Câu hỏi:

13/10/2025 224 Lưu

Một tiệc ăn vạ

(Ngô Tất Tố)

[...]

Người làng ở trong các xóm, lũ lượt kéo ra con đường giữa làng, già có, trẻ có, con nít cũng có. Trái lại với quang cảnh của đoạn đường lúc nãy, ở đây rất nhiều đàn ông, thỉnh thoảng mới có một người đàn bà. Với những tiếng cười cười, nói nói, vui như đám hội, người ta đổ xô về nẻo cuối làng. Xen lộn vào sự xôn xao của đám đông người, ở trong các xóm, lại có tiếng lợn eng éc. “Không phải là chuyện đánh nhau, trói nhau, có lẽ người ta sắp sửa có cuộc ăn uống. Phải rồi, hôm nay đàn ông vì bận ăn uống, nên mới nhường hết quyền đi chợ Đình cho bọn đàn bà, đoạn này toàn là đàn ông”, tôi vừa cải chính cái câu của tôi phỏng đoán mới rồi, vừa im lặng đi theo một con đường với lũ người ấy. Và tôi đã từ biệt họ khi đến khỏi đình: họ tấp nập kéo vào điếm đình, tôi thì rẽ sang nhà Khóa Trúc, người bạn đồng học với tôi năm xưa. Bởi vì chúng tôi có hẹn trước nên lúc ấy anh Trúc đương vơ vẩn đón tôi ở chỗ đầu ngõ. Đường đi tuy rằng hơi xa, nhưng nhà anh này lại ở kề với sân điếm và chỉ cách khu điếm một bức rào bằng găng tây. Vào ngồi trong nhà anh ấy, tôi còn thấy rõ hết thảy cảnh tượng trong điếm.

Cái điếm rộng quá! Ngoài một tòa chính ở giữa lại có hai tòa giải vũ kèm ở hai đầu, mỗi tòa độ bốn năm gian. Đám người lúc ny lần lượt tiến vào đến cửa điếm. Các ông già và người cao tuổi lên thẳng tòa chính, còn người ít tuổi và đám con nít thì xuống hai tòa giải vũ. Giây lát, ba bọn đàn ông lực lưỡng khiêng ba con lợn bị trói đặt vào trước sân, và một lũ người khác mang tới đó đủ hết các thứ: bát, đĩa, dao, thớt, rổ, rá và nồi ba mươi. Rồi bọn này bắc nồi đun nước, bọn kia đè lợn chọc tiết.

Bắt đầu câu chuyện, tôi phải hỏi ngay anh Trúc:

- Đám ấy là đám gì, đám gì mà có đủ từ ông bạc đầu đến lũ trẻ con!

Anh Trúc mỉm cười đáp:

- Đó là một đám ăn vạ!

Rồi vừa pha nước, anh ấy vừa tiếp:

- Cái tục ăn vạ, thiên hạ cũng nhiều nơi có. Nhưng mà có lẽ không đâu nặng bằng làng tôi. Bởi vì theo lệ làng tôi, quyền hành của bốn “trùm nhất” lớn lắm, bao nhiêu công việc trong làng đều do bọn họ quyết định, lý dịch cũng phải theo họ. Người nào cưỡng lại với họ là họ sẽ tìm cách ăn vạ.

Như thấy tôi không hiểu “ăn vạ” là gì, anh Trúc uống cạn chén nước rồi thêm:

- Chắc anh chưa được chứng kiến cuộc ăn vạ nào thì phải! Có gì đâu, người nào có lỗi với “làng" thì “làng” cứ việc mua lợn, mua rượu, mua gạo đem ra điếm làng mà ăn. Phí tổn bao nhiêu, người có lỗi đó phải chịu. Hôm nay họ ăn vạ lão Sửu. Tội nghiệp! Lão ấy hiền lành, thật thà nhất làng tôi đấy! Chỉ vì nhà đã lép vế, lại có bát ăn, một hôm một ông trong bốn ông “trùm” đến nhà hỏi vay gánh lúa, lão ta đi vắng, mụ vợ chối là không có, ông trùm kia lấy làm thù, cách vài hôm sau hắn mượn việc làng sinh sự cãi nhau với lão ấy, rồi hắn vu cho lão ta chửi làng và đem chuyện đó trình “làng”. “Làng” là bọn đó chứ có ai đâu! Chúng với hắn cũng như một đào một kép, cho nên khi thấy hắn trình, chúng liền hùa nhau bắt vạ lão Sửu.

Anh Trúc rót chén nước nữa cho tôi, rồi tỏ vẻ ái ngại:

- Cuộc ăn vạ này, chúng làm hại lão ta đến hơn trăm bạc. Bởi vì chúng ăn to lắm, ăn suốt từ trên đến dưới. Những đứa con nít toét mắt, ỏng bụng mà anh thấy đó, cũng đều được ăn tất cả. Chúng nó cũng là “làng". Hễ ai là “làng”, hôm nay đều được ra ăn, chỉ trừ đàn bà và những trẻ con ẵm ngửa.

Tôi vẫn chưa hiểu:

- Thế thì những tiền mua lợn, mua rượu, mua gạo đó ai ứng ra cho làng?

Anh Trúc trả lời:

- Chẳng ai phải ứng hết thảy, họ đi mua chịu tất cả. Mà hễ họ đã hỏi mua, thì ai cũng bán. Bởi vì bán chịu cho “làng" như thế, sau này có thể tính với khổ chủ một giá rất cao và tính bao nhiêu, khổ chủ phải trả bấy nhiêu, không được bớt xén một đồng nào hết.

- Nếu như khổ chủ không chịu thì sao?

- Khổ chủ không chịu thì họ phải lấy tiền làng mà chi. Nhưng rồi họ sẽ họp làng tại đình, đóng chiếc đinh cù vào cột đình và phát thệ rằng: “Nhà ấy đã không thèm tuân lệ làng, từ sau trở đi, những lúc làng có ăn uống, không ai được ngồi với người nhà ấy, và rồi nhà ấy có người nào chết, bất kỳ đàn ông, đàn bà, họ xa, họ gần, làng sẽ không khiêng”. Ở thôn quê, cái người lúc sống không ai ngồi với, lúc chết làng  không khiêng cho, là người cực nhục, sống cũng như chết. Vì vậy từ xưa đến nay, họ đã ăn vạ người nào, người ấy cứ phải bán nghiệp mà trả. Không ai dám bướng.

Anh ta đương nói, thì ở bên điếm, có tiếng nói lớn:

- Thưa “chạ”! Hôm nay từ trên già lão đến dưới trai đinh, tất cả hơn hai trăm suất, ăn ba con lợn có lẽ không đủ, xin "chạ” cho bắt thêm một con nữa.

Thế rồi, một lúc sau, lại nghe có tiếng lợn kêu. Cuộc ăn uống linh đình mãi đến quá trưa mới tan.

Chiều hôm ấy, tôi còn ở đó, đã có tin nói lão Sửu thắt cổ chết ở trong nhà, lý dịch  còn đi khất quan về khám.

(Trích “Một tiệc ăn vạ” - Ngô Tất Tố, in trong Việc làng và các tập phóng sự, Cao Đắc Điểm & Ngô Thị Thanh Lịch sưu tầm, biên soạn, chú giải, NXB Văn hóa - Thông tin, 2008)

(1) Viên đạn cu ly: viên bi thủy tinh mà trẻ con thường chơi.

Xác định ít nhất hai dấu hiệu đặc trưng của thể loại phóng sự trong đoạn trích trên.

Quảng cáo

Trả lời:

verified Giải bởi Vietjack

- Tính phi hư cấu: miêu tả, ghi chép những sự việc có thật trong đời sống nông thôn Việt Nam (tục ăn vạ, cảnh điếm làng, số phận lão Sửu).

- Cách kể có sự chứng kiến trực tiếp của người trong cuộc (tác giả tự xưng “tôi”, ghi lại sự quan sát và trải nghiệm).

- Kết hợp yếu tố miêu tả – trần thuật với thái độ, cảm xúc của người viết (ngạc nhiên, xót xa, bất bình).

Câu hỏi cùng đoạn

Câu 2:

Người kể chuyện trong đoạn trích xưng “tôi”. Cách kể đó có tác dụng gì trong việc khắc họa sự việc?

Xem lời giải

verified Giải bởi Vietjack

- Tạo cảm giác chân thực, khách quan vì tác giả là người trực tiếp chứng kiến sự kiện.

- Giúp lồng ghép thái độ, cảm xúc cá nhân, làm nổi bật cái nhìn phê phán, xót xa trước số phận lão Sửu.

Câu 3:

Tác giả đã sử dụng thủ pháp nghệ thuật nào để làm nổi bật cảnh ăn vạ?

Xem lời giải

verified Giải bởi Vietjack

- Miêu tả cụ thể, chi tiết (người đi đông, tiếng cười nói, cảnh làm thịt lợn, cảnh ăn uống linh đình).

- Đan xen lời đối thoại, giải thích của nhân vật (anh Trúc).

- Thủ pháp đối lập (cảnh ăn uống vui như hội – cái chết bi thảm của lão Sửu).

Câu 4:

Nhân vật lão Sửu hiện lên qua những chi tiết nào? Gợi cho em suy nghĩ gì?

Xem lời giải

verified Giải bởi Vietjack

- Chi tiết: hiền lành, thật thà, lép vế, chỉ vì chuyện vay lúa mà bị vu khống, cuối cùng thắt cổ chết.

- Gợi suy nghĩ: số phận bất công, bi kịch của người dân nghèo bị chèn ép, phơi bày sự tàn nhẫn của hủ tục và quyền lực làng xã.

Câu 5:

Trong đoạn trích, vai trò của “bốn ông trùm” được thể hiện ra sao?

Xem lời giải

verified Giải bởi Vietjack

- Là lực lượng thao túng quyền hành trong làng, quyết định tất cả.

- Biểu hiện sự chuyên quyền, lộng hành, lợi dụng tục lệ để áp bức kẻ yếu.

- Qua đó, tác giả phê phán bộ máy cường hào gian ác ở nông thôn xưa.

Câu 6:

Hãy phân tích ý nghĩa của chi tiết “cả những đứa trẻ con toét mắt, ỏng bụng… cũng đều được ăn tất cả”.

Xem lời giải

verified Giải bởi Vietjack

- Thể hiện sự vô lý, bất công: tội lỗi do một người gánh chịu, nhưng cả làng đều ăn.

- Lột tả bản chất “cái làng” như một bộ máy ăn bám, từ già đến trẻ.

- Tăng sức tố cáo: tục ăn vạ không chỉ là trò vui mà là gánh nặng tàn khốc đè lên cá nhân.

Câu 7:

Chỉ ra và phân tích tác dụng của yếu tố phi hư cấu được sử dụng trong đoạn trích?

Xem lời giải

verified Giải bởi Vietjack

- Yếu tố phi hư cấu trong đoạn trích:

+ Lời kể, quan sát trực tiếp của nhân vật “tôi” về khung cảnh cuộc “ăn vạ” (đám đông người kéo ra điếm làng, cảnh mổ lợn, nấu nướng, ăn uống…).

+ Những lời giải thích, đối thoại giữa nhân vật “tôi” và Khóa Trúc về tục ăn vạ trong làng.

+ Những chi tiết cụ thể, chân thực: số lượng lợn, chi phí, cách mua chịu, hình phạt xã hội (đóng đinh cù vào cột đình, không cho dự các cuộc ăn uống, không khiêng đám ma…).

- Tác dụng:

+ Tạo ra tính xác thực, khách quan cho tác phẩm, khiến người đọc cảm nhận rõ đây là những sự thật đã từng tồn tại trong xã hội nông thôn Việt Nam.

+ Phản ánh chân thực bộ mặt tăm tối, bất công của hủ tục “ăn vạ” và quyền lực áp bức của bọn cường hào, “trùm nhất” trong làng.

+ Góp phần bộc lộ thái độ phê phán, tố cáo của tác giả đối với những hủ tục vô lý, tàn nhẫn, đồng thời khơi gợi sự thương cảm sâu sắc cho số phận người dân hiền lành, lương thiện như lão Sửu.

Câu 8:

Chủ đề và tư tưởng của đoạn trích là gì?

Xem lời giải

verified Giải bởi Vietjack

- Chủ đề: Tố cáo hủ tục “ăn vạ” ở nông thôn Việt Nam dưới chế độ phong kiến.

- Tư tưởng: Cảm thông, xót xa cho số phận người dân lương thiện; phê phán sự bất công, tàn bạo của hủ tục và tầng lớp cường hào.

Câu 9:

Hãy chỉ ra cảm hứng chủ đạo của người viết thể hiện trong văn bản.

Xem lời giải

verified Giải bởi Vietjack

- Cảm hứng phê phán, tố cáo gay gắt những hủ tục phi lí, bất công.

- Đồng thời là cảm hứng nhân đạo, xót xa cho những người dân lương thiện như lão Sửu.

Câu 10:

Qua đoạn trích, em nhận xét gì về giá trị hiện thực của tác phẩm Một tiệc ăn vạ?

Xem lời giải

verified Giải bởi Vietjack

- Ghi lại chân thực hủ tục ở nông thôn, phản ánh bộ mặt xã hội phong kiến đầy bất công.

- Cho thấy cuộc sống khốn khổ, bế tắc của người nông dân.

- Là tiếng nói phê phán mạnh mẽ, góp phần thúc đẩy nhận thức xã hội về cải cách.

Câu 11:

Từ đoạn trích, hãy phân tích giá trị nhân đạo trong ngòi bút Ngô Tất Tố.

Xem lời giải

verified Giải bởi Vietjack

- Thể hiện sự đồng cảm với số phận bi thảm của lão Sửu.

- Lên án hủ tục tàn nhẫn, tiếng nói bênh vực người yếu thế.

- Gợi khát vọng về một xã hội công bằng, nhân văn hơn.

Câu 12:

Sau khi đọc đoạn trích, anh/ chị có suy nghĩ gì về những hủ tục trong cuộc sống ở nông thôn Việt Nam ngày xưa?

Xem lời giải

verified Giải bởi Vietjack

- Đoạn trích cho thấy một hủ tục tàn khốc trong nông thôn Việt Nam xưa: tục “ăn vạ”. Đây là công cụ để bọn cường hào lợi dụng, đàn áp, bóc lột những người dân yếu thế. Hủ tục ấy không chỉ cướp đi tài sản mà còn đẩy người lương thiện vào bước đường cùng, thậm chí là cái chết, như trường hợp lão Sửu.

- Từ đó, ta nhận ra:

+ Hủ tục trong đời sống làng quê ngày xưa vốn rất nặng nề, phản ánh sự lạc hậu, bất công, tàn nhẫn của xã hội phong kiến.

+ Chúng ta hôm nay cần biết trân trọng những giá trị văn hóa tốt đẹp của làng quê, đồng thời kiên quyết loại bỏ những hủ tục lạc hậu, vô nhân đạo để cuộc sống ngày càng văn minh, công bằng hơn.

+ Bài học: cần tỉnh táo trước những thói quen, tập tục lâu đời; biết chọn lọc, giữ lại cái tốt, loại bỏ cái xấu để xây dựng đời sống mới tiến bộ, nhân văn.

CÂU HỎI HOT CÙNG CHỦ ĐỀ

Lời giải

Gợi ý:

- Đảm bảo yêu cầu về hình thức, dung lượng

+ Viết đúng hình thức bài văn đầy đủ ba phần Mở bài, Thân bài, Kết bài.

+ Đảm bảo dung lượng khoảng 600 chữ.

- Xác định đúng vấn đề nghị luận: phân tích giá trị hiện thực và nhân đạo trong đoạn trích “Một tiệc ăn vạ”.

- Lựa chọn được các thao tác lập luận phù hợp; kết hợp nhuần nhuyễn lí lẽ và dẫn chứng; trình bày được hệ thống ý phù hợp theo bố cục ba phần của bài văn nghị luận. Có thể triển khai theo hướng:

* Mở bài:

- Giới thiệu tác giả Ngô Tất Tố – nhà văn hiện thực xuất sắc.

- Giới thiệu tác phẩm Việc làng, đoạn trích Một tiệc ăn vạ.

- Nêu vấn đề: giá trị hiện thực và nhân đạo.

* Thân bài:

1. Giá trị hiện thực:

- Phản ánh sinh động hủ tục ăn vạ, một tệ nạn trong xã hội nông thôn.

- Vạch trần sự lộng hành của bọn cường hào, “trùm nhất” núp bóng “làng”.

- Tố cáo sự bất công: người dân hiền lành như lão Sửu bị đẩy vào bước đường cùng.

- Lột tả sự tha hóa của cộng đồng: trẻ con, người già đều “ăn vạ”.

2. Giá trị nhân đạo:

- Thái độ cảm thông sâu sắc với nạn nhân lão Sửu → thương cảm cho kiếp người thấp cổ bé họng.

- Tiếng kêu tố cáo thói đời, đòi quyền sống cho người nông dân.

- Tình thương của tác giả gắn với sự căm giận, mong muốn thay đổi xã hội.

3. Đặc sắc nghệ thuật:

- Ghi chép chân thực, ngôn ngữ sinh động, châm biếm.

- Kết hợp tự sự, miêu tả, bình luận nhuần nhuyễn.

* Kết bài:

- Khẳng định: đoạn trích là bức tranh hiện thực vừa bi thương vừa nhức nhối.

- Đóng góp của Ngô Tất Tố: dựng chân dung làng quê Việt Nam trước Cách mạng, đồng thời cất tiếng nói nhân đạo mạnh mẽ.

Bài văn tham khảo

Ngô Tất Tố là một trong những cây bút hiện thực tiêu biểu của văn học Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945. Bên cạnh tiểu thuyết Tắt đèn, tập phóng sự kí Việc làng cũng khẳng định tài năng và tấm lòng của ông. Đoạn trích Một tiệc ăn vạ là một minh chứng điển hình, vừa mang giá trị hiện thực sâu sắc, vừa thấm đẫm tinh thần nhân đạo, đồng thời phản ánh sinh động một lát cắt tiêu biểu trong đời sống nông thôn Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám.

Trước hết, đoạn trích có giá trị hiện thực to lớn. Qua lối ghi chép tỉ mỉ, tác giả phản ánh sinh động tục lệ ăn vạ – một hủ tục đen tối trong làng quê Việt Nam xưa. Chỉ một mâu thuẫn nhỏ, bốn “trùm nhất” đã biến nó thành cái cớ để ăn uống linh đình. Cảnh người làng kéo nhau đi ăn vạ “vui như đám hội” vừa khắc họa sự phi lí, vừa phơi bày sự lộng hành của bọn cường hào. Người dân hiền lành, thật thà như lão Sửu trở thành nạn nhân bất hạnh: bị vu cáo, bị bắt vạ đến mức phải bán sạch gia sản. Đặc biệt, chi tiết lão Sửu thắt cổ tự tử là đỉnh điểm tố cáo sự bất công và tàn nhẫn của xã hội. Không chỉ phơi bày quyền lực độc đoán, tác phẩm còn lột tả sự tha hóa của cộng đồng: cả già, trẻ, con nít đều tham gia “ăn vạ”, biến tục lệ thành một cuộc “ăn cướp hợp pháp”, phản ánh bộ mặt tối tăm của nông thôn Việt Nam đương thời.

Không dừng lại ở giá trị hiện thực, đoạn trích còn thấm đẫm tinh thần nhân đạo. Ẩn sau giọng văn châm biếm, ta thấy nỗi xót xa của tác giả trước số phận nông dân thấp cổ bé họng. Ngô Tất Tố không chỉ ghi chép mà còn bày tỏ thái độ rõ ràng: căm giận thói đời bất công, thương cảm cho lão Sửu và những người dân cùng khổ. Tiếng nói ấy góp phần thức tỉnh dư luận, kêu gọi thay đổi, bảo vệ quyền sống và nhân phẩm tối thiểu của con người. Đó chính là biểu hiện rõ rệt của tấm lòng nhân đạo sâu sắc, gắn bó máu thịt với nông dân mà nhà văn luôn mang theo trong từng trang viết.

Về nghệ thuật, đoạn trích hấp dẫn bởi lối kết hợp nhuần nhuyễn giữa tự sự, miêu tả và bình luận. Những chi tiết cụ thể, chân thực tạo nên sức thuyết phục mạnh mẽ, còn giọng điệu châm biếm sắc sảo lại khắc sâu ý nghĩa tố cáo. Thêm vào đó, việc xây dựng tình huống điển hình và hình tượng nhân vật điển hình đã giúp tác phẩm có sức khái quát cao, vừa phản ánh đời sống vừa mang tính phê phán xã hội sâu xa. Ngòi bút hiện thực ấy chính là đóng góp đặc sắc của Ngô Tất Tố cho thể kí Việt Nam hiện đại.

Tóm lại, Một tiệc ăn vạ không chỉ tái hiện một hủ tục phi nhân tính mà còn là tiếng kêu nhân đạo tha thiết. Bằng ngòi bút hiện thực sắc sảo, giọng điệu châm biếm thâm thúy và tấm lòng thương dân sâu nặng, Ngô Tất Tố đã dựng nên bức tranh nông thôn Việt Nam trước Cách mạng vừa nhức nhối vừa giàu giá trị tố cáo. Đoạn trích khẳng định vị trí của ông như một nhà văn chân chính, luôn dùng văn chương làm vũ khí đấu tranh, bênh vực cho con người và tố cáo những thế lực tàn bạo trong xã hội.

Lời giải

Gợi ý:

- Đảm bảo yêu cầu về hình thức, dung lượng

+ Viết đúng hình thức đoạn văn (diễn dịch, quy nạp, móc xích…).

+ Đảm bảo dung lượng khoảng 200 chữ.

- Xác định đúng vấn đề nghị luận: tác dụng của việc kết hợp giữa tự sự, miêu tả và bình luận trong đoạn trích “Một tiệc ăn vạ”.

- Hệ thống ý

+ Tự sự: kể lại diễn biến đám ăn vạ.

+ Miêu tả: khung cảnh đám đông, cảnh giết mổ, cảnh ăn uống.

+ Bình luận: thái độ phẫn nộ, châm biếm.

+ Tác dụng: làm cho sự việc vừa cụ thể, chân thực, vừa bộc lộ thái độ người viết; tăng tính tố cáo, giá trị hiện thực và nhân đạo.

- Phát triển đoạn văn logic, thuyết phục

+ Dẫn chứng từ văn bản để minh chứng cho nhận định.

+ Phân tích rõ tác dụng của việc kết hợp giữa tự sự, miêu tả và bình luận trong việc thể hiện nội dung văn bản.

- Đảm bảo ngữ pháp, liên kết:

+ Trình bày rõ ràng, mạch lạc, không mắc lỗi chính tả.

- Sáng tạo

+ Cách diễn đạt mới mẻ, có suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận.

Đoạn văn tham khảo

Trong đoạn trích Một tiệc ăn vạ, Ngô Tất Tố đã kết hợp khéo léo giữa tự sự, miêu tả và bình luận để tạo nên sức hấp dẫn và sức tố cáo mạnh mẽ. Yếu tố tự sự giúp tác giả tái hiện toàn bộ diễn biến cuộc ăn vạ: từ cảnh dân làng lũ lượt kéo ra đình đến cảnh làm thịt lợn, ăn uống linh đình. Miêu tả lại mang đến cho người đọc những hình ảnh cụ thể, sống động: “ba con lợn bị trói đặt vào trước sân”, “đứa con nít toét mắt, ỏng bụng” cũng tham gia bữa ăn. Trên nền tự sự và miêu tả ấy, yếu tố bình luận hiện lên qua giọng điệu châm biếm, mỉa mai, khi tác giả so sánh đám ăn vạ như một “đám hội”. Chính sự đan xen này vừa làm cho câu chuyện có tính chân thực, vừa bộc lộ thái độ phẫn nộ, xót thương của tác giả. Nhờ đó, đoạn trích không chỉ phản ánh bộ mặt đen tối của làng xã Việt Nam trước Cách mạng mà còn thể hiện rõ giá trị nhân đạo của ngòi bút Ngô Tất Tố.

Lời giải

Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.

Nâng cấp VIP

Lời giải

Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.

Nâng cấp VIP

Lời giải

Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.

Nâng cấp VIP

Lời giải

Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.

Nâng cấp VIP