Câu hỏi:
22/03/2025 464Chọn và tìm hiểu về một tác phẩm đã chuyển thể từ tác phẩm văn học có trong sách "Ngữ văn" cấp Trung học phổ thông.
Các em thực hành theo các bước sau:
a) Chuẩn bị
- Đọc kĩ phần II. Cách tìm hiểu, giới thiệu, thuyết trình về một tác phẩm nghệ thuật được chuyển thể, đặc biệt là các yêu cầu của việc tìm hiểu một tác phẩm chuyển thể để vận dụng vào hoạt động thực hành trong chuyên đề này.
- Xác định tác phẩm đã chuyển thể từ tác phẩm văn học.
- Đọc lại tác phẩm văn học được chuyển thể.
b) Tìm hiểu tác phẩm chuyển thể
Thực hiện việc tìm hiểu tác phẩm chuyển thể theo các yêu cầu nêu ở phần II, mục 1 (trang 47).
Quảng cáo
Trả lời:
Trong chương trình Ngữ Văn cấp Trung học phổ thông, đã có rất nhiều tác phẩm đã được chuyển thể thành tác phẩm nghệ thuật. Một trong những tác phẩm văn học nổi tiếng được chuyển thể thành phim là “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài. Tô Hoài tên khai sinh là Nguyễn Sen, sinh ra tại làng Nghĩa Đô, Từ Liêm thuộc phủ Hoài Đức (nay là phường Nghĩa Đô, quận Cầu Giấy, Hà Nội). Ông là một trong những cây bút tiêu biểu cho dòng văn học hiện đại Việt Nam vào thế kỉ XX. Tô Hoài đã để lại cho đời sau một khối lượng tác phẩm khổng lồ trải dài khắp các thể loại từ truyện ngắn, tiểu thuyết đến bút kí. Năm 1996, ông được tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.
Tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” là một truyện ngắn sáng tác năm 1952, in trong tập “Truyện Tây Bắc”, được tặng giải Nhất giải thưởng Hội Văn nghệ Việt Nam 1954 – 1955. Truyện kể về cuộc đời của vợ chồng A Phủ. Mị là cô gái trẻ đẹp, nhà nghèo, sống ở Hồng Ngày. Cô bị bắt cóc về làm vợ A Sử, làm con dâu gạt nợ cho nhà Thống Lí Pá Tra. Cô phải lao động quần quật, sống không khác gì con trâu, con ngựa.
Tác phẩm chuyển thể “Vợ chồng A Phủ” thuộc ngành nghệ thuật điện ảnh, được chuyển thể từ tác phẩm cùng tên của nhà văn Tô Hoài. Bộ phim “Vợ chồng A Phủ” được sản xuất vào năm 1961 và là một trong những bộ phim tiên phong cho trào lưu làm phim chuyển thể từ tác phẩm văn học Việt Nam. Bộ phim được chính tác giả của nguyên tác, nhà văn Tô Hoài, viết kịch bản, nên nội dung rất sát với câu chuyện gốc. Dù chỉ được thực hiện dưới dạng phim trắng đen, nhưng dự án này đến hiện nay vẫn được chiếu đi chiếu lại trong các giờ học tại các trường phổ thông.
Tác phẩm chuyển thể được chuyển thể theo hình thức trung thành với nguyên tác văn học. Cả nội dung và hình thức của tác phẩm chuyển thể đều giữa nguyên tinh thần của tác phẩm văn học. Về nội dung, cả hai tác phẩm đều tái hiện cuộc sống của người dân tộc vùng thiểu số ở miền núi phía Bắc, qua đó phản ánh những khó khăn, gian khổ nhưng cũng không kém phần hạnh phúc, yêu đời của họ. Cụ thể cả hai đều kẻ về câu chuyện tình yêu giữa A Phủ và Mị, một cô gái xinh đẹp nhưng bị bắt cóc về làm vợ A Sử để trả nợ. Cuộc sống đầy rẫy những khó khăn gian khổ nhưng luôn đầy tình yêu và hy vọng của họ được tái hiện một cách chân thực và sinh động. Ngoài ra, ở tác phẩm chuyển thể còn có thêm một số yếu tố khác như hình ảnh, âm thanh, diễn xuất… giúp khán giả có thể cảm nhận sâu sắc hơn về cuộc sống của người dân tộc. Về hình thức, cả hai tác phẩm đều được viết dưới dạng kể chuyện, với ngôn ngữ dân dã, gần gũi. Trong tác phẩm văn học, Tô Hoài đã sử dụng ngôn ngữ phong phú, đa dạng với nhiều từ ngữ, thành ngữ, tục ngữ của người dân tộc, tạo nên sự đặc sắc riêng. Trong tác phẩm chuyển thể, đạo diễn Mai Lộc cũng đã tái hiện được điều này qua lời thoại của các nhân vật, giúp khán giả cảm nhận được sự gần gũi, thân thuộc. Ngoài ra, cả hai tác phẩm đều có cấu trúc hợp lí, logic, với sự phát triển của các nhân vật và mạch truyện được diễn biến một cách chặt chẽ, lôi cuốn. Cả hai đều tạo nên một bức tranh sinh động, đầy màu sắc về cuộc sống của con người dân tộc thiểu số ở miền núi phía Bắc.
Tác phẩm chuyển thể đã làm tăng thêm giá trị cho tác phẩm văn học bằng cách tái hiện sinh động cuộc sống của người dân tộc qua hình ảnh, âm nhạc, diễn xuất… Trong phim, diễn viên Trần Phương trong vai A Phủ, diễn viên Đức Hoàn trong vai Mị đã thể hiện chân thực những đau khổ của hai vợ chồng trước khi chạy trốn và sau đó là bảo vệ dân làng đi theo cách mạng. Nhắc tới tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”, nhà văn Tô Hoài từng chia sẻ “Tôi viết truyện ấy từ những năm đi thực tế làm báo Cứu quốc. Đó là một câu chuyện gần như có thật của một đôi vợ chồng người Mông ở Phù Yên nay là Bắc Sơn, tỉnh Sơn La.” Với cốt truyện hấp dẫn, cảm động, bộ phim tiếp tục lôi cuốn người xem bằng hình ảnh đẹp của miền Tây Bắc và phần âm nhạc xuất sắc của nhạc sĩ Nguyễn Văn Thương. Bài hát “Bài ca trên núi” qua giọng hát của nghệ sĩ Kiều Hưng cũng nhận được sự yêu thích của đông đảo người yêu nhạc. Tuy nhiên, tác phẩm chuyển thể cũng có một số hạn chế như việc khó tái hiện đầy đủ tinh thần của tác phẩm văn học trong một khung thời gian ngắn của phim. Ngoài ra một số chi tiết trong truyện ngắn cũng không được tái hiện đầy đủ trong phim.
Nhìn chung, tác phẩm chuyển thể Vợ chồng A Phủ là một công trình nghệ thuật xuất sắc, đã góp phần giới thiệu văn hóa, con người Việt Nam nói chung và người dân tộc thiểu số ở miền núi phía Bắc nói riêng đến với khán giả trong và ngoài nước. Tác phẩm đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng khán giả và góp phần làm giàu cho kho tàng điện ảnh Việt Nam.
Hot: 500+ Đề thi thử tốt nghiệp THPT các môn, ĐGNL các trường ĐH... file word có đáp án (2025). Tải ngay
CÂU HỎI HOT CÙNG CHỦ ĐỀ
Lời giải
Văn học hiện thực phê phán là một trong những tên gọi gây ra nhiều những tranh cãi cho đến ngày nay. Trong từ điển văn học do Trần Đình Sử làm chủ biên soạn, đã đưa ra 2 cách hiểu về thuật ngữ này.
Theo nghĩa rộng, chủ nghĩa hiện thực được hiểu là những tác phẩm có mối quan hệ với hiện thực đời sống, bất kể những tác phẩm đó thuộc trường phái, khuynh hướng văn nghệ nào. Với ý nghĩa này, khái niệm văn học hiện thực đồng nhất với đó là khái niệm sự thật về đời sống, vì các tác phẩm văn học nào đều mang trong mình tính hiện thực.
Theo nghĩa hẹp, đây chỉ một phương pháp hiện thực, một khuynh hướng, một trào lưu văn học có nội dung chặt chẽ, sắc sảo và được xác định theo nguyên tắc mỹ học riêng.
Theo cuốn Lí luận văn học, chủ nghĩa hiện thực có khi được dùng không phải là một phương pháp sáng tác mà với nghĩa đó là kiểu sáng tác tái hiện.
Theo Bách khoa toàn thư, chủ nghĩa hiện thực hay còn gọi là văn học hiện thực phê phán là một trào lưu về văn học hiện thực, là một trong những phương pháp sáng tác lấy chính hiện thực của xã hội và những vấn đề thật liên quan tới con người và lấy chính con người làm đối tượng để phản ánh.
Như vậy khái niệm văn học hiện thực phê phán được đưa ra cách hiểu của nhiều những ý kiến khác nhau về chủ nghĩa hiện thực, nhưng nói chung quy lại thì đó là một trào lưu văn học, một phương pháp sáng tác nhằm mô tả thế giới thực tại, đánh giá một cách trung thực về cuộc sống.
Về thời điểm ra đời của chủ nghĩa hiện thực cho đến nay vẫn còn nhiều những ý kiến tranh cãi. Theo cuốn Từ điển thuật ngữ văn học đã trình bày về nhiều ý kiến ra đời của văn học hiện thực. Có người cho rằng vấn đề phản chủ nghĩa hiện thực được hình thành từ thời kỳ cổ đại và đã trải qua nhiều giai đoạn phát triển trong các thời kỳ Cổ đại, phục hưng, Ánh sáng, thế kỷ XIX,… Một số ý kiến khác thì cho rằng thời điểm ra đời văn học hiện thực bắt đầu từ thời Phục hưng. Nhiều quan điểm khác khẳng định chủ nghĩa hiện thực hình thành vào những năm 30 của thế kỷ XIX.
Ở Việt Nam văn học hiện thực phê phán đã xuất hiện với nhiều những tác phẩm văn học trung đại như: Truyện Kiều, Chinh phụ ngâm, Thơ Nguyễn Khuyến, thơ Hồ Xuân Hương,…đã phơi bày và phê phán thực trạng khách quan của cuộc sống thời bấy giờ. Mãi cho đến những năm 30 của thế kỷ XX, cây bút văn học hiện thực phê phán Nguyễn Công Hoan là một trong những người đầu tiên đi theo khuynh hướng tả chân thực, lấy cuộc sống hiện tại, lấy những con người, sự việc đã và đang xảy ra để làm nội dung cho tác phẩm.
Tại thời điểm đất nước những năm 1930 – 1945, khuynh hướng văn học hiện thực phê phán phát triển một cách rầm rộ, quy mô, nhiều những cây bút tài năng xuất hiện ở phong trào này như Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố, Nguyễn Đình Lạp,…. Và nhà văn Nam Cao được đánh giá là một trong những người có công đưa văn học hiện thực phê phán lên một tầm cao mới, trình độ miêu tả tâm lý, khái quát chân thực hiện thực.
Với bối cảnh xã hội Việt Nam bấy giờ, cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1929 – 1933. Thực dân Pháp lúc này ra sức vơ vét, bóc lột để bù đắp những thiệt hại của chúng.
Ngày 09/02/1930 Cách mạng tư sản thất bại, giai cấp tư sản một mặt mâu thuẫn với chế độ phong kiến, đường lối chính trị thời gian này của chúng chủ yếu là cải lương. Tư sản dân tộc chủ yếu là địa chủ chuyển thành kiến cho thái độ chống phong kiến thời bấy giờ không được dứt khoát. Những tầng lớp trí thức, tiểu tư sản trở nên hoang mang và tìm được thỏa hiệp với thực dân, một số còn lại thực hiện nhiệm vụ giải phóng dân tộc bằng con đường văn chương, thời đó văn học hiện thực phê phán trở thành một phong trào.
Chặng đường phát triển của văn học hiện thực phê phán Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945 chia làm ba chặng: chặng từ năm 1930 – 1935, chặng 1936 – 1939, chặng 1940 – 1945.
Những tên tuổi lớn đã đóng góp cho sự phát triển của văn học hiện thực phê phán của Việt Nam ở giai đoạn này phải kể đến như Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nguyên Hồng, Nam Cao,… Chính những tác phẩm của họ là một bức tranh vẽ toàn cảnh của một xã hội đen tối bấy giờ.
Những sự phê phán, sự lên ánh mạng mẹ của chế độ thống trị được thể hiện mạnh mẽ của những tác phẩm như: Bước đường cùng, Bỉ vỏ, Số Đỏ, Chí Phèo, Tắt đèn, Lão Hạc,…
Bức tranh xã hội thời đó được những tác phẩm của văn học hiện thực phê phán miêu tả chân thực xã hội lúc đó với sự ảm đạm, nhiều bị kịch, làng quê xơ xác, nhiều những tệ nạn của xã hội, người nông dân bị cường hào ác bá đẩy tới mức đường cùng dẫn tới mất nhân tính và biến chất trở thành một tệ nạn của xã hội.
Văn học hiện thực phê phán vào những năm 1930 – 1945 được coi là một cuộc vận động trên chính dòng phát triển của thời cuộc đầy những biến động, khó khăn của xã hội. Nhưng cho dù xã hội có đổi thay như thế nào, thì những nét chữ, những trang viết sẽ sống mãi với thời gian.
Lời giải
Các tác giả: Lưu Trọng Lư, Hàn Mặc Tử, Huy Cận, Xuân Diệu đều thuộc trường phái văn học lãng mạn chủ nghĩa.
Lời giải
Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.
Lời giải
Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.
Lời giải
Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.
Lời giải
Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.
Lời giải
Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.
Đề kiểm tra Giữa kì 1 Ngữ Văn 12 Chân trời sáng tạo có đáp án (Đề 3)
Đề kiểm tra Giữa kì 1 Ngữ Văn 12 Kết nối tri thức có đáp án (Đề 4)
Đề kiểm tra Giữa kì 1 Ngữ Văn 12 Chân trời sáng tạo có đáp án (Đề 4)
Đề kiểm tra Giữa kì 1 Ngữ Văn 12 Chân trời sáng tạo có đáp án (Đề 2)
Đề kiểm tra Giữa kì 1 Ngữ Văn 12 Chân trời sáng tạo có đáp án (Đề 5)
Đề kiểm tra Giữa kì 1 Ngữ Văn 12 Kết nối tri thức có đáp án (Đề 1)
Bộ 10 đề thi cuối kì 1 Ngữ Văn lớp 12 Cánh diều có đáp án - Đề 7
Bộ 10 đề thi cuối kì 1 Ngữ Văn lớp 12 Chân trời sáng tạo có đáp án - Đề 4
Hãy Đăng nhập hoặc Tạo tài khoản để gửi bình luận