặt đâu thì nằm đấy. Những chi tiết kỳ ảo đó càng thu hút người nghe. Gióng không nói nhưng khi nghe sứ giả rao loa thì bỗng dưng cất tiếng nói. Tiếng nói đầu tiên của Gióng là tiếng nói tự nguyện đánh giặc. Lời nói yêu nước, cứu nước ấy cũng không phải là lời nói bình thường ở tuổi lên ba. Chi tiết thần kì ấy ca ngợi ý thức đánh giặc, cứu nước của nhân dân ta được gửi gắm trong hình tượng Gióng. Ý thức trách nhiệm đối với đất nước được đặt lên hàng đầu với người anh hùng và tạo cho người anh hùng những khả năng hành động phi thường.

Còn nằm ngửa trên chõng tre mà Gióng đòi có ngựa sắt, roi sắt, áo giáp sắt để đánh tan quân giặc. Ba tuổi, Gióng vẫn chưa biết đi nhưng tới lúc giặc đến thì vươn vai hóa thành tráng sĩ, nhảy lên mình ngựa, phi thẳng ra chiến trường. Khi cần có sức lực, tầm vóc để cứu nước thì Gióng lớn nhanh như thổi, cơm ăn mấy cũng không no, áo vừa may xong đã căng đứt chỉ.

Dân gian kể rằng : Gióng ăn một bữa bảy nong cơm, ba nong cà, uống một hớp nước cạn đà khúc sông. Đấy là cách nói cường điệu của dân gian để tô đậm tính chất phi thường cho nhân vật mà mình yêu mến. Mẹ Gióng nuôi không nổi, bà con trong làng nô nức gom góp gạo thóc nuôi cậu bé, vì ai cũng mong cậu lớn nhanh để giết giặc cứu nước. Gióng đã lớn lên bằng thức ăn, thức mặc, bằng sự yêu thương, đùm bọc của dân làng. Gióng đâu chỉ là con của một bà mẹ mà là con của mọi người, của nhân dân. Một người cứu nước sao đặng ? Phải toàn dân góp sức chuẩn bị cho sự nghiệp đánh giặc. Như vậy mới đủ sức mạnh để chiến thắng quân thù. Gióng lớn lên từ trong lòng nhân dân và do nhân dân nuôi dưỡng. Sức mạnh dũng sĩ của Gióng được nuôi bằng cơm gạo quê hương và tình thương vô hạn của bà con.

Vì sao Gióng lại lớn nhanh như vậy ? Gióng lớn lên từ khi nào và lớn lên để làm gì ? Trước khi có tiếng gọi cứu nước, Gióng chỉ nằm ngửa, không nói, không cười. Gióng mở miệng nói lời đầu tiên là để đáp lại lời kêu gọi cứu nước. Dường như việc cứu nước có sức mạnh làm cho Gióng vụt lớn lên. Việc cứu nước vô cùng to lớn và cấp bách, Gióng không lớn lên nhanh thì làm sao làm được nhiệm vụ cứu nước ? Cuộc chiến đấu đòi hỏi dân tộc ta phải vươn mình phi thường như vậy. Hình ảnh Gióng vươn vai là tượng đài bất hủ về sự trưởng thành vượt bậc, về hùng khí của một dân tộc trước nạn ngoại xâm. Khi lịch sử đặt vấn đề sống còn cấp bách, khi tình thế đòi hỏi dân tộc vươn lên một tầm vóc phi thường thì cả dân tộc vụt đứng dậy như Thánh Gióng, tự thay đổi tư thế, tầm vóc của mình. Hình tượng cậu bé làng Gióng tiêu biểu cho sức mạnh toàn dân trong cuộc chiến tranh cứu nước.

Gióng chính là hình ảnh của nhân dân. Nhân dân lúc bình thường thì âm thầm lặng lẽ, cũng như Gióng ba năm không nói, không cười. Nhưng khi nước nhà gặp cơn nguy biến thì họ rất mẫn cảm, tự nguyện đứng ra cứu nước cứu nhà. Cũng như Gióng, khi vua vừa phát lời kêu gọi, chú bé đã đáp lời cứu nước. Giặc đến chân núi Trâu, thế nước rất nguy. Vừa lúc sứ giả đem ngựa sắt, roi sắt, áo giáp sắt tới. Gióng vùng dậy vươn vai một cái, bỗng thành một tráng sĩ oai phong lẫm liệt. Chi tiết này có liên quan đến truyền thống của truyện cổ dân gian. Thời cổ, nhân dân quan niệm người anh hùng phải khổng lồ về thể xác, sức mạnh và chiến công. Thần trụ trời, Sơn Tinh ... đều là những nhân vật khổng lồ. Cái vươn vai của Gióng là đạt đến độ phi thường ấy. Gióng nhảy lên mình ngựa, ngựa phun lửa, phi thẳng ra chiến trường. Ngọn roi của Gióng quật giặc chết như rạ. Roi sắt gãy, Gióng nhổ tre bên đường đánh tiếp. Gióng đánh giặc không chỉ bằng vũ khi vua ban mà còn bằng cả cây cối thân yêu của quê nhà.

Đánh tan giặc Ân, Gióng cưỡi ngựa lên đỉnh núi Soc, cởi giáp sắt bỏ lại, rồi cả người lẫn ngựa từ từ bay lên trời. Gióng ra đời đã khác thường thì ra đi cũng khác thường. Nhân dân trân trọng muốn giữ mãi hình ảnh người anh hùng nên đã để Gióng đi vào cõi bất tử. Gióng không quay về triều để được vua ban cho bổng lộc, vinh quang. Gióng biến mất vào cõi hư không. Sinh ra từ cõi lặng im, nay Gióng trở về trong im lặng, không màng phú quý, công danh. Tuy Gióng đã trở về trời nhưng thật ra Gióng luôn luôn ở lại với đất nước, cây cỏ, với dân tộc Việt. Vua phong cho Gióng là Phù Đổng Thiên Vương. Gióng được nhân dân suy tôn là Thánh và lập đền thờ ngay tại quê hương để muôn đời ghi nhớ công ơn.

Gióng là hình tượng tiêu biểu, rực rỡ của người anh hùng đánh giặc cứu nước. Trong văn học dân gian Việt Nam, đây là hình tượng người anh hùng đánh giặc đầu tiên, tiêu biểu cho lòng yêu nước của nhân dân ta. Gióng là người anh hùng mang trong mình sức mạnh của cả cộng đồng. Trong buổi đầu dựng nước, sức mạnh của thần thánh, tổ tiên thể hiện ở sự ra đời thần kì của chú bé làng Gióng. Sức mạnh của cộng đồng thể hiện ở việc bà con dân làng góp gạo nuôi Gióng.

Dân tộc Việt Nam anh hùng muốn có hình tượng khổng lồ, tuyệt đẹp và có ý nghĩa khái quát để phản ánh hết được lòng yêu nước, khả năng và sức mạnh quật khởi của dân tộc ta trong cuộc đấu tranh chống ngoại xâm suốt bốn ngàn năm lịch sử. Hình tượng Thánh Gióng với vẻ đẹp tuyệt vời rực sáng muôn đời đã đáp ứng được điều đó.

Mẫu 4

Trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam, có rất nhiều những câu chuyện cổ tích, những truyền thuyết đặc sắc được ông cha ta lưu truyền từ đời này qua đời khác. Những câu chuyện ấy thể hiện niềm mong ước, niềm tin vào một cuộc sống tốt đẹp, chân lý cái thiện luôn chiến thắng cái ác, người tốt ắt được ông trời phù hộ. Tuýp nhân vật chính thường là những người tài giỏi, có tài năng phi phàm, xuất thân kỳ lạ, hoặc do sống nhân nghĩa đạo đức nên thường được thần phật phù hộ. Thánh Gióng cũng là một trong số những truyền thuyết như vậy có đặc điểm như vậy.

Thánh Gióng là một nhân vật xuất hiện từ rất sớm, được xem là một trong 4 vị thần Bất tử trong tín ngưỡng của dân tộc Việt Nam. Tương truyền ông được sinh ra vào khoảng thời vua Hùng Vương thứ 6, lúc ấy đất nước đang gặp cảnh khốn cùng bởi giặc n xâm lược, mà chưa có người tài ra giúp nước. Sự ra đời của ông có nhiều điểm kỳ lạ, thứ nhất mẹ ông là người đàn bà đã 60 tuổi, chẳng còn khả năng hoài thai nữa, ấy thế mà chỉ một hôm bà ra ruộng thấy có vết chân to, liền đưa chân ướm thử, rồi về nhà có thai sinh ra ông. Sự hoài thai thần kỳ của người mẹ dường như đã báo trước một cuộc đời đầy uy phong, lẫm liệt của cậu bé kỳ lạ này.

Quá trình phát triển của cậu bé Gióng cũng chẳng bình thường như bao đứa trẻ khác, con người ta 10 tháng đã bập bẹ, còn Gióng đến 3 tuổi cũng chẳng nói lấy một lời. Thế mà thật lạ thay, khi nghe sứ giả của vua truyền tin tìm người tài diệt giặc thì bất ngờ, cậu lại mở miệng nói chuyện, còn cho vời sứ giả vào, xin một con ngựa sắt, một chiếc roi sắt để đi giết giặc. Điều đó làm cho sứ giả, làng xóm và cả mẹ cậu bé cũng không thể nào tin nổi, bởi một đứa trẻ 3 tuổi thì sao có thể đi đánh giặc được. Để xóa tan mối nghi ngại và chuẩn bị cho hành trình diệt giặc của mình, Gióng liền vươn vai một cái đã trở thành người lớn, ăn biết bao nhiêu cơm cũng không no, mặc quần áo rộng cỡ nào cũng thấy chật. Như vậy dường như Gióng chỉ đợi sứ giả tìm đến, rồi hô biến thành một tráng sĩ "mình cao hơn trượng, uy phong, uy phong, lẫm liệt" với sức mạnh phi thường để diệt giặc. Từ đây chứng tỏ cậu bé Gióng chẳng phải người thường, mà có lẽ là một vị thần linh trên trời hóa thân thành để giúp nhân dân ta diệt giặc.

Hành trình đánh giặc của Thánh Gióng được miêu tả hết sức uy vũ và dũng mãnh, mang sức mạnh của một vị thần, một mình, một ngựa, một roi xông pha vào trận mạc đối đầu với hàng vạn quân giặc. Chiếc roi sắt quất đến đâu giặc chết như ngả rạ đến đấy, khiến chúng không kịp chạy trốn. Thậm chí vì chém giặc nhiều quá chiếc roi sắt được ban cũng không chịu được mà phải gãy làm đôi, lúc này đây không còn vũ khí, Thánh Gióng đã dùng sức mạnh của mình nhổ tre bên đường làm roi quất giặc, ném vào giặc khiến quân giặc phải kinh hoàng bạt vía trước sức mạnh tựa sấm sét ấy.

Sau khi đánh đuổi giặc Ân, Thánh Gióng cưỡi ngựa lên núi Sóc, trả lại quần áo cho nhân gian rồi bay về trời. Điều đó đã gián tiếp khẳng định thân phận của ông, vốn chẳng phải người phàm tục, mà là thần tiên được cử xuống giúp nước ta, thế nên cả quá trình ra đời trưởng thành và diệt giặc của ông mới có nhiều điểm ly kỳ đến thế. Có nhiều giả thiết cho rằng Thánh Gióng nguyên mẫu là lấy từ câu chuyện có thực về một vị tướng tài của nước ta, ông cũng đã từng tham gia đánh đuổi quân giặc sau đó bị thương nặng, nên đã cưỡi ngựa vào sâu trong rừng và không bao giờ trở ra nữa. Chính vì thế, người ta đã dựng nên giả thiết rằng ông bay về trời, để quên đi sự thực rằng ông đã trọng thương mà chết, đồng thời cũng là để hình tượng hóa vị anh hùng đã xả thân vì nước.

 

Truyền thuyết Thánh Gióng được lưu truyền lâu đời nhằm khẳng định sức mạnh của nhân dân ta trong cuộc chiến đấu chống giặc ngoại xâm, dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào vẫn luôn có người có thể gánh vác trọng trách bảo vệ đất nước. Điều đó càng khẳng định những mong ước của nhân dân ta từ xưa đến nay về một cuộc sống tốt đẹp, niềm tin về chân lý cái thiện luôn chiến thắng cái ác, chính nghĩa ắt thắng gian tà, người tốt ắt có thần tiên phù hộ, từ đó hướng con người đến chữ "thiện" tốt đẹp. Đồng thời truyền thuyết cũng là cơ sở của nét tín ngưỡng lâu đời trong truyền thống của nhân dân Việt Nam, tạo nên một nét văn hóa đặc sắc cho dân tộc.

Mẫu 5

Nhân dân ta, dân tộc ta luôn tự hào về tinh thần chiến đấu chống giặc ngoại xâm bất khuất kiên cường của mình. Cùng với niềm tự hào ấy, chủ đề này đi vào văn học và mang đến cho độc giả nhiều bông hoa đẹp. Thánh Gióng là truyện dân gian thể hiện rất tiêu biểu và độc đáo chủ đề này. Truyện kể về ý thức và sức mạnh đánh giặc có từ rất sớm của người Việt cổ. Thánh Gióng có nhiều chi tiết nghệ thuật hay và đẹp chứng tỏ tài năng sáng tạo của tập thể nhân dân ở nhiều nơi, nhiều thời. Câu chuyện đóng vai trò quan trọng trong việc giáo dục lòng yêu nước và bảo vệ truyền thống anh hùng dân tộc qua các thời đại cho đến ngay hôm nay.
Nhân vật chính của truyện – Thánh Gióng, có một sự ra đời thật kì lạ. Tục truyền đời Hùng Vương thứ sáu, ở làng Gióng có hai vợ chồng ông lão dù đã già nhưng chưa có được mụn con nào. Vợ chồng ông cảm thấy rất buồn lòng. Một hôm, bà vợ đi ra đồng, trông thấy một vết chân to, đành ướm thử. Kì lạ thay, từ sau lần ướm chân đó, bà có mang. Và kì lạ hơn nữa, bà thụ thai đến 12 tháng mới sinh con. Bà sinh ra một cậu bé khôi ngô, tuấn tú. Nhưng cậu bé ấy cũng là một cậu bé kì lạ khi hằng ngày không biết nói, biết cười, cũng chẳng biết đi, chỉ biết đặt đâu nằm đấy. Xuất thân của Gióng bình dị nhưng khác thường, kì lạ.
Gióng cứ thế lớn lên, không nói, không cười làm cho ông bà lão vô cùng lo lắng, phiền lòng. Thế mà chỉ khi nghe tiếng sứ giả kêu gọi mọi người đánh giặc cứu nước thì đột nhiên Gióng lại cất tiếng nói. Chả là lúc bấy giờ giặc Ân đến xâm phạm bờ cõi nước ta. Vì thế giặc mạnh nên nhà vua sai sứ giả đi tìm người tài giỏi. Khi đó, Gióng đã bảo với mẹ rằng: "Mẹ ra mời sứ giả vào đây". Khi sứ giả vào, cậu bé đã bảo với sứ giả về tâu với nhà vua "sắm cho ta một con ngựa sắt, một cái roi sắt và một tấm áo giáp sắt, ta sẽ phá tan lũ giặc này". Cả mẹ và sứ giả đều ngạc nhiên vô cùng. Như vậy, lời nói đầu tiên của Gióng là tiếng nói đòi đánh giặc, tiếng nói yêu nước. Điều này chứng tỏ rằng, khi có giặc ngoại xâm thì tất cả mọi người đều phải đáp ứng lời kêu gọi của Tổ quốc, kể cả là một đứa bé ba tuổi chưa biết nói biết cười đi chăng nữa.
Sau khi gặp sứ giả, Gióng ăn nhiều, nuôi không xuể, cả làng đều góp gạo giúp mẹ Gióng nuôi cậu. Từ đó, cậu lớn nhanh như thổi, trở thành một tráng sĩ cường tráng. Gióng là tượng đài bất hủ về sự trưởng thành vượt bậc, về hùng khí, tinh thần của dân tộc trước nạn ngoại xâm. Thể hiện sức sống mãnh liệt của dân tộc mỗi khi gặp khó khăn và tinh tương thần tương ỏi trong lúc khó khăn. Chi tiết bà con góp gạo nuôi Gióng chứng tỏ Gióng lớn lên bằng thức ăn, đồ mặc của nhân dân, được nuôi dưỡng bằng những cái bình thường, giản dị, Gióng là con của nhân dân. Nhân dân cũng là những người rất yêu nước, ai cũng mong Gióng lớn nhanh để ra trận giết giặc.
Chẳng bao lâu sau, nhà vua đã chuẩn bị xong cho Gióng các vật dụng mà cậu bé yêu cầu. Cậu bé vươn vai vùng dậy, bỗng nhiên biến thành một tráng sĩ, oai phong, lẫm liệt. Gióng cưỡi ngựa sắt, lao đi đánh giặc. Gióng đánh giặc không những bằng vũ khí mà bằng cả cỏ cây của đất nước, bằng những gì có thể giết được giặc. Lúc soi sắt gãy, Gióng đã nhanh trí nhổ rặng tre cạnh đường mà quật vào giặc. Tinh thần đánh giặc của cậu bé thật kiên cường, quyết chiến, quyết thắng, xụng thẳng vào giặc mà đánh. Vì vậy, giặc nhanh chóng tan rã.
Sau khi giệt xong giặc Ân, Gióng nhanh chóng bay về trời. Đây là sự ra đi thật kì lạ mà cùng thật cao quí, chứng tỏ Gióng không màng danh lợi, đồng thời cho chúng ta thấy thái độ của nhân dân ta đối với người anh hùng đánh giặc cứu nước. Nhân dân yêu mến, trân trọng muốn giữ mãi hình ảnh của người anh hùng nên đã để Gióng về với cõi vô biên, bất tử. Bay lên trời Gióng là non nước, là đất trời, là biểu tượng của người dân Văn Lang.
Trong truyện có nhiều chi tiết tưởng tượng kì ảo. Nhưng nổi lên đó vẫn là vẻ đẹp bất tử của chàng trai Thánh Gióng.

Mẫu 6

Thánh Gióng là một truyền thuyết vào loại hay nhất về truyền thống giữ nước của dân tộc Việt Nam. Truyện cho thấy yêu nước là tình cảm nảy nở rất sớm trong lòng nhân dân. Dân ta yêu nước nên ai cũng có trách nhiệm đánh giặc giữ nước. Thánh Gióng tiêu biểu cho tổ tiên ta trong sự nghiệp chống ngoại xâm bảo vệ Tổ quốc. Hình ảnh cậu bé làng Gióng đã để lại những ấn tượng thật đẹp đẽ.

Gióng là một nhân vật kì lạ. Bà mẹ Gióng có thai Gióng không như bao bà mẹ khác. Một lần đi rừng kiếm củi, thấy vết chân khổng lồ in trên mặt đất, bà ướm thử chân mình vào đó rồi có thai. Đây là cách dân gian, tưởng tượng ra để nhân vật cúa mình mang những nét phi thường. Đáng kì lạ bởi Gióng đã lên ba tuổi mà chẳng biết nói, biết cười và cũng không đi được bước nào, đặt đâu nằm đấy. Điều ấy khiến bà mẹ buồn lòng nhưng không vì vậy mà tình thương con giảm bớt. Bà vản ân cần chăm sóc đứa con trai khác thường mà không hề phàn nàn, kêu ca một tiếng.

Gióng không phải là đứa trẻ yếu đuối tật nguyền. Cậu bé không nói là để bắt đầu nói thì nói điều quan trọng, nói lời yêu nước, cứu nước. Lời nói ấy không phải là lời nói bình thường. Còn nằm ngửa trên chõng tre mà Gióng đã đòi nhà vua cấp cho ngựa sắt, giáp sất, roi sắt để đánh tan quân giặc. Ba tuổi, Gióng chưa biết đi nhưng để đến lúc cần sẽ nhảy lên mình ngựa, phi thẳng ra chiến trường giết giặc.

Sau khi gặp sứ giả, cậu bé Gióng lớn nhanh như thổi, cơm ăn mấy cũng không no, áo vừa may xong đã chật. Một bữa Gióng ăn hết báy nong cơm, ba nong cà, uống một hơi nước cạn đà khúc sông. Đấy là cách nói của dân gian để tô đậm chất phi thường cho nhân vật mà mình yêu mến. Mẹ Gióng nuôi Gióng không nổi, cả làng góp gạo nuôi cậu bé với kì vọng cậu sẽ trở thành người anh hùng cứu nước. Dường như việc cứu nước vô cùng cấp bách đã thúc đẩy Gióng vụt lớn lên nhanh. Hình tượng cậu bé làng Gióng tiêu biểu cho sức mạnh toàn dân trong cuộc chiến tranh giữ nước.

Khi sứ giả đem ngựa sắt, giáp sắt, roi sắt và nón sắt tói, Gióng vùng dậy, vươn một cái, bỗng trở thành một tráng sĩ oai phong lảm liệt. Gióng nhảy lên mình ngựa. Ngựa phun ra lửa, phi thẳng vào đội hình quân giặc. Ngọn roi của Gióng đã quật giặc chết như rạ. Roi gãy, Gióng đă nhổ tre bên đường thay roi đánh tiếp. Gióng đánh giặc không chỉ bằng vũ khí mà bằng cả cây cỏ thân yêu chốn quê nhà.

Giặc tan, Gióng phi ngựa sắt đến chân núi Sóc, trút bỏ áo giáp sắt rồi vái chào quê hương, sau đó cả người lẫn ngựa từ từ bay lên trời, biến mất. Gióng không trở về quê cho mẹ già, cho bà con làng xỏm mừng, không về triều đình để được vua ban thưởng bạc vàng, gấm vóc, chức tước cao sang. Gióng biến mất vào cõi hư không. Gióng sinh ra im lặng. Nay nước cứu xong, Gióng trở về chỗ lặng im. Gióng không màng công danh, phú quý. Anh hùng như thế mới thật là anh hùng! Yêu nước như vậy mói thật là yêu nước! Gióng kết tinh truyền thống đạo đức cao cả của dân tộc Việt.

Nhà vua phong cho Gióng chức Phù Đổng Thiên Vương, ý nói Gióng là người Trời. Còn nhân dân yêu mến và kính phục tôn Gióng làm Thánh Gióng. Hình ảnh Gióng bay lên trời thật đẹp đẽ và mang ý nghĩa vô cùng sâu sác. Theo em, Thánh Gióng không phải là một nhân vật có thật. Đó là hình ảnh nhân dân ta dựng lên bằng trí tưởng tượng, tiêu biểu cho truyền thống giữ nước kiên cường của dân tộc. Thánh Gióng là sức mạnh chiến đấu của toàn dân.

Truyền thuyết Thánh Gióng cho đến nay ý nghĩa vẫn còn mới mẻ và hấp dẫn nguyên vẹn như thuở ban đầu. Trong hoàn cảnh đổi mới hiện nay, cả dân tộc Việt Nam đang vươn vai để trở thành Thánh Gióng của thời đại, xây dựng đất nước ngày càng vững mạnh.

Mẫu 7

Chủ đề đánh giặc cứu nước, giành thắng lợi là chủ đề lớn, xuyên suốt trong dòng văn học Việt Nam nói chung và văn học dân gian Việt Nam nói riêng. Trong đó, truyền thuyết Thánh Gióng là truyện dân gian thể hiện chủ đề này thật tiêu biểu và độc đáo. Truyện kể về ý thức và sức mạnh đánh giặc có từ rất sớm của dân tộc ta.

Hình tượng Thánh Gióng hiện lên với nhiều chi tiết nghệ thuật hay và để lại trong em những ấn tượng sâu sắc. Không những thế, truyện Thánh Gióng còn chứa đựng những chi tiết thật hoang đường, kỳ ảo. Ban đầu là mẹ của Thánh Gióng đi ra đồng, ướm thử chân mình vào một dấu chân rất to lớn, rồi sau đó về nhà bà mang thai, mười hai tháng sau sinh ra một cậu bé. Có ai lại mang thai tới mười hai tháng bao giờ? Điều này cũng chính là dấu hiệu báo cho ta có thể biết trước sự lạ lùng về chú bé.

Quả đúng như vậy, chú bé được sinh ra khôi ngô, tuấn tú nhưng lạ thay, lên ba tuổi mà vẫn không biết đi, đứng, nói, cười; đặt đâu thì nằm đó. Thật khác hẳn với những em bé bình thường. Chú bé này thật khác lạ khiến mọi người ai cũng cảm động và lo lắng cho chú. Nhưng khi có giặc Ân kéo đến xâm phạm bờ cõi Văn Lang, chú bé liền cất tiếng nói. Và tiếng nói đầu tiên của chú bé lên ba là tiếng nói đòi đánh giặc. Chú bé đã bật ra tiếng nói kịp thời, tiếng nói cất lên khi nghe thấy tiếng rao của sứ giả đi tìm người hiền tài cứu nước.

Tiếng rao của sứ giả ờ đây chính là lời hiệu triệu của Vua Hùng, là tiếng gọi của non sông đất nước khi Tổ Quốc lâm nguy. Chi tiết này làm em thật cảm động. Chú là người yêu quê hương đất nước tha thiết. Lòng yêu quê hương đất nước tha thiết đã giúp chú bé mới ba tuổi không nói, không cười lớn nhanh như thổi, vươn vai một cái bỗng trở thành một tráng sĩ oai phong lẫm liệt với ý chí quật cường có thể dời non, lấp biển. Thánh Gióng là một biểu tượng của muôn người gộp sức, cùng nhau chống giặc ngoại xâm.

Chú bé Gióng đã có mặt kịp thời khi đất nước lâm nguy đã dẹp tan quân giặc. Ngựa phun ra lửa, roi sắt thần kì quật tan quân thù. Khi roi gãy thì nhổ tre đánh giặc. Thật sung sướng và tự hào biết bao khi Tổ Quốc ta có được một vị anh hùng như Thánh Gióng. Ta càng tự hào hơn khi Thánh Gióng đánh giặc xong không hề đợi vua ban thưởng mà một mình một ngựa từ từ bay lên trời. Đây là một chi tiết hoang đường, kì ảo nhưng lại có ý nghĩa vô cùng sâu sắc. Sự ra đi kì lạ của Thánh Gióng rất phù hợp với ý nguyện nhân dân, nên nó có một sức sống trường tồn trong lòng nhân dân như một nét đẹp rực rỡ, trong sáng nhất của người anh hùng chống giặc. "Cả người lẫn ngựa từ từ bay lên trời" - thật là kì ảo, nhưng thật nhẹ nhàng, ung dung. Người con yêu nước ấy đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đánh giặc cứu nước của mình, và đã ra đi một cách vô tư, thanh thản, không hề màng tới công danh địa vị cho riêng mình.

Áo giáp sắt nhân dân làm cho để đánh giặc, khi đánh tan giặc rồi, trả lại cho dân để bay về trời. Điều đó cho em thấy ở hình tượng Thánh Gióng - trong con người của chàng chỉ có yêu nước và cứu nước - tất cả đều cao đẹp, trong sáng như gương, không một chút gợn nào.

Phải chăng đó cũng chính là gương mặt của nhân dân ta được kết tinh trong người Thánh Gióng, ý chí phục vụ thật là vô tư, lớn lao và gương mẫu. Công lao to lớn ấy đã được nhà vua phong làm Phù Đổng Thiên Vương, nhân dân muôn đời ghi nhớ. Thánh Gióng đánh giặc đâu phải là đơn phương độc mã. Thử hỏi rằng nếu không có cơm gạo... của dân làng, của nhà vua thì Thánh Gióng làm được những gì? Công lao của Thánh Gióng cũng có một phần của nhân dân lao động góp sức tạo lên. Thánh Gióng chính là sự tượng trưng cho sự lớn mạnh của đất nước ta, dân tộc ta.

Khép trang sách lại mà hình tượng Thánh Gióng vẫn đọng mãi trong tâm trí em - một hình tượng nghệ thuật dân gian tuyệt đẹp, tràn đầy tư tưởng yêu nước, căm thù giặc và ý chí quyết thắng. Quả là không có hình tượng nào sánh kịp.

Mẫu 8

Từ ngàn xưa, ông cha ta đã để lại một kho tàng truyện truyền thuyết, truyện gian gian nói về công lao giữ nước và dựng nước của các bậc anh hùng. Chúng ta không thể không kể đến truyền thuyết “Thánh Gióng” rất hay và đặc sắc.

Người anh hùng được nhân dân ta từng quan niệm là cần phải có phép thần thánh, biến hóa tài giỏi thì mới có thể diệt bạo trừ thù, nhưng đến với truyền thuyết “Thánh Gióng” lại có một điểm khác biệt. Bà mẹ tuy đã có tuổi nhưng vẫn chưa có con. Một hôm, bà ra đồng thấy một vết chân to và ướm thử. Không ngờ, khi về nhà bà có thai… nhưng không phải là mang thai chín tháng mười ngày mà là tròn mười hai tháng. Bà sinh một cậu bé nhưng cậu ta chẳng khóc chẳng cười, đặt đâu ngồi đấy. Bấy giờ, nước nhà đang loạn lạc, vua sai sứ giả đi rêu rao tìm người tài giúp vua trừ giặc. Điểm kì lạ ở đây là khi nghe sứ giả hô to bên ngoài, bên trong Thánh Gióng đã bảo mẹ mời sứ giả vào và muốn đi đánh giặc. Điều này thể hiện rõ được ý thức đánh giặc cứu nước, tinh thần yêu nước sôi nổi của dân ta khi có giặc ngoại xâm được đặt lên hàng đầu và tạo nên người anh hùng với sức mạnh phi thường.

Nhân dân ta còn cường điệu về cách ăn mặc của Thánh Gióng. Chỉ là một đứa trẻ lên ba, mà ăn được mỗi bữa bảy nong cơm, ba nong cà, nước uống cạn cả một khúc sông, áo mặc càng ngày càng chật, khắp cả dân làng phải góp cơm gạo lại nuôi Thánh Gióng. Đây cũng là một điểm thú vị, hình ảnh Gióng lớn nhanh như thổi thể hiện sự quyết tâm, kiên cường, gấp gáp của người anh hùng đang chuẩn bị tư trang ra trận mạc. Thánh Gióng là biểu tượng cho sức mạnh của nhân dân, của tinh thần đoàn kết chống giặc, của ý thức bảo vệ dân tộc. Đó còn là biểu tượng cho sự hi sinh thầm lặng của những người mẹ tự nguyện để con ra chiến trường, giết giặc cứu quốc.

Giặc đã đến sát chân núi, sứ giả mang voi sắt, ngựa sắt, áo giáp sắt đến. Thánh Gióng mặc vào, vươn vai một cái đã trở thành một tráng sĩ cao lớn, oai phong, lẫm liệt. Chỉ một người nhưng lại đấu lại cả hàng trăm hàng nghìn người, đó là sự đối lập càng tạo nên sự to lớn, vĩ đại, sự phi thường của Thánh Gióng. Cái vươn vai ấy thể hiện sự phi thường của một người anh hùng trước thời cuộc. Gióng còn nhổ những bụi tre ven đường để càn quét bọn giặc. Sự thông minh thể hiện ở cách đánh giặc của Gióng. Chàng không chỉ dùng những vũ khí hiện đại: roi sắt, ngựa sắt mà còn dùng đến vũ khí thô sơ: những bụi tre để giết giặc. Đánh xong giặc Ân, Gióng cởi bỏ áo giáp sắt, ngựa sắt rồi cả người và ngựa từ từ bay lên trời.

 

Câu chuyện không chỉ mang giá trị biểu tượng mà còn mang giá trị lịch sử sâu sắc. Hình ảnh Thánh Gióng là biểu tượng cho sức mạnh đoàn kết, quật cường chống giặc ngoại xâm của nhân dân ta, thể hiện ý thức bảo vệ chủ quyền mỗi khi tổ quốc lâm nguy, đồng thời truyện còn phản ánh về tình hình kinh tế nông nghiệp của nước ta phát triển lúc bấy giờ, biết chế tạo vũ khí hiện đại để đánh giặc, tập hợp sức mạnh của toàn thể và sử dụng tất cả mọi phương tiện để chống giặc ngoại xâm.

Mẫu 9

Xưa nay chủ đề anh hùng, đánh giặc cứu nước đã là chủ đề lớn, xuất hiện nhiều trong văn học Việt Nam và cả trong văn học dân gian Việt Nam. Trong đó, truyền thuyết "Thánh Gióng" là truyện truyền thuyết vô cùng quen thuộc với người dân, thể hiện chủ đề anh hùng vô cùng độc đáo.

Truyền thuyết "Thánh Gióng" kể về ý chí anh hùng và sức mạnh của người dân xưa với dân tộc ta với người anh hùng. Hình ảnh nhân vật Thánh Gióng hiện lên những chi tiết vô cùng hay và nghệ thuật kể chuyện vô cùng sâu sắc. Thông qua truyện còn chứa đựng những yếu tố hoang tưởng, ly kỳ hấp dẫn, thể hiện người anh hùng xả thân cứu nước, cứu dân vô cùng dũng cảm.

Mẹ của Thánh Gióng là người hiếm muộn đi làm đồng đã ướm thử chân của mình vào một bàn chân vô cùng to lớn, khi về nhà chẳng bao lâu thì ba mang thai và sinh ra một em bé trai sau mười hai tháng mang thai. Nhưng cậu bé này tới năm ba tuổi vẫn chưa biết nói, chỉ im lặng, lẫm lũi, nhưng vô cùng đáng yêu, bụ bẫm. Cậu bé Thánh Gióng khôi ngô tuấn tú nhưng không nói được câu nào. Nhưng kỳ lạ thay, khi giặc Ân xâm lược nước ta, nhà vua cho người đi tìm anh hùng để đánh giặc giải nguy cho đất nước. Khi nghe sứ giả nói những lời thông báo mà nhà vua ban ra, chú bé Thánh Gióng đã nói được.

Một chú bé chưa bao giờ nói chuyện, chưa bao giờ cất lời gọi cha, gọi mẹ nhưng khi có giặc kéo đến thì chú bé cất lời. Lời nói đầu tiên của chú bé là đòi cầm giáo mác đi đánh giặc, cứu dân, cứu nước. Chú bé Thánh Gióng là một nhân vật vô cùng vĩ đại, tiếng nói cất lên khi sứ giả đọc thông cáo thể hiện tình cảm yêu nước sâu sắc của người anh hùng Thánh Gióng. Lòng yêu nước, quê hương trong lòng của người dân xưa vô cùng mãnh liệt, sau khi nói với mẹ con sẽ đi đánh giặc. Thánh Gióng đã vươn vai lớn nhanh như thổi, trở thành một tráng sĩ, vô cùng oai phong lẫm liệt, có ý chí anh hùng, có sức mạnh để dời non lấp biển.

Nhân vật Thánh Gióng là một biểu tượng ngời sáng, thể hiện ý chí anh hùng của người dân khi muốn góp sức mình để chống giặc ngoại xâm, bảo vệ quê hương bờ cõi. Chú bé Thánh Gióng chính là một vị anh hùng của dân tộc, Thánh Gióng có mặt kịp thời để cứu nước khi lâm nguy khi quân giặc kéo tới. Thánh Gióng cầm roi sắt, cưỡi ngựa sắt, mặc áo giáp sắt xông vào chiến trường, đánh tan bè lũ quân thù. Thánh Gióng đi tới đâu thì quân giặc tan tác tới đó. Thánh Gióng đánh mạnh quá tới mức gậy trên tay của anh bị gãy anh đã nhổ những khóm tre quăng vào quân giặc.

Khi quân giặc tan tác, bờ cõi yên bình Thánh Gióng không hề quay lại triều đình để nhận phần thưởng mà bay thẳng về trời, thể hiện một người anh hùng sẵn sàng vì dân vì nước không màng vinh hoa phú quý, không ham hư vinh mà chỉ một lòng vì người dân, sự bình yên của người dân. Thánh Gióng thực chất là con của Ngọc Hoàng thượng đế, một người anh hùng muốn giúp người dân có cuộc sống bình yên, nên mới đầu thai làm người. Thông qua nhân vật Thánh Gióng thể hiện một mơ ước tươi đẹp của người nông dân xưa muốn có người anh hùng, ý chí, kiên cường bảo vệ cuộc sống bình yên của người dân trong thời kỳ loạn lạc, chiến tranh.

Thánh Gióng chính là biểu tượng của một người con yêu nước sẵn sàng hy sinh vì dân tộc không vì quyền chức, mà khi hoàn thành nhiệm vụ anh đã ra đi thanh thản, không màng tới danh vị, chức vụ, quyền chức. Chiếc áo giáp sắt nhân đã làm cho Thánh Gióng mặc bảo vệ cơ thể nhưng khi anh bay về trời cũng để lại cho người dân. Thông qua đó cho chúng ta thấy rằng nhân vật Thánh Gióng là một chàng trai vô cùng trong sáng không màng danh lợi, mà một lòng hướng tới cuộc sống tốt đẹp, tấm lòng vô cùng trong sáng như một tấm gương, trong lòng không chút tà niệm nào.

 

Phải chăng đó chính là tấm lòng người nông dân muốn dành cho quê hương đất nước của mình. Thể hiện ý chí vô tư, yêu nước của người dân là mẫu người lý tưởng trong sáng trong cuộc sống. Với công lao vô cùng lớn lao đó nhà vua đã phong cho Thánh Gióng là Phù Đổng Thiên Vương hàng năm đều có ngày lễ hội Gióng để tưởng nhớ công lao to lớn của người anh hùng này.

Đồng thời, người dân chúng ta cũng cảm thấy việc cần thiết phải có sức khỏe tốt thì mới có thể bảo vệ quê hương, đất nước, nên hàng năm chúng ta có cuộc thi sức khỏe để bồi dưỡng tu luyện thể lực cường tráng hơn. Thông qua nhân vật Thánh Gióng người xưa muốn thể hiện mong muốn có người anh hùng bảo vệ dân tộc, một người anh hùng đúng nghĩa có ý chí, kiên cường không màng vinh hoa phú quý.

Mẫu 10

Cuộc đời ta lớn lên đẹp tuyệt với những câu truyện cổ tích đậm hồn dân tộc, tắm mát tâm hồn. Câu truyện Thánh Gióng là một trong số đó, có những thông điệp, những thành tích được ghi vào lịch sử nước nhà, ấn đậm trong mỗi người dân nước Việt, vẫn còn vang mãi với thời gian, củng cố lòng yêu nước, niềm tự tôn dân tộc với mỗi thế hệ nhân dân.

Khi nhắc đến nhân vật Thánh Gióng, mỗi người chúng ta đều có suy nghĩ thầm cảm phục, ấn tượng, lạ kỳ nhưng cũng đầy gần gũi vì sản phẩm do trí tưởng tượng của nhân dân ta với biết bao tâm tư gửi gắm, vậy nên dễ hiểu khi tác phẩm Thánh Gióng đã là một truyền thuyết tiêu biểu của nền văn học dân gian Việt Nam.

Nhân vật đi vào lòng người- Thánh gióng chính là hình tượng một anh hùng chống giặc ngoại xâm, mang sức mạnh phi thường, kì diệu và sức mạnh siêu nhiên đã quét sạch hết lũ giặc ra khỏi bờ cõi nước ta, sau đó đã tạm biệt trần gian cưỡi ngựa bay về trời.. Ông còn có một tên gọi khác là Phù Đổng Thiên Vương – sinh ra tại xã Phù Đổng, huyện Gia Lâm, Hà Nội, thời Hùng Vương thứ 6. Ông là đại diện cho sự bất khuất, kiên cường, tinh thần chống giặc ngoại xâm của thế hệ trẻ, ông để lại cho đời bao điều ý nghĩa bất tử với thời gian.

 

Câu chuyện được bắt đầu theo lời kể của người viết, đầy chi tiết và cảm xúc, mang màu sắc kỳ lạ dễ khiến chúng ta liên tưởng tới truyện Sọ Dừa, và bao nhân vật ra đời và lớn lên tương tự trong những câu truyện cổ tích và truyền thuyết khác. Ngày xưa, có hai vợ chồng ông lão rất hiền lành, chăm chỉ làm ăn và có tiếng là phúc đức hay giúp đỡ mọi người, trớ trêu thay hai ông bà tuổi đã cao mà vẫn không có lấy một mụn con.

Sự kỳ diệu đã gõ cửa, đến một ngày bà lão ra đồng trông thấy một vết chân rất to, bà tò mò liền đặt bàn chân mình lên ướm thử để xem thua kém bao nhiêu. Không ngờ về nhà bà mang thai. Mười hai tháng sau bà sinh một thằng bé mặt mũi rất khôi ngô. Bà đặt tên con mình là Gióng, sự tích về thánh gióng là từ đây, kì ảo và huyền bí. Câu truyện vẫn tiếp tục được kể cuốn hút ta theo câu truyện tưởng chừng như vô vọng vì của đứa con trai của bà lên ba tuổi vẫn không biết nói, biết cười, cũng chẳng biết đi, cứ đặt đâu thì nằm đấy. Nhưng dường như đã được sắp xếp, chỉ đến khi cần kích hoạt đúng thời điểm mọi thứ sẽ bùng nổ. Năm ấy, giặc Ân đến xâm phạm bờ cõi nước ta, cầm đầu là Ân Vương, nổi tiếng độc ác, dữ tợn, hắn đi đến đâu là cho quân đánh chém giết người đốt nhà đến đấy.

Nhà vua đã bao lần cho quân vây đánh nhưng không được, bất an về quốc gia, vua bèn truyền cho sứ giả đi khắp nơi tìm người tài giỏi cứu nước. Trược sự ngạc nhiên, vui mừng khôn xiết của người mẹ, chuyện lạ chưa từng xảy ra là cậu bé đã cất tiếng nói buổi đầu, cậu mạnh dạn nói với mẹ: “Mẹ mời sứ giả vào đây”. Người Mẹ thấy lắm bất ngờ, nghe con nhắc mời sứ giả thì đã nhanh chóng cản lại, sợ con mình một phút liều mà phải trả giá đắt: “Con bé thế này, sao có thể ra trận đánh giặc được”, ai trong chúng ta cũng tin rằng một đứa trẻ lên ba bình thường chưa thể làm được điều đó huống chi là một đứa bé không biết làm chuyện gì mà lại dám đi đánh giặc là điều khó có thể tưởng tượng được. Với giọng cương quyết, ông vẫn dứt khoát, thuyết phục mẹ mời bằng được sứ giả vào. Sứ giả vào, ông đã vô cùng tức giận khi trước mặt mình là một đứa bé mà chẳng có một tráng sĩ như ông vẫn tưởng tượng, vội quay đi, nhưng Thánh Gióng đã dõng dạc đề cập vấn đề luôn mà không hề vòng vo: “đúc cho ta một con ngựa sắt, một áo giáp sắt, một cây roi sắt ta sẽ phá tan lũ giặc này.

Tác giả dân gian dường như không quá chú trọng vào miêu tả miêu tả cậu bé này lớn lên như cách miêu tả thông thường mà muốn nhấn mạnh vào sự phát triển vĩ đại trở thành một người anh hùng, người có tầm vóc làm được những điều phi thường, ngay lập tức từ một đứa bé ba tuổi, nhân vật của chúng ta đã thay đổi nhanh nhẹn, linh hoạt, biết giúp đỡ mẹ mình. Cậu lúc này trở nên ăn uống khỏe, lớn nhanh như thổi có khi cả làng phải góp gạo lại mới đủ để cậu bớt đói, ăn đến nỗi áo vừa mặc xong sau ăn đã bục chỉ, ai ai cũng muốn chàng giúp dân diệt giặc, cứu nước. Thực sự thần kỳ, khi giặc đã kéo vào thành lũy nước ta, Thánh Gióng chỉ cần vươn vai đã xuất hiện một tráng sĩ lực lưỡng, cùng với ngựa sắt, roi sắt, áo giáp sắt đến kịp thời.

Chàng mặc áo giáp vào, cầm roi thúc mông ngựa, ngựa hí một tiếng vang trời. Bắt đầu cuộc chiến, ta dễ thấy phần thắng nghiêng về chàng trai kia vì khí thế quật cường, mạnh mẽ. Mỗi vật dụng đều được chàng tận dụng triệt để, với vị thế trên yên ngựa, ngựa thét ra lửa cháy rụi một vùng trời, một mình Gióng đã chiến đấu lấy roi sắt đập vào quân giặc, đến nỗi khi roi sắt ấy gẫy, Gióng nhanh trí nhổ rặng cây tre bên đường và tiếp tục chiến đấu không lùi bước, quân giặc sợ quá chạy toán loạn, giặc chết chất thành núi. Gióng thúc ngụa đuổi chúng đến chân núi Sóc Sơn. Hình tượng ấy toát lên vẻ đẹp của người con có hiếu, người anh hùng cao cả vĩ đại được dân gian thể hiện trong Gióng, ngay sau khi diệt Giặc, không trở lại, không vinh dự để hân hoan về lĩnh thưởng trước sự tung hô của mọi người như người thường vẫn làm chàng chỉ quay đầu về ngôi làng, dập đầu lạy mẹ ba cái, tạ ơn công sinh thành rồi cởi áo giáp bỏ lại, cả người lẫn ngựa từ từ bay về trời.

Thánh Gióng chính là một biểu tượng sánh vai với các nhân vật có tầm vóc như Sơn Tinh, Chử Đồng Tử, Mẫu Liễu Hạnh…Ở ông vừa thể hiện công sức giúp đỡ của đất trời cũng đại diện cho tinh thần và sức mạnh của người Việt ta trong việc chống ngoại xâm giữ gìn đất nước. Là khát vọng bảo vệ, gìn giữ nền hòa bình muôn đời với lòng yêu nước, khả năng, sức mạnh của người dân thì không gì là không thể. Dù bây giờ trong thời bình, nhưng chúng ta một thế hệ trẻ của đất nước, vẫn phải cố gắng tiếp bước, giữ gìn,phát huy hết mình để góp phần giúp đất nước ta ngày một lớn mạnh, vững bền.

 

Lời giải

Mẫu 1

Mỗi câu chuyện của ông cha ta để lại dù ngắn hay dài đều là cả quá trình tích lũy kinh nghiệm và sáng tạo. Trong các câu truyện ông cha ta để lại em thích và nhớ nhất là truyện Sơn Tinh, Thủy Tinh. Câu chuyện ca ngợi công lao dựng nước của vua Hùng. Ông cha ta mượn cuộc chiến của Sơn Tinh, Thủy Tinh để giải thích hiện tượng lũ lụt xảy ra hàng năm và ước mơ muốn chế ngự thiên tai.

Bằng khả năng sáng tạo của mình ông cha ta đã sáng tạo truyện Sơn Tinh, Thủy Tinh lịch sử hóa thần thoại về núi Tản Viên thành truyện truyền Thuyết. Câu chuyện được khéo léo gắn vào thời đại vua Hùng thứ mười tám, đây là một trong những truyện nằm trong kho tàng những câu chuyện về Hùng Vương.  Ở nước ta từ xưa đến nay luôn luôn phải đối mặt với các trận lũ lụt gây hậu quả và người và tài sản. Người Việt cổ luôn giải thích các sự vật, hiện tượng tự nhiên đều liên quan đến các vị thần như thần núi, thần nước, thần gió,…. Nên có thể khi phải đối mặt với các trận lũ lụt thì người Việt cổ nghĩ đến có việc khiến thủy thần hàng năm nổi giận. Họ đã sáng tạo ra truyện Sơn Tinh, Thủy Tinh để giải thích nguyên nhân dẫn đến các trận luc lụt hằng năm và qua truyện hộ thể hiện ước muốn chế ngự thiên tai.

Câu chuyện được bắt đầu rất độc đáo, đó chính là việc vua Hùng thứ mười tám muốn kén rể cho con gái. Con gái của vua Hùng tên là Mị Nương là cô gái đẹp người, đẹp nết được vua Hùng yêu thương hết mực nên muốn tìm cho con một người chồng tài giỏi, xứng đáng.

Khởi đầu là cuộc tranh tài bất phân thắng bại của Sơn Tinh và Thủy Tinh. Người Việt cổ dựa vào kinh nghiệm và hiểu biết của mình để sáng tạo nên hình tượng vĩ đại của hai chàng trai đến cầu hôn. Phần giới thiệu rất ngắn gọn những thể hiện tài năng hơn người và ngang tài ngang sức của hai chàng trai. Một người thì “vẫy tay về phía đông, phía đông nổi cồn cát; vẫy tay về phía tây, phía tây mọc lên tường dãy núi đồi. Người ta gọi chàng là Sơn Tinh.” Người còn lại thì “tài năng cũng không kém: gọi gió, gió đến: gọi mưa, mưa về. Người ta gọi chàng là Thủy Tinh.” Một người trên núi, một người dưới biển mà ngang sức ngang tài kiến cho vua Hùng không biến chọn ai bèn cho mời các lạc hầu bàn bạc đưa ra quyết định nếu ai mang đầy đủ lễ vật đến trước thì người đó sẽ đón được Mị Nương về làm vợ.

Khi đọc đến phần lễ vật em cảm thấy vua Hùng hình như nghiêng về bên Sơn Tinh có thể lễ vật chỉ là cách mà vua Hùng nghĩ ra. Lễ vật gồm “Một trăm ván cơm nếp, hai trăm nệp bánh chưng, voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao, mỗi thứ một đôi.” Voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao là chỉ sống ở vùng núi. Còn cơm nếp và bánh chưng dều là các sản phẩm nông nghiệp nơi vùng đất Sơn Tinh cai quản. Người Việt cổ dùng trí tưởng tượng ra những món lễ vật phi thường voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao bên cạnh đó là những sản vật gần gũi và quan trọng đối với họ là các món ăn từ lúa gạo. Vì vậy, có lẽ đây chính là một trong những nguyên nhân dẫn đến chiến thắng của Sơn Tinh đến sớm đón được Mị Nương.

Có thể các lễ vật ở vùng núi nên Thủy Tinh mất nhiều thời gian đi tìm hơn nên mang lễ vật đến muộn hơn Sơn Tinh. Vì vậy, khi Thủy Tinh đến nơi thì Mị Nương đã được Sơn Tinh đón về núi khiến Thủy Tinh tức giận đuổi đanh Sơn Tinh muốn cướp lại Mị Nương. Thủy tinh thể hiện hết khả năng “ Thần hô mưa, gọi gió làm thành giông bão rung chuyển cả trời đất, dâng nước sông lên cuồn cuộn đánh Sơn Tinh.” Thủy Tinh không để ý đến sự tức giận của mình khiến “nước ngập ruộng đồng, nước ngập nhà cửa, nước dâng lên lưng đồi, sườn núi, thành Phong Châu như nổi lềnh bềnh trên một biển nước.”

Sự tức giận của Thủy Tinh khiến cho muôn dân lầm than, những cánh đồng lúa làm ra ván cơm nếp, nệp bánh chưng bị dòng nước nuốt chửng. Người dân vì dòng nước mất đi ruộng vườn nơi ở, mất đi cả người thân. Đứng trước sự tức giận của Thủy Tinh, Sơn Tinh không hề nao núng “bốc từng quả đồi, dời từng dãy núi, dựng thành lũy đất ngăn chặn dòng nước lũ. Nước sông cao lên bao nhiêu, đồi núi cao lên bấy nhiêu.” Trận chiến ác liệt kéo dài mấy tháng trời, cuối cùng Thủy Tinh cũng thua buộc phải rút quân. Trận đấu nhờ những chi tiết kì ảo, tưởng tượng của người Việt cố hiện lên thật vĩ đại, đây là cuộc chiến của các vị thần mang sức mạng vĩ đại. Với chiến thắng cuối cùng, Sơn Tinh như vị anh hùng đại diện cho dân tộc bảo vệ và đứng ra trị thủy bảo vệ ruộng vườn, nhà của và cuộc sống của người dân.

Năm nào cũng vậy, từ xưa đến nay, Vì lòng ghen muốn đoạt lại Mị Nương mà Thủy Tinh không tiếc gây ra thiệt hại cho người dân dâng nước đánh Sơn Tinh. Nhưng nhờ sức mạnh, sự đoàn kết và trí thông minh dùng núi, đồi,đất ngăn nước Sơn Tinh luôn chiến thắng Thủy tinh, buộc Thủy Tinh phải rút quân. Phải chăng tài năng của Sơn tinh phải chăng chính là sáng tạo của nhân dân chống lại lũ lụt hằng năm bằng các đắp đê ngăn lũ như ngày nay được truyền lại. Nhân dân ta luôn đứng lên nghĩ cách chế ngự thiên tai và còn sáng tạo ra câu chuyện thú vị giải thích cho con cháu về nguyên nhân gây ra lũ lụt hằng năm cùng với biện pháp chống lại lũ lụt.

Đáp lại công ơn các vua Hùng dựng nước và các bài học của người Việt cổ để lại, chúng ta ngày nay đã xây dựng được các bờ đê vững  chắc đặc biệt là chúng ta đã chinh phục được dòng nước để xây dựng đập thủy điện phục vụ cho cuộc sống. Tuy nhiên, chúng ta lại tự phá hủy đi tuyến phòng ngự của thấn núi là các cánh rừng phòng hộ ngăn lũ lụt. Vậy nên, dù có kế thừa và phát huy sáng tạo của người Việt cổ mà chúng ta không giữ gìn và bảo vệ rừng cùng chung sức với thần núi thì sẽ có lúc Thủy Tinh sẽ giành chiến thắng.

Mẫu 2

Từ năm lớp hai, em đã được nghe thầy giáo kể truyện “Sơn Tinh Thủy Tinh”. Thế mà năm học lớp sáu, được nghe cô giáo giảng lại truyện ấy trong giờ giảng văn, em vẫn theo dõi hứng thú vô cùng. Truyện cổ dân gian này tuy là một truyện thần thoại nhưng cũng phản ánh ước mơ chiến thắng bão lụt của cha ông ta ngày xưa.

Truyện kể về Vua Hùng thứ 18 có một người con gái tên là Mị Nương, sắc đẹp tuyệt trần. Nhà vua rất mực yêu thương con nên muốn kén cho nàng một người chồng thật xứng đáng. Một hôm, có hai chàng trai tuân tú đến xin ra mắt Vua đề cầu hôn. Một người tên Sơn Tinh ở núi Ba Vì khôi ngô, tài giỏi có thể chuyển cả núi non, dời cả đồng ruộng. Một người tên là Thủy Tinh ở tận biển Đông có tài gọi gió hô mưa. Vua Hùng lúc bấy giờ băn khoăn chẳng biết nên gả Mị Nương cho ai nên ra điều kiện: “Ngày mai ai đem lễ vật tới đây trước: một trăm ván cơm nếp hai trăm nệp bánh chưng, voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao, mỗi thứ một đôi thì được rước dâu về”.

Sáng sớm hôm sau, Sơn Tinh đem đủ lễ vật đến trước và được rước vợ về. Thủy Tinh đến sau không lấy được vợ, đùng đùng nổi giận đuổi theo Sơn Tinh để giành lại Mị Nương. Hai bên đều dốc hết phép thuật đánh nhau dữ dội. Cuối cùng Thủy Tinh thua. Thế nhưng hàng năm, anh cưới vợ hụt này vẫn đem quân lên đánh Sơn Tinh để phục hận nhưng năm nào cũng thất bại:

Núi cao sông cũng còn dài

Năm năm báo oán đời đời đánh ghen

Đọc hay nghe kể chuyện Sơn Tinh xong, hẳn ai cùng thích thú với chi tiết các lễ vật mà Sơn Tinh đã đưa đến để hỏi cưới Mị Nương. Đó “Voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao”. Các món này đều là bảo vật riêng của miền rừng núi, mà muốn có được trong một thời gian rất ngắn như thế, rõ ràng là Sơn Tinh cũng phải mất nhiều công sức để mà có được các món sinh lễ có một không hai này. Điều đó cũng biểu lộ quyết tâm mãnh liệt của Sơn Tinh muốn cưới Mị Nương làm vợ. Tình yêu của một chàng trai miền rừng núi bình tĩnh thâm trầm, khác hẳn với Thủy Tinh nóng nảy, thù dai và ích kỉ.

Thật vậy, khi không rước được Mị Nương, Thủy Tinh đã đùng đùng nổi giận, hô mưa, gọi gió, làm dông bão phá phách thẳng tay. Thủy Tinh dùng phép thuật dâng nước sông lên cuồn cuộn dìm kinh thành Phong Châu lềnh bềnh trong biển nước. Một con người nóng nảy, dữ dằn, vị kỉ lại thù dai. “Năm năm báo oán, đời đời đánh ghen” như thế làm sao cho thể xứng đôi với người đẹp Mị Nương nết na, dịu dàng được? Trong khi đó Sơn Tinh tỏ ra bình tĩnh và thận trọng bốc từng quả đồi, dời từng quả núi làm thế nào để nước sông dâng lên bao nhiêu thì núi đồi cao lên bấy nhiêu.

Hình tượng Sơn Tinh phải chăng là thi vị hóa của hình ảnh nhân dân chống bão lụt thiên tai đầy gian khổ mà cũng vô cùng dũng cảm ở vùng đồng bằng sông Hồng ngày xưa, nhằm bảo vệ cửa nhà, hoa lợi non sông gấm vóc? Hình tượng ấy cũng là sản phẩm của trí tưởng tượng đầy tính lãng mạn của người xưa.

Tóm lại, tuy là thần thoại đầy tính lãng mạn nhưng truyện “Sơn Tinh Thủy Tinh” mà em được học vẫn có nhiều yếu tố chân thực. Một trong những nét chân thật là truyện phản ánh ước mơ chiến thắng được bão lụt thiên tai của cha ông ta ngày xưa. Trong thực tế đời sống, bão lụt thiên tai đã thường xuyên phá hoại cuộc sống yên lành nhưng mọi người khi ấy chưa đủ sức để thắng được thiên nhiên. Do đó, họ phải dùng thần thoại để chiến thắng được bão lụt và thiên tai trong trí tưởng tượng đầy lãng mạn của mình.

Mẫu 3

Truyện thần thoại “Sơn Tinh- Thủy Tinh” là một câu chuyện hay không chỉ đơn thuần kể về việc kén rể, lấy vợ mà còn phản ánh, giải thích hiện tượng lũ lụt hằng năm đồng thời thể hiện ước mơ, khát vọng chiến thắng và làm chủ thiên nhiên của người dân lao động.

Nhân dân ta từ ngàn xưa đã phải chịu thiệt hại từ thiên tai lũ lụt, từ thuở sơ khai con người từ miền núi chuyển xuống đồng bằng tìm kiếm đất đai phù sa, màu mỡ phục vụ cho đời sống cũng như việc chăn nuôi, trồng trọt. Tuy nhiên, bên cạnh mặt thuận lợi với địa hình bằng phẳng, nhân dân ta cũng phải chịu nhiều thiệt hại do thiên tai, lũ lụt gây ra, chủ yếu là ở đồng bằng sông Hồng. Để bảo vệ thành quả lao động, chúng ta đã dũng cảm, mưu trí chống lại và khắc phục thiên nhiên.

Dựa trên những điều đó, dân gian đã dựng nên câu chuyện nhà vua kén rể, các chàng trai đi tìm vợ, người lấy được vợ xinh đẹp, người thua cuộc trở về dẫn đến cuộc giao tranh lẫn nhau. Hai vị thần dựng nên xung đột, mỗi năm kẻ ôm mối thù vẫn gây sự để trả thù đối phương. Câu chuyện không chỉ phản ánh hiện thực đời sống mà qua đó còn thể hiện trí tượng tưởng phong phú cũng như là món ăn tinh thần cho nhân dân lao động.

Truyện có hai nhân vật chính là Sơn Tinh và Thủy Tinh. Sơn Tinh hay còn gọi là Thần Núi Tản Viên- Thánh Tản là chúa tể ở vùng non cao hùng vĩ, Thủy Tinh- Thần Nước là chúa tể của vùng nước thẳm mênh mông. Hai người đều có tài năng phi thường. Sơn Tinh vẫy tay về phía đông, phía đông mọc lên cồn bãi, vẫy tay về phía tây, phía tây mọc lên các núi đồi, chỉ tay đến đâu rừng núi mọc lên đến đó, chim muông đầy đàn. Thủy Tinh gọi gió, gió đến, hô mưa, mưa về. Cả hai thần đều giỏi và được lòng vua cha, khiến ngài do dự không biết gả con gái cho ai nên đành ra điều kiện, ngày mai ai mang sính lễ đến sớm hơn thì cưới được Mị Nương.

Ngay từ đầu chúng ta đã nhận thấy vua cha có phần ưu tiên cho Sơn Tinh hơn, bởi các sính lễ mà ngài yêu cầu đều rất dễ để Sơn Tinh tìm kiếm và ngược lại, rất khó đối với Thủy Tinh bởi: voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao, một trăm ván cơm nếp, hai trăm nệp bánh chưng chỉ có ở trên núi non. Sáng hôm sau, Sơn Tinh đã nhanh chân hơn, đến mang đầy đủ những sính lễ và cưới được Mị Nương.

Thủy Tinh đến sau không lấy được vợ, đùng đùng nổi giận, tức khắc đuổi theo và kêu gọi binh tướng để đánh Sơn Tinh quyết chiếm lại công chúa Mị Nương. Sơn Tinh và Thủy Tinh đánh nhau với cuộc chiến dữ dội và ác liệt. Thủy Tinh hô mưa gọi gió, dùng tất cả các phép dâng nước lên cao để nhấn chìm Sơn Tinh, sấm chớp đùng đùng, đồng ruộng phút chốc ngập trong biển cả.

Thần Núi cũng không hề thua kém, nước dâng lên đến đâu, Thần dùng phép làm núi cao lên đến đó, chặn dòng nước dữ dội. Cuối cùng, Thủy Tinh kiệt sức, đành phải rút lui. Cả Sơn Tinh và Thủy Tinh đều là những vị thần đều có tài lực ngang nhau. Với việc sử dụng các chi tiết tưởng tượng, kì ảo, hoang đường tạo nên sức hấp dẫn cho câu chuyện thể hiện trí tưởng tượng phong phú, sáng tạo.

Chính vì căm thù Sơn Tinh, không cưới được vợ xinh đẹp nên hằng năm cứ vào tháng bảy âm lịch lại gây mưa bão, hô mưa gọi gió gây thiệt hại mùa màng để trả thù Sơn Tinh. Nhưng Thủy Tinh vẫn không thể có được Mị Nương. Tình huống truyện không chỉ mang ý nghĩa thực về cuộc giao tranh kiếm vợ của hai vị thần mà nó còn mang ý nghĩa tượng trưng. Sơn Tinh là hiện thân cho lớp người nông dân, cần cù đắp đê chống lũ, thể hiện cho khát vọng được chinh phục và chiến thắng thiên nhiên.

Sức mạnh, tầm vóc của Sơn Tinh thể hiện cho sức mạnh của người dân lao động dũng cảm chống lại thiên tai. Thủy Tinh là đại diện cho mưa gió, sấm chớp, là kẻ thù của người dân lao động. Ngày nay, để khắc phục thiên nhiên, đã xuất hiện nhiều công trình thủy lợi, đê điều, mương máng chứa nước, đập nước điều hòa của các sông Hồng, sông Đà nhằm khắc phục được phần nào tình hình lũ lụt, lũ quét, xói mòn đất đai, thiệt hại mùa màng. Tuy nhiên, gần đây nạn chặt phá rừng, phá rừng diễn ra nghiêm trọng ở rộng khắp cả nước. Đồng thời sự thay đổi về thời tiết, khí hậu ảnh hưởng lớn đến môi trường cũng như đời sống của con người.

Chính quyền nhà nước cũng quan tâm sát sao đến tình hình củng cố đê điều, mương máng, các công trình thủy lợi được xây dựng kiên cố, nổi lên nhiều ở các lưu vực đồng thời thực hiện các chính sách ngăn cấm chặt phá rừng, tổ chức các phong trào trồng cây gây rừng, phủ xanh đồi trọc, thể hiện sự đúng đắn, hợp lí của chính quyền. Câu chuyện Sơn Tinh- Thủy Tinh thể hiện ước mơ ngàn đời của nhân dân ta nhằm khắc phục, chiến thắng được thiên nhiên.

Mẫu 4

Sơn Tinh Thủy Tinh là một câu chuyện được xây dựng trên trí tưởng tượng phong phú của người dân Việt Nam thời xưa. Mang ý nghĩa sâu sắc nhằm lý giải hiện tượng lũ lụt hằng năm ở đồng bằng Bắc Bộ, Truyện Sơn Tinh Thủy Tinh đã để lại cho em những bài học, kiến thức mới mẻ.

Câu chuyện kể về hai vị thần Sơn Tinh và Thủy Tinh tranh tài cưới Mị Nương công chúa. Cả hai đầu có những tài năng phi thường, đều là những người tài giỏi. Thế nhưng, với những điều kiện mà Đức Vua đưa ra thì dĩ nhiên, Sơn Tinh sẽ là người chiến thắng.

Trong truyện, Sơn Tinh được coi là hiện thân của người Việt Nam ta thời xưa dày công đắp đê để chống lại lũ lụt hằng năm. Sơn Tinh mang một sức mạnh phi thường là thể hiện cho ước mơ lớn lao của nhân dân ta muốn chiến thắng những thiên tai. Bởi thế, ta hoàn toàn có thể nhận ra, người đọc cũng như tác giả dành nhiều tình cảm hơn cho Sơn Tinh. Đức vua cũng không ngoại lệ. Bằng chứng là trong ngày cưới, nhà vua đã yêu cầu sính lễ là những sản vật của đất liền:Voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao, trăm ván cơm nếp, trăm tệp bánh chưng. Phần thắng đương nhiên thuộc về Sơn Tinh.

Về phần Thủy Tinh, chàng cũng mang những năng lực phi thường, hô mây gọi gió, nhưng lại có thể tạo ra những thiên tai bão lũ. Đây chính là hiện thân của những nguy cơ tiềm ẩn đe dọa tới đời sống của người dân thời xưa. Sơn Tinh và Thủy Tinh là những hình tượng huyền thoại, được hình thành, nhào nặn trong trí tưởng tượng của người Việt cổ, trong đó những yếu tố tự nhiên và xã hội, hiện thực và lí tưởng đã kết hợp, hòa lẫn với nhau, rất khó tách bạch.

Sơn Tinh là sự khái quát hóa, hình tượng hóa và thần thánh hóa không chỉ riêng lực lượng con người (tinh thần, ý chí, thành quả chống lũ lụt của nhân dân) mà còn có cả lực lượng tự nhiên (rừng, núi). Sự xung đột giữa Sơn Tinh và Thủy Tinh không chỉ phản ánh mâu thuẫn giữa con người và hiện tượng bão lụt trong thiên nhiên mà còn phản ánh cả sự xung đột giữa con người với con người, giữa các bộ tộc miền biển và miền núi trong thời kì Văn Lang của các vua Hùng.

Cơn giận dữ của Thủy Tinh hàng năm được phản ánh vô cùng độc đáo, hấp dẫn, lý giải hiện tượng lũ lụt hằng năm của thiên nhiên và hiện tượng ghen tuông dai dẳng của con người. Ở cuối câu truyện, chi tiết Thủy Tinh dâng nước lên bao nhiêu thì Sơn Tinh lại nâng núi Tản Viên cao lên bấy nhiêu đã thể hiện được ước mơ nhưng đồng thời cũng có tính hiện thực ở trong đó. Câu chuyện như một bài học nhắc nhở con cháu sau này phải luôn chiến đấu, đối mặt với thiên tai khốc liệt.

Câu chuyện Sơn Tinh Thủy Tinh vẫn còn mang một giá trị to lớn đối với các thế hệ ngày nay.

Mẫu 5

“Sơn Tinh Thủy Tinh” là một truyền thuyết rất hay và độc đáo của nền văn học dân gian Việt Nam. Tác phẩm được xây dựng bằng trí tưởng tượng của con người, trong đó truyện mang đậm những yếu tố thần thánh nhằm giải thích hiện tượng lũ lụt hàng năm ở vùng đồng bằng Bắc Bộ. Đồng thời qua đó, tác phẩm cũng thể hiện mơ ước của nhân dân trong việc chống lại thiên tai, đem đến một cuộc sống thanh bình no đủ hơn.

Truyện kể về hai chàng Sơn Tinh và Thủy Tinh tài giỏi cùng đến xin vua Hùng được kết hôn cùng công chúa Mị Nương xinh đẹp. Vua Hùng rất khó xử bèn ra điều kiện thách cưới. Cuối cùng Sơn Tinh đã đem được lễ vật đến trước nên cưới được Mị Nương. Thủy Tinh vì thua cuộc nên mới tức giận hô mưa gọi gió hòng tiêu diệt Sơn Tinh, cướp lại Mị Nương. Thế nhưng Sơn Tinh cũng quyết tâm chống trả lại. Cuối cùng, Thủy Tinh đành phải rút lui nhưng hàng năm vẫn nhớ mối thù xưa cũ nên dâng nước làm lũ lụt khắp nơi.

Với câu chuyện này, tác giả dân gian muốn giải thích về hiện tượng lũ lụt ở đồng bằng Bắc Bộ hàng năm. Và từ xa xưa, người Việt chúng ta cũng đã biết cách đắp đê chống lũ. Bởi vậy, dù hàng năm có lũ lụt nhưng rồi nước vẫn phải rút. Đất đai sau đó lại trở nên màu mỡ và tươi tốt hơn. Người xưa chính là dựa trên những thực tế mà tưởng tượng ra câu chuyện về Sơn Tinh, Thủy Tinh để lý giải cho hiện tượng tự nhiên này.

Có thể thấy rằng, vị thần Sơn Tinh trong truyện chính là hiện thân của người Việt xưa đã biết cách đắp đê chống lũ. Đây là nhân vật được tác giả dân gian xây dựng bằng trí tượng cho nên Sơn Tinh với những tài năng rất phi thường đã chiến thắng Thủy Tinh, qua đó thể hiện ước mơ chiến thắng thiên tai của nhân dân. Chính vì thế mà tác giả dân gian đã yêu mến, để cho vua Hùng ra yêu cầu thách cưới đa phần là những sản vật của đất liền như: “voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao, một trăm ván cơm nếp, một trăm tệp bánh trưng….”. Và cuối cùng, Sơn Tinh cũng đã chiến thắng Thủy Tinh trong cuộc thách cưới và cuộc chiến đấu chống lại lũ lụt. Điều đó cùng thể hiện sự chính nghĩa, mơ ước ước của nhân dân trong việc chống lại thiên tai, vượt lên hoàn cảnh để chiến thắng.

Nhân vật Thủy Tinh cũng có những năng lực phi thường nhưng vì tính tình nóng nảy cho nên mới luôn tìm cách trả thù, gây ra lũ lụt hàng năm, làm thiệt hại đến nhân dân. Vì vậy, đối với nhân dân, Thủy Tinh trở thành hiện thân của kẻ hung ác, chỉ nghĩ đền quyền lợi cá nhân mà không biết đặt lợi ích của nhân dân lên trên hết. Những kẻ hung ác và tàn bạo như vậy thì luôn luôn thất bại trước chính nghĩa.

Câu chuyện về Sơn Tinh Thủy Tinh vẫn còn tồn tại cho đến tận hôm nay như thể nhắc nhở cho thế hệ sau về tinh thần chính nghĩa của nhân dân ta đã chiến thắng trong cuộc chiến lại thiên tai, bão lũ. Ngày nay, bão lũ vẫn thường xảy ra nhưng nhờ có hệ thống để điều, các công trình thủy lợi kiên cố mà cuộc sống của con người càng ổn định và đảm bảo hơn. Có thể nói câu chuyện Sơn Tinh – Thủy Tinh vẫn còn giá trị cho đến ngày nay vì ước mơ, khát vọng chiến thắng thiên tai của người xưa đã được thế hệ sau tiếp nối, gìn giữ và thực hiện.

 Mẫu 6

Em đã từng đọc rất nhiều truyện thần thoại, cổ tích, truyền thuyết; mỗi câu chuyện đều để lại trong em những cảm xúc riêng. Tuy nhiên em vẫn ấn tượng với truyện Sơn Tinh Thủy Tinh. Đây là câu chuyện do nhân dân dựng nên, mượn hình ảnh của các vị thần để nói lên sự tàn khốc của thiên tai, bão lũ hằng năm. Đồng thời qua đó ngợi ca công lao dựng nước, giữ nước của các vua Hùng.

Truyện Sơn Tinh Thủy Tinh xoay quanh cuộc đấu tài, đấu trí của hai vị thần Sơn Tinh – chúa tể vùng non cao và thần Thủy Tinh – chúa tể của vùng nước thẳm để có được công chúa Mỵ Nương. Sơn Tinh khi vẫy tay về phía đông thì phía đông nổi lên cồn bãi, vẫy tay về phía tây, phía tây lập tức hiện ra núi đồi. Thủy Tinh gọi gió, gió tới; hô mưa, mưa về. Cả hai vị thần này đều rất tài giỏi. CHính điều này đã khiến vua Hùng không biết chọn ai nên bèn đưa ra điều kiện: Ngày mai, nếu ai mang lễ vật đến sớm thì sẽ cưới được Mỵ Nương. Ngay trong chuyện lễ vật nhà vua đã có ý nghiêng về thần Sơn Tinh: voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao, trăm ván cơm nếp, trăm nệp bánh chưng. Tất cả những thứ đó đều là thức quà của đồng ruộng và núi rừng hùng vĩ.

Sơn Tinh là người đến trước và rước công chúa Mỵ Nương về, nhưng Thủy Tinh vì không cưới được công chúa đã nổi giận đùng đùng và lập kế hoạch cướp công chúa về. Thủy Tinh hô mưa gọi gió gây nên bão lũ, nước sông dâng tràn. CUộc chiến giữa Sơn Tinh và Thủy Tinh không cân sức. Nhưng Sơn Tinh mưu dũng và tài trí đã chiến thắng được thủy tinh.

Cuộc chiến giữa hai vị thần đã gây ra bao nhiêu lầm than và nước mắt cho nhân dân. Lũ lụt triền miên, sạt lở đất là những thiên tai mà hằng năm nhân dân ta vẫn phải hứng chịu. Nhân dân ta đã có một trí tưởng tượng phi thường mới có thể nghĩ ra một câu chuyện hư cấu nhưng lại mang ý nghĩa to lớn đối với cuộc sống như vậy. Sự nổi giận của các vị thần sẽ gây nên hệ quả xấu đối với đời sống của nhân dân.

Chi tiết Thủy Tinh vẫn ôm hận hằng năm hô mưa gọi gió gây ra cảnh lũ lụt triền miên cũng là một cách lý giải cực kỳ sâu sắc cho việc thiên tai hằng năm vẫn đổ ập lên đời sống nhân dân. Thực tế năm nào cũng vậy, nhân dân ta luôn phải hứng chịu những trận bão lũ cuồng phong do Sơn Tinh và Thủy Tinh gây ra. Nhưng năm nào Sơn Tinh cũng chiến thắng Thủy Tinh. Chi tiết này ẩn dụ cho việc con người không bao giờ chịu khuất phục trước thiên nhiên, bằng mọi giá phải chống chọi và đẩy lùi nó. Một tinh thần quả cảm, anh hùng đáng khâm phục.

Cuộc chiến Sơn Tinh và Thủy Tinh đều không có thực, đều là do nhân dân tưởng tưởng nên nhưng vua Hùng và Mỵ Nương là những nhân vật lịch sử có thật. Điều này cho thấy rằng từ ngàn đời nay nhân dân đã hứng chịu thiên tai lũ lụt triền miên, đồng nghĩa với tinh thần kiên cường, không bất khuất của nhân dân.

Qua câu chuyện Sơn Tinh, Thủy Tinh; chúng ta thấy được rằng hằng năm nhân dân ta phải hứng chịu rất nhiều thiên tai, bão lũ nhưng tất cả đều không nao núng, vẫn kiên cường chống chọi và chiến thắng tất cả.

Mẫu 7

Truyền thuyết Việt Nam là bức tranh đẹp đẽ về đời sống, về trí tưởng tượng tài hoa của ông cha xưa. Trong kho tàng ấy có biết bao câu chuyện làm say đắm các thế hệ người nghe, người đọc và một trong những tác phẩm đó là truyền thuyết Sơn Tinh Thủy Tinh. Tác phẩm là một thần thoại cổ đã được lịch sử hóa khi gắn với thời đại Hùng Vương và trở thành truyền thuyết trong thời đại các vua Hùng.

Tác phẩm tập trung thể hiện hai nội dung chính: cuộc giao tranh của Sơn Tinh và Thủy Tinh để giải thích hiện tượng mưa bão hàng năm và sự việc Sơn Tinh chiến thắng Thủy Tinh phản ánh khát vọng chế ngự thiên nhiên của nhân dân ta. Câu chuyện được bắt đầu bằng việc vua Hùng kén rể cho người con gái yêu của mình là nàng Mị Nương. Trong vô vàn những người kiệt xuất, ưu tú thì Sơn Tinh và Thủy Tinh là hai chàng trai xuất sắc nhất. Sơn Tinh là thần núi Tản Viên, có nhiều phép lạ “vẫy tay về phía đông, phía đông nổi cồn bãi, vẫy tay về phía tây, phía tây mọc lên từng dãy núi đồi”, Thủy Tinh cũng không hề kém cạnh, chàng là chúa vùng nước thẳm cũng có những tài năng kì lạ “gọi gió, gió đến; hô mưa, mưa về”.

Quả thực tài năng hai người ngang tài ngang sức nhau, trước tình thế đó vua Hùng không biết lựa chọn ai, bèn đưa ra sính lễ: “Một trăm ván cơm nếp, một trăm nệp bánh chưng và voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao, mỗi thứ một đôi”, ai mang đến sớm vua Hùng sẽ gả con gái yêu của mình cho người đó. Nhìn vào số đồ sính lễ này ta có thể dễ dàng nhận ra ưu thế đang nghiêng về chàng Sơn Tinh, và bất lợi đang nghiêng về phía chàng Thủy Tinh, đồ sính lễ đều thuộc địa phận cai quản của Sơn Tinh. Và kết quả Sơn Tinh mang sính lễ đến trước và rước được Mị Nương về.

Thủy Tinh vô cùng giận dữ đem quân đuổi theo đánh Sơn Tinh, cuộc giao tranh diễn ra vô cùng quyết liệt. Thần nước “hô mưa gọi gió, làm thành dông bão, rung chuyển cả đất trời” nước mỗi ngày một dâng cao nhằm đánh bại Sơn Tinh. Nhưng trước sự hung hãn của Thủy Tinh, Thần núi vẫn không hề nao núng, Sơn Tinh “bốc từng quả đồi, dời từng dãy núi, dựng thành lũy đất, ngăn chặn dòng nước lũ”. Cuối cùng Thủy Tinh yếu thế đành phải rút lui. Cuộc giao tranh giữa hai vị thần không đơn thuần là cuộc giao tranh để đòi lại người đẹp (Mị Nương) mà nó còn phản ánh sức mạnh của dân tộc ta trong công cuộc chinh phục thiên nhiên, bão lụt. Thủy Tinh đại diện cho sức mạnh của thiên nhiên hung bạo, Sơn Tinh đại diện cho sức mạnh quật cường của dân tộc Việt. Trước những thiên tai bão lũ dân tộc ta không chịu lùi bước, luôn kiên cường chống đỡ. Đồng thời bằng trí tưởng tượng của mình, các tác giả dân gian còn dùng cuộc đấu tranh giữa hai vị thần về hiện tượng mưa bão, lũ lụt hàng năm.

Tạo nên sức hấp dẫn cho tác phẩm ta không thể không kể đến sự góp công của các yếu tố nghệ thuật. Trước hết là việc xây dựng cốt truyện với tình huống truyện gay cấn, sự kiện sinh động. Không chỉ vậy, xây dựng các nhân vật với tài năng phi thường, các yếu tố kì ảo làm cho câu chuyện thêm phần hấp dẫn. Ngoài ra còn phải kể đến sự kết hợp hài hòa giữa các yêu tố tưởng tượng kì ảo với yếu tố hiện thực lịch sử. Tất cả các yếu tố đó đã tạo nên sự thành công cho tác phẩm này.

Sơn Tinh Thủy Tinh là một truyền thuyết lí thú trong kho tàng truyện dân gian Việt Nam. Truyện vừa thể hiện cách giải thích của nhân dân ta về hiện tượng mưa bão hàng năm nhưng đồng thời cũng phản ánh sức mạnh, mơ ước chế ngự thiên tai, bảo vệ và xây dựng cuộc sống của nhân dân ta.

Mẫu 8

Tuổi thơ mỗi người chắc hẳn đều gắn với những câu chuyện cổ tích, truyền thuyết hay thần thoại, đó là một phần không thể thiếu trong đời sống tinh thần người Việt. Những câu chuyện này đều do nhân dân sáng tạo ra nhằm giải thích những hiện tượng thiên nhiên bí ẩn, nó cũng thể hiện ước mơ hoài bão của người dân về công lý, về sức mạnh chế ngự thiên nhiên của con người. Sơn Tinh Thuỷ Tinh là một truyền thuyết rất đặc sắc kể về cuộc chiến giữa hai vị thần, nó đã tái hiện được thiên nhiên khắc nghiệt bão lũ xảy ra hằng năm trên đất nước ta.

Cách đây hàng ngàn năm khi người Việt từ núi rừng chuyển xuống đồng bằng sinh sống thì hằng năm đều xảy ra thiên tai lũ lụt. Đầu tháng bảy mùa mưa bão đến, nước từ các sông hồ dâng cao làm ngập hết những làng mạc, nhà cửa. Thế nhưng chưa bao giờ làm ngập được núi đồi sừng sững kia, khi mùa lũ qua đi sông hồ lại trở lại hiền hoà, êm dịu. Chỉ là hiện tượng thiên nhiên tàn khốc nhưng với trí tưởng tượng bay bổng của mình, nhân dân cho rằng đó là cuộc chiến giữa hai vị thần để trả mối thù năm xưa.

Tương truyền vua Hùng thứ mười tám có một cô con gái rất xinh đẹp đã đến tuổi gả chồng, vua ban lệnh xuống tìm nhân tài để chọn làm phò mã. Sau có hai chàng trai đến xin hỏi cưới Mỵ Nương. Cả hai đều khôi ngô tuấn tú và có phép thần thông. Một là Sơn Tinh – Thần Núi Tản Viên (Thánh Tản), hai là Thủy Tinh (Thần Nước). Sơn Tinh chỉ tay đến đâu núi rừng mọc xanh tươi lên đến đấy, muông thú từng đàn. Thủy Tinh có tài hô mưa gọi gió, chỉ cần vẫy tay thì nước dâng lên cao vạn trượng, ba ba, thuồng luồng nổi khắp mặt nước. Ai cũng tài giỏi xuất chúng khiến nhà vua không biết chọn ai đành bảo ngày mai ai đến trước với đủ sính lễ: Một trăm ván cơm nếp, một trăm nệp bánh chưng, voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao, mỗi thứ một đôi; thì sẽ cưới được công chúa. Những thứ lễ vật vua đưa ra thử thách đều là những tinh hoa của núi rừng, trong lần so tài này nhà vua vốn có ý thiên vị nghiêng về Sơn Tinh bởi nhà vua có lẽ đã sớm nhận ra tấm chân tình và khí chất anh hùng của Sơn Tinh.

Mờ sáng hôm sau Thuỷ Tinh đã đến trước với đầy đủ sính lễ và rước Mỵ Nương về núi. Vì bận tìm kiếm lễ vật Thuỷ Tinh đến sau không cưới được công chúa bèn cho quân tức tốc đuổi theo sau để giành lại Mỵ Nương. Hai vị thần đánh nhau một trận kinh thiên động địa, khắp trời đất là một màu tối đen. Thuỷ Tinh cho nước dâng cao nhằm nhấn chìm Sơn Tinh, nước cứ cao lên bao nhiêu Sơn Tinh lại dời núi cao lên bấy nhiêu. Sau cùng Thuỷ Tinh đánh không lại đành chịu thua và rút quân về. Thế nhưng vẫn ôm mối thù xưa hằng năm cứ vào tháng bảy âm lịch Thuỷ Tinh lại cho quân đến đánh Sơn Tinh. Trận chiến của Sơn Tinh, Thuỷ Tinh đã gây ra cho nhân dân biết bao lầm than, tất cả nhà cửa, hoa màu, trâu bò lợn gà,.. đều bị nhấn chìm, bị cuốn trôi theo dòng nước. Hằng năm nhân dân đều phải oằn mình chống chọi với cơn giận lôi đình của Thuỷ Tinh.

Đây là một câu chuyện rất hay và ý nghĩa. Qua cuộc chiến giữa hai vị thần, tác giả dân gian đã thể hiện rõ ước mơ của nhân dân về công lý, lẽ phải, cái thiện sẽ luôn luôn chiến thắng cái ác. Thuỷ Tinh dù có hàng trăm phép thần thông cũng không thể chiến thắng Sơn Tinh, bởi vì từ cổ chí kim thì người tốt luôn được đất trời che chở bảo vệ. Đồng thời câu chuyện cũng thể hiện tinh thần, ý chí chiến đấu của nhân dân ta trước những hoàn cảnh khó khăn, dù thiên thiên có hung bạo tới đâu cũng sẽ phải khuất phục trước sức mạnh kiên cường của con người. Với sự sáng tạo, tưởng tượng phong phú của nhân dân đã sáng tạo nên câu chuyện có tính chất hư cấu, kỳ ảo nhưng cũng không kém phần độc đáo thú vị. Thuở xưa khi khoa học còn chưa thể lý giải những hiện tượng tự nhiên, con người đã mượn câu chuyện để giải thích cho nó và làm cho cuộc sống thêm thú vị hơn.

Sơn Tinh Thuỷ Tinh là câu chuyện hư cấu nhưng lại khéo léo lồng ghép những chi tiết lịch sử có thật như vua Hùng, Mỵ Nương để làm tăng sự hấp dẫn, lôi cuốn người đọc. Câu chuyện “vừa hư vừa thực” này thể hiện một ẩn ý rất sâu sắc: Con người sẽ không bao giờ lùi bước trước thiên nhiên khắc nghiệt, sẽ luôn làm chủ số phận mình trước mọi hoàn cảnh khó khăn, thử thách. Cho dù Thuỷ Tinh có dâng nước cao lên bao nhiêu nữa thì Sơn Tinh cũng lấp đầy đá bấy nhiêu.

Truyền thuyết Sơn Tinh Thuỷ Tinh đã thể hiện được nỗi khó khăn vất vả của nhân dân ta, hằng năm mưa bão, lũ lụt kéo đến nhưng ta vẫn chẳng hề chùn bước sợ hãi mà kiên cường chiến đấu, khắc phục thiên tai. Cho đến nay câu chuyện vẫn giữ nguyên được giá trị của nó như nhắc nhở con cháu đời sau phải biết nối tiếp, gìn giữ những truyền thống về tinh thần chính nghĩa và lòng quả cảm trước những gian khó cuộc đời.

Mẫu 9

Truyện cổ tích, truyện truyền thuyết, thần thoại là một phần không thể thiếu trong kho tàng truyện cổ dân gian Việt Nam. Những câu chuyện này được sáng tác nhằm giải thích những sự vật sự việc xảy ra xung quanh con người chúng ta. Hoặc thể hiện mong muốn ước mơ nguyện vọng của người xưa trong cuộc chiến đấu giữa cái thiện và cái ác, giữa con người và lực lượng siêu nhiên.

Truyện truyền thuyết Sơn Tinh Thủy Tinh mượn hình ảnh những vị thần để nói lên sự khắc nghiệt tàn bạo của những thiên tai, lũ lụt, mưa bão xảy ra hàng năm trên đất nước ta, làm cho người dân của ta phải khốn đốn chống trả. Đồng thời qua truyện này ca ngợi tinh thần dựng nước và giữ nước của các vị vua hùng ở nước ta. Thể hiện ý chí của con người trong việc xây dựng và bảo vệ những thành quả mà mình có được.

Truyện truyền thuyết Sơn Tinh Thủy Tinh thể hiện cuộc đấu trí của hai người anh hùng Sơn Tinh được mệnh danh là chúa tể của vùng núi non, sơn cước, và Thủy Tinh được mệnh danh là chúa tể vùng nước biển vực sâu. Sơn Tinh vô cùng thần thông quảng đại khi anh vẫy tay về phía đông thì phía đó lập tức nổi lên những cồn bãi, khi anh vẫy tay về phía tây thì phía đó mọc lên những núi đồi xanh tươi. Còn Thủy Tinh thì có tài hô mưa gọi gió.

Vua Hùng chỉ có một người con gái xinh đẹp tên Mỵ Nương nhà vua cũng muốn chọn một người hiền tài làm rể của mình. Nhưng nay lại có tới hai người vô cùng tài giỏi nên nhà vua không biết làm như thế nào đành bảo: Hai anh về tìm voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao tới đây. Ai đến trước thì nhà vua gả con gái cho người đó. Dường như trong cuộc đấu trí này nhà vua có ý nghiêng về Sơn Tinh thì phải bởi những thứ vua Hùng thách cưới đều là món quà của núi rừng, nơi sinh ra và lớn lên của Sơn Tinh. Chính vì vậy, Sơn Tinh nhanh chóng tìm được lễ vật tới cưới công chúa Mỵ Nương về làm vợ.

Thủy Tinh tới muộn không cưới được vợ nên ôm hận, cứ hàng năm anh ta lại hô mưa gọi gió, dâng nước lên cao nhằm nhấn chìm giang sơn của Sơn Tinh. Nhưng Sơn Tinh cũng tài giỏi không kém nước dâng lên bao nhiêu thì núi cao lên bấy nhiêu, không bao giờ Thủy Tinh có thể nhấn chìm được Sơn Tinh. Cuộc chiến giữa hai vụ thần gây ra rất nhiều lầm than, tai ương cho nhân dân, là cho người dân hàng năm lại rơi vào cảnh màn trời chiếu đất khi nhà cửa bị nước lũ cuốn trôi, hoa màu, trâu bò, lợn gà đều bị cuốn sạch. Những khó khăn đó đều khiến người dân phải hứng chịu.

Người xưa muốn giải thích cho những hiện tượng thiên nhiên, cho nạn lũ lụt xảy ra hàng năm ở nước ta nên mới nghĩ ra câu chuyện mang tính chất hư cấu, kỳ ảo với những yếu tố hoang tưởng này để làm cho cuộc sống trở nên thi vị hơn. Đồng thời cũng nhằm khẳng định tinh thần chiến đấu của người dân trước thiên tai, lũ lụt, dù thiên nhiên có mạnh mẽ quyền lực tới đâu, thì cũng phải thua trước sức mạnh ý chí của con người mà thôi. Chính vì vậy dù Thủy Tinh có dâng nước cao bao nhiêu thì Sơn Tinh cũng cho đá đất lấp đầy bấy nhiêu. Nói lên tinh thần chiến đấu quả cảm quật cường của những người nông dân lao động.

Thông qua những tình tiết trong câu chuyện này nhằm thể hiện một ẩn ý vô cùng sâu sắc rằng con người chúng ta không bao giờ khuất phục trước thiên nhiên. Dù khó khăn thử thách tới đâu thì con người cũng vẫn luôn chiến thắng thiên tai, làm chủ vận mệnh của mình không bao giờ lùi bước. Cuộc chiến đấu giữa hai vị thần Sơn Tinh và Thủy Tinh là cuộc chiến đấu không có thật nhưng lại nhằm lý giải cho những hiện tượng thiên nhiên xảy ra hàng năm. Người xưa đã vô cùng tinh tế khi lựa chọn giữa những thứ đã có thật như vua Hùng, công chúa Mỵ Nương, với những điều không có thật như thần núi Sơn Tinh hay thần nước Thủy Tinh để làm cho câu chuyện trở nên hấp dẫn, hư hư thực thực kích thích người đọc.

Qua truyện truyền thuyết Sơn Tinh Thủy Tinh ta thấy rằng hàng năm nhân dân nước ta phải gánh chịu rất nhiều tai ương, lũ lụt, bão tố nhưng người dân chưa bao giờ nao núng sợ hãi trước những thiên tai này mà họ vẫn kiên cường chống chọi tới cùng, thể hiện tinh thần chiến đấu dũng cảm của những người nông dân.

Mẫu 10

Trong những truyện thần thoại đã đọc, em rất thích truyện Sơn Tinh, Thủy Tinh bởi sự cuốn hút, hấp dẫn lạ thường của nó. Truyện mượn thần thánh để giải thích hiện tượng lũ lụt hằng năm ở đồng bằng Bắc Bộ và gửi gắm vào đó ước mơ chiến thắng thiên nhiên, bảo vệ cuộc sống của người xưa, đồng thời suy tôn, ca ngợi công lao dựng nước của các vua Hùng.

Cách đây mấy ngàn năm, khi tổ tiên người Việt từ vùng rừng núi chuyển xuống sinh sống ở đồng bằng Bắc Bộ thì năm nào cũng gặp phải một trong những thiên tai đáng sợ là nạn lụt. Nạn lụt do nước lũ từ các con sông, chủ yếu là sông Hồng, sông Đà gây ra. Để bảo vệ thành quả lao động của mình, nhân dân ta đã dũng cảm, mưu trí, bền bỉ tìm cách chống lụt. Việc đắp đê ngăn nước chính là biểu hiện của tinh thần đó.

Từ chuyện chống lũ lụt để bảo vệ mùa màng và đời sống, người xưa đã tưởng tượng thành một câu chuyện với nhiều tình tiết li kì: Hai vị thần cùng muốn cưới một công chúa xinh đẹp làm vợ; rồi người được vợ, kẻ không được vợ, dẫn đến cuộc giao tranh dữ dội. Cuối cùng, bên thắng, bên thua. Kẻ thua cuộc ôm lòng thù hận khôn nguôi, hằng năm vẫn gây sự đánh trả. Thực tế là hằng năm ở đồng bằng Bắc Bộ, cứ đến mùa mưa bão là nước dâng to, nhưng chưa bao giờ làm ngập nổi núi đồi. Cuối mùa lũ, nước rút đi, sông suối trở lại hiền hòa. Người xưa cho rằng đó là Thần Nước đánh nhau với Thần Núi để giành lại Mị Nương… Quả là trí tưởng tượng của họ vô cùng phong phú và bay bổng.

Truyện có hai nhân vật: Sơn Tinh – chúa tể của vùng non cao và Thủy Tinh – chúa tể của vùng nước thẳm. Cả hai đều có tài năng phi thường. Sơn Tinh vẫy tay về phía đông, phía đông nổi lên cồn bãi, vẫy tay về phía tây, phía tây lập tức hiện ra những dãy núi đồi. Thủy Tinh gọi gió, gió tới; hô mưa, mưa về. Cả hai vị thần đều tài giỏi. Điều ấy khiến nhà vua băn khoăn không biêt chọn ai, đành ra điều kiện: Ngày mai, nếu ai mang lễ vật đến sớm thì được cưới Mị Nương. Ngay trong truyện thách cưới, có lẽ ý nhà vua đã nghiêng về phía Sơn Tinh. Voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chính hồng mao. Rồi trăm ván cơm nếp, trăm nệp bánh chưng… Tất cả đều là sản vật của đồng ruộng, núi rừng. Vì vậy, kẻ thắng cuộc tất nhiên phải là Sơn Tinh. Sơn Tinh mang lễ vật đến trước, cưới được Mị Nương và đưa nàng về núi Tản Viên. Sơn Tinh thật xứng đôi với nàng công chúa xinh đẹp.

Không cưới được Mị Nương, Thủy Tinh đùng đùng nổi giận. Chàng phô bày hết sức mạnh tàn bạo của mình trong cuộc giao tranh với Sơn Tinh. Gió bão rung chuyển cả đất trời. Mưa làm nước sông hồ dâng lên cuồn cuộn, ngập tràn đồng ruộng, mùa màng, cuốn phăng cây cối, nhà cửa, súc vật. Nước dâng lên sườn đồi, sườn núi làm trốc cây, lở đá… Thủy Tinh muốn nhấn chìm đỉnh núi để tiêu diệt Sơn Tinh, cướp lại Mị Nương.

Nhưng Sơn Tinh cũng trổ hết tài bốc đồi, dời núi, dựng thành ngăn nước. Nước dâng cao bao nhiêu, núi đồi cao lên bấy nhiêu. Suốt mấy tháng trời, cuộc tấn công của Thủy Tinh thật là dữ dội: giông bão, sấm chớp, mưa như trút nước, đồng ruộng hóa thành sông, sông thành biển cả. Ấy vậy nhưng Sơn Tinh không hề nao núng, vẫn bình tĩnh, sáng suốt chống trả một cách quyết liệt và thắng lợi. Cuối cùng kiệt sức, Thủy Tinh phải rút lui. Cả hai vị thần đều có tài cao, phép lạ. Nhưng Thủy Tinh dù phép thuật cao cường vẫn phải khuất phục trước Sơn Tinh dũng mãnh và mưu trí. Những chi tiết nghệ thuật kì ảo, hoang đường về Sơn Tinh, Thủy Tinh và khí thế hào hùng của cuộc giao tranh giữa hai vị thần thể hiện trí tưởng tượng phong phú của người xưa.Cuộc giao tranh không chỉ xảy ra một lần mà nhiều lần, năm nào cũng vậy. Nhưng kết cục thì không thay đổi: thần Núi chiến thắng thần Nước. Mị Nương vẫn sống hạnh phúc bên Sơn Tinh trên đỉnh Tản Viên cao vòi vọi. Thủy Tinh không sao giành lại được nàng. Sơn Tinh, Thủy Tinh là những nhân vật hoàn toàn tưởng tượng nhưng lại có ý nghĩa rất thực vì đã khái quát được hiện tượng lũ lụt, đồng thời phản ánh những kì công trong sự nghiệp dựng nước của nhân dân ta dưới triều đại các vua Hùng.Tất cả những chi tiết kì ảo trên đều nhằm để giải thích hiện tượng lũ lụt và việc chống lũ lụt hằng năm của nhân dân ta ở đồng bằng Bắc Bộ. Có một chi tiết quan trọng là Sơn Tinh dựng thành ngăn nước. Đó là công việc đắp thành bằng đất của con người – khởi đầu cho những con đê lớn sau này chạy suốt hai bờ những con sông lớn để ngăn lũ. Người xưa để cho Sơn Tinh thắng Thủy Tinh là gửi gắm vào đó ước mơ có được sức mạnh thần kì để chế ngự được nạn lũ lụt – một tai họa lớn của con người.Truyện Sơn Tinh, Thủy Tinh có giá trị nội dung và nghệ thuật rất đặc sắc. Thủy Tinh là hiện tượng mưa gió, bão lụt ghê gớm hằng năm đã được hình tượng hóa thành kẻ thù hung dữ, truyền kiếp của Sơn Tinh. Sơn Tinh là hiện thân của người dân Việt cổ cần cù đắp đê phòng chống lũ lụ, là ước mơ chiến thắng thiên tai của người xưa. Tầm vóc vũ trụ, tài năng và khí phách của Sơn Tinh là biểu tượng sinh động cho chiến công của người Việt cổ trong cuộc đấu tranh chống bão lụt ở vùng lưu vực sông Đà và sông Hồng. Đây cũng là kì tích dựng nước của thời đại các vua Hùng và kì tích ấy cho đến nay vẫn được tiếp tục phát huy mạnh mẽ.Ước mơ xưa giờ đây đã thành hiện thực. Những công trình thủy lợi lớn như hệ thống đê điều, mương máng, những hồ nước, đập nước điều hòa dòng chảy của sông Đà, sông Hồng đã thực sự chế ngự được sức tàn phá ghê gớm của nước lũ. Hạt lúa, củ khoai do bà con nông dân đổ mồ hôi làm ra đã được bảo vệ. Ngày nay, con cháu của Sơn Tinh đã và đang thực hiện ước mơ của tổ tiên ngày trước. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, nạn phá rừng, cháy rừng diễn ra rất nghiêm trọng trên khắp ba miền Bắc, Trung, Nam. Điều đó ảnh hưởng rất lớn tới sinh thái, môi trường của đất nước ta. Hiện tượng thiên tai lũ lụt xảy ra gây hậu quả nghiêm trọng, phần lớn nguyên nhân là do cháy rừng, phá rừng.Mất rừng, Sơn Tinh sẽ mất hết sức lực và phép lạ, làm sao chống chọi được với Thủy Tinh?! Nhà nước ta hiện nay đang có chủ trương vận động nhân dân tích cực xây dựng, củng cố đê điều ; nghiêm cấm nạn phá rừng, đi đôi với việc trồng thêm hàng triệu hecta rừng phủ xanh đất trồng, đồi trọc. Đây là chủ trương đúng đắn và hợp lí, được mọi người đồng tình. Chẳng lẽ Sơn Tinh lại thua Thủy Tinh ? Chuyện xảy ra từ ngàn xưa nhưng vẫn là bài học thiết thực trong cuộc sống hôm nay, cháu con cần ghi nhớ.

 

Lời giải

Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.

Nâng cấp VIP