Thời xa vắng (trích)
(Lê Lựu)
Tóm tắt tiểu thuyết Thời xa vắng: Giang Minh Sài sinh ra trong gia đình nho giáo, học giỏi, là niềm hi vọng của cả gia đình và dòng họ. Theo tư tưởng cũ, 12 tuổi Sài bị ép kết hôn với Tuyết – một cô gái hơn anh 3 tuổi. Sau đó Sài gặp và yêu Hương. Tuổi trưởng thành, Sài đăng kí nhập ngũ đi B. Vào chiến trường, Sài là một cá nhân điển hình của đơn vị. Sau 11 năm ở chiến trường trở về, Sài li dị Tuyết, cưới Châu nhưng cuộc hôn nhân không hạnh phúc. Cuối cùng, Sài về quê sống, tham gia phát triển quê hương mình.
Đoạn trích kể về những ngày đầu Sài vào chiến trường:
Vượt qua sông Bạc được một đêm Sài phải nằm lại. Đã ba ngày lên cơn sốt li bì bỏ cơm, đến chiều anh vẫn cuốn võng chống gậy ra đi. Đêm nay anh không còn biết gì nữa. Mắt đã dại đi, da tím bầm và quai hàm cứng ngắc không thể nuốt nổi chén sâm cô y tá vừa pha. Đợi tiêm một loạt ba mũi thuốc xong hai chiến sĩ của đơn vị phải ở lại cùng cô y tá, người còn lại cuối cùng ở bãi khách, khiêng Sài đến trạm quân y binh trạm cách đẩy một ngày đường. Như tất cả những người chiến sĩ ra mặt trận lúc bấy giờ mục đích thiêng liêng và cao cả của họ là được giết giặc lập công nhưng hai người đã phải ở lại trạm quân y suốt sáu tháng trời. Khiêng Sài đến nơi, họ phải nuôi quân thay cho một cô nuôi quân bị thương trên đường đi lấy nước và một cô đang lên cơn sốt. Mới đầu do yêu cầu của trạm và không nỡ bỏ bạn đang từng giờ không biết sống chết ra sao, về sau trạm phải di chuyển liên miên và thương binh càng nhiều hai chiến sĩ nhận quyết định thành quân số chính thức của binh trạm 37.
Những ngày sốt liên miên, những cơn co giật của trận sốt ác tính tưởng không thể nào qua được, sáu tháng Sài mới ra khỏi bệnh viện. Anh được điều làm trung đội trưởng thuộc đại đội công binh giữ ngầm Ông Thao ở phía Nam Xê Băng Hiêng(1). [...] Về đến đơn vị anh ra mặt đường ngay. Đại đội trưởng quyết định anh ở nhà nghỉ thêm một tuần. [...] Được nghỉ thêm ít ngày Sài có khoẻ ra nhưng anh thèm rau quả và rất muốn đi kiếm, bất kể là rau gì. Còn là lính mới anh không thể vượt qua những núi đá và rừng cây đã bị chết độc hoá học làm cháy khô. Chiều ý anh, ngày hôm sau đại đội trưởng cho liên lạc dẫn Sài đi kiếm rau, kiếm măng, nấm và quả chua. Đi và về phải hai ngày nhưng cứ mang ruốc, lương khô đủ tiêu chuẩn cho bốn ngày. Hai anh em khoác súng, ba lô đi từ sáng sớm, khoảng quá chiều đã đến khu rừng thưa, cao ráo, phần nhiều là lim, săng lẻ và cây bông tàu tròn thẳng tuồn tuột, vỏ trắng nhợt nhưng lại rắn đinh. Cậu liên lạc tên là Thêm. Cậu ta đi thoăn thoắt, nói thoăn thoắt, dường như khu rừng này là vườn nhà của cậu ta. Chỗ nào có rau, con suối ở dưới chân chảy đi đâu, chỗ nào có nấm mới? Anh có thích uống mật ong không? Thôi để đến mai, lúc nào uống hết nước có bị đông đựng mật ong ta mới “dứt điểm”. Cứ tưởng cậu ta đã ở vùng này nhiều, sau mới biết là Thêm cũng chỉ đến đây lần đầu. Vừa tinh nhanh, vừa liều lĩnh, đi đến bất cứ chỗ nào Thêm cũng không bỏ qua một chi tiết nhỏ. Chỉ cần vài tiếng buổi chiều hai người đã lấy được một ba lô măng nứa và một bọc phải đến hai cẫn mộc nhĩ. Chuyến đi có thể gọi là vô cùng thắng lợi nếu không có trận mưa đêm mà họ không ngờ tới,…
Lược một đoạn: Sau cơn mưa, Sài và Thêm gặp một tốp phản lực ném bom. Thêm bị thương, máu ra nhiều, Sài cõng Thêm tìm về đơn vị.
Không hiểu mới nửa đêm hay đã gần sáng. Không hiểu mình đang nằm ở bãi biển hay trong gian buồng xây kín quanh năm ngày cũng như đêm! Chỉ thấy hơi lành lạnh ở lưng. Muốn giơ tay lên nhưng không tài nào nhấc nổi. Phải ủ ở như muốn giãy giụa, muốn vùng đạp mới mở được mắt ra. Sài sờ lên lưng. Không có Thêm. Quờ ra xung quanh cũng không thấy. Mồ hôi anh toả ra, hai chân muốn khuỵu xuống. Anh bẩm đèn loang loáng ra tứ phía. Chỗ nào cũng thấy um tùm đen tối, cũng như là nơi rình rập của kẻ địch. Định cất tiếng gọi, lưỡi ríu lại cổ họng nghẹn khô, Sài không sao cất nổi một lời, dù là nhỏ nhoi. Sau phút choáng váng, anh lội xuống suối bẩm đèn tìm bạn. Lội giật lùi được đến đầu gối nước anh nhận ra Thêm đang giang hai tay nằm sấp ở bờ suối. Sài mừng rỡ xô đến gọi bạn. Vừa chạm đến người Thêm, anh đã run bắn lên. Nhìn bạn gục xuống mặt nước anh hiểu vì sao nên nông nỗi này. Anh muốn kêu lên. Không kêu nổi. Anh muốn khóc, khóc không ra nước mắt. Nỗi căm giận chính mình trào lên trong anh. Bất chấp cả sợ hãi anh xốc bạn lên cổ cõng Thêm lội theo bờ suối. Lúc bấy giờ anh chưa hề có cảm giác hoặc không còn cảm giác là bạn đã chết, chỉ thấy có bạn trên lưng, anh thấy vững tâm hơn. Và cũng không hiểu, mãi sau này cũng không ai giải thích được tại sao anh lại cõng nỗi người bạn đã hi sinh trên người luồn rừng, lội suối suốt mười lăm tiếng đồng hồ. Đến con đường giao liên, anh ngã vật ra. Hai người nằm nghiêng úp mặt vào nhau như hai người bạn tri kỉ đang trò chuyện, tay anh ôm ngang lưng bạn, và bạn gác cái chân bị thương qua người anh. Đến gần mới biết cả hai người lính trẻ ấy đều như đang ngủ rất ngon lành.
(Lê Lựu, Thời xa vắng, NXB Văn học, Hà Nội, 2021, tr.114-118)
Chú thích:
(1) Xê Băng Hiêng: tên dòng sông bắt nguồn từ phía tây dãy núi Trường Sơn, ở địa phận xã Hướng Lập, huyện Hướng Hoá của tỉnh Quảng Trị, chảy về phía tây biên giới Lào – Việt.
Thời xa vắng (trích)
(Lê Lựu)
Tóm tắt tiểu thuyết Thời xa vắng: Giang Minh Sài sinh ra trong gia đình nho giáo, học giỏi, là niềm hi vọng của cả gia đình và dòng họ. Theo tư tưởng cũ, 12 tuổi Sài bị ép kết hôn với Tuyết – một cô gái hơn anh 3 tuổi. Sau đó Sài gặp và yêu Hương. Tuổi trưởng thành, Sài đăng kí nhập ngũ đi B. Vào chiến trường, Sài là một cá nhân điển hình của đơn vị. Sau 11 năm ở chiến trường trở về, Sài li dị Tuyết, cưới Châu nhưng cuộc hôn nhân không hạnh phúc. Cuối cùng, Sài về quê sống, tham gia phát triển quê hương mình.
Đoạn trích kể về những ngày đầu Sài vào chiến trường:
Vượt qua sông Bạc được một đêm Sài phải nằm lại. Đã ba ngày lên cơn sốt li bì bỏ cơm, đến chiều anh vẫn cuốn võng chống gậy ra đi. Đêm nay anh không còn biết gì nữa. Mắt đã dại đi, da tím bầm và quai hàm cứng ngắc không thể nuốt nổi chén sâm cô y tá vừa pha. Đợi tiêm một loạt ba mũi thuốc xong hai chiến sĩ của đơn vị phải ở lại cùng cô y tá, người còn lại cuối cùng ở bãi khách, khiêng Sài đến trạm quân y binh trạm cách đẩy một ngày đường. Như tất cả những người chiến sĩ ra mặt trận lúc bấy giờ mục đích thiêng liêng và cao cả của họ là được giết giặc lập công nhưng hai người đã phải ở lại trạm quân y suốt sáu tháng trời. Khiêng Sài đến nơi, họ phải nuôi quân thay cho một cô nuôi quân bị thương trên đường đi lấy nước và một cô đang lên cơn sốt. Mới đầu do yêu cầu của trạm và không nỡ bỏ bạn đang từng giờ không biết sống chết ra sao, về sau trạm phải di chuyển liên miên và thương binh càng nhiều hai chiến sĩ nhận quyết định thành quân số chính thức của binh trạm 37.
Những ngày sốt liên miên, những cơn co giật của trận sốt ác tính tưởng không thể nào qua được, sáu tháng Sài mới ra khỏi bệnh viện. Anh được điều làm trung đội trưởng thuộc đại đội công binh giữ ngầm Ông Thao ở phía Nam Xê Băng Hiêng(1). [...] Về đến đơn vị anh ra mặt đường ngay. Đại đội trưởng quyết định anh ở nhà nghỉ thêm một tuần. [...] Được nghỉ thêm ít ngày Sài có khoẻ ra nhưng anh thèm rau quả và rất muốn đi kiếm, bất kể là rau gì. Còn là lính mới anh không thể vượt qua những núi đá và rừng cây đã bị chết độc hoá học làm cháy khô. Chiều ý anh, ngày hôm sau đại đội trưởng cho liên lạc dẫn Sài đi kiếm rau, kiếm măng, nấm và quả chua. Đi và về phải hai ngày nhưng cứ mang ruốc, lương khô đủ tiêu chuẩn cho bốn ngày. Hai anh em khoác súng, ba lô đi từ sáng sớm, khoảng quá chiều đã đến khu rừng thưa, cao ráo, phần nhiều là lim, săng lẻ và cây bông tàu tròn thẳng tuồn tuột, vỏ trắng nhợt nhưng lại rắn đinh. Cậu liên lạc tên là Thêm. Cậu ta đi thoăn thoắt, nói thoăn thoắt, dường như khu rừng này là vườn nhà của cậu ta. Chỗ nào có rau, con suối ở dưới chân chảy đi đâu, chỗ nào có nấm mới? Anh có thích uống mật ong không? Thôi để đến mai, lúc nào uống hết nước có bị đông đựng mật ong ta mới “dứt điểm”. Cứ tưởng cậu ta đã ở vùng này nhiều, sau mới biết là Thêm cũng chỉ đến đây lần đầu. Vừa tinh nhanh, vừa liều lĩnh, đi đến bất cứ chỗ nào Thêm cũng không bỏ qua một chi tiết nhỏ. Chỉ cần vài tiếng buổi chiều hai người đã lấy được một ba lô măng nứa và một bọc phải đến hai cẫn mộc nhĩ. Chuyến đi có thể gọi là vô cùng thắng lợi nếu không có trận mưa đêm mà họ không ngờ tới,…
Lược một đoạn: Sau cơn mưa, Sài và Thêm gặp một tốp phản lực ném bom. Thêm bị thương, máu ra nhiều, Sài cõng Thêm tìm về đơn vị.
Không hiểu mới nửa đêm hay đã gần sáng. Không hiểu mình đang nằm ở bãi biển hay trong gian buồng xây kín quanh năm ngày cũng như đêm! Chỉ thấy hơi lành lạnh ở lưng. Muốn giơ tay lên nhưng không tài nào nhấc nổi. Phải ủ ở như muốn giãy giụa, muốn vùng đạp mới mở được mắt ra. Sài sờ lên lưng. Không có Thêm. Quờ ra xung quanh cũng không thấy. Mồ hôi anh toả ra, hai chân muốn khuỵu xuống. Anh bẩm đèn loang loáng ra tứ phía. Chỗ nào cũng thấy um tùm đen tối, cũng như là nơi rình rập của kẻ địch. Định cất tiếng gọi, lưỡi ríu lại cổ họng nghẹn khô, Sài không sao cất nổi một lời, dù là nhỏ nhoi. Sau phút choáng váng, anh lội xuống suối bẩm đèn tìm bạn. Lội giật lùi được đến đầu gối nước anh nhận ra Thêm đang giang hai tay nằm sấp ở bờ suối. Sài mừng rỡ xô đến gọi bạn. Vừa chạm đến người Thêm, anh đã run bắn lên. Nhìn bạn gục xuống mặt nước anh hiểu vì sao nên nông nỗi này. Anh muốn kêu lên. Không kêu nổi. Anh muốn khóc, khóc không ra nước mắt. Nỗi căm giận chính mình trào lên trong anh. Bất chấp cả sợ hãi anh xốc bạn lên cổ cõng Thêm lội theo bờ suối. Lúc bấy giờ anh chưa hề có cảm giác hoặc không còn cảm giác là bạn đã chết, chỉ thấy có bạn trên lưng, anh thấy vững tâm hơn. Và cũng không hiểu, mãi sau này cũng không ai giải thích được tại sao anh lại cõng nỗi người bạn đã hi sinh trên người luồn rừng, lội suối suốt mười lăm tiếng đồng hồ. Đến con đường giao liên, anh ngã vật ra. Hai người nằm nghiêng úp mặt vào nhau như hai người bạn tri kỉ đang trò chuyện, tay anh ôm ngang lưng bạn, và bạn gác cái chân bị thương qua người anh. Đến gần mới biết cả hai người lính trẻ ấy đều như đang ngủ rất ngon lành.
(Lê Lựu, Thời xa vắng, NXB Văn học, Hà Nội, 2021, tr.114-118)
Chú thích:
(1) Xê Băng Hiêng: tên dòng sông bắt nguồn từ phía tây dãy núi Trường Sơn, ở địa phận xã Hướng Lập, huyện Hướng Hoá của tỉnh Quảng Trị, chảy về phía tây biên giới Lào – Việt.
Nhân vật Sài và Thêm trong câu chuyện ở vào hoàn cảnh như thế nào?
Câu hỏi trong đề: 40 Ngữ liệu ngoài sách giáo khoa lớp 12 phần Truyện !!
Quảng cáo
Trả lời:

Nhân vật Sài và Thêm trong câu chuyện được miêu tả trong hoàn cảnh hai người đi vào rừng tìm rau, gặp trời mưa lớn, sau đó Thêm bị trúng bom, Sài cõng Thêm tìm về đơn vị, trên đường về Thêm đã hi sinh.
Câu hỏi cùng đoạn
Câu 2:
Đoạn trích miêu tả những ngày đầu Giang Minh Sài vào chiến trường. Hãy tóm tắt những sự kiện chính trong đoạn trích.

- Sài bị sốt ác tính, phải điều trị suốt sáu tháng ở trạm quân y.
- Sau khi khỏi bệnh, anh được phân công làm trung đội trưởng công binh.
- Sài cùng liên lạc Thêm đi kiếm rau, gặp mưa, sau đó bị máy bay phản lực ném bom.
- Thêm bị thương, Sài cõng bạn trở về, nhưng Thêm đã hi sinh.
- Sài vẫn cõng bạn suốt mười lăm tiếng qua rừng, suối đến đơn vị, cho thấy tình đồng đội sâu nặng.
Câu 3:
Tác giả sử dụng việc tái tạo ngôn ngữ nói của nhân vật Thêm hoà vào lời kể của người kể chuyện trong những câu văn nào?

Trong đoạn trích, tác giả đã sử dụng việc tái tạo ngôn ngữ nói của nhân vật Thêm hoà vào lời kể của người kể chuyện trong những câu văn: Chỗ nào có rau, con suối ở dưới chân chảy đi đâu, chỗ nào có nấm mới? Anh có thích uống mật ong không? Thôi để đến mai, lúc nào uống hết nước có bi đông đựng mật ong ta mới “dứt điểm”.
Câu 4:
Hãy nêu và làm rõ nhận xét của anh/ chị về nhân vật Sài trong văn bản.

Học sinh nêu và làm rõ được nhận xét của nhân vật Sài được thể hiện trong văn bản:
(1) Dũng cảm: cố gắng vượt cơn sốt ác tính để bám đơn vị (Đã ba ngày lên cơn sốt li bì bỏ cơm, đến chiều anh vẫn cuốn võng chống gậy ra đi); sau khi ra viện, được điều làm trung đội trưởng thuộc đại đội công binh giữ ngầm Ông Thao; về đến đơn vị anh ra mặt đường ngay.
(2) Yêu thương gắn bó sâu sắc với đồng đội: Tâm trạng hoảng hốt, choáng váng khi phát hiện không thấy Thêm (Sài sờ lên lưng. Không có Thêm. Quờ ra xung quanh cũng không thấy. Mộ hôi anh toả ra, hai chân muốn khuỵu xuống; Định cất tiếng gọi, lưỡi ríu lại cổ họng nghẹn khô); cảm giác mừng rỡ rồi bàng hoàng, sợ hãi khi phát hiện ra bạn nằm sấp ở bờ suối (anh run bắn lên; Anh muốn kêu lên. Không kêu nổi... không ra nước mắt); nỗi căm giận bản thân, tình đồng đội sâu sắc đã tạo nên sức mạnh tinh thần và thể chất không ngờ cho nhân vật Sài (Nỗi căm giận trào lên...; Bất chấp cả sợ hãi, anh xốc bạn lên cổ cõng Thêm lội theo bờ suối; luồn rừng, lội suối suốt mười lăm tiếng đồng hồ),...
Câu 5:
Anh/ Chị có ấn tượng sâu đậm với chi tiết nào trong văn bản?

Đoạn trích có nhiều chi tiết có thể đem lại ấn tượng sâu đậm với người đọc. Chẳng hạn:
(1) Hai người chiến sĩ đưa Sài về trạm quân y và ở lại trạm sáu tháng để chăm sóc thương binh, mặc dù mục đích thiêng liêng và cao cả của họ là được giết giặc lập công.
(2) Thêm đi thoăn thoắt, nói thoăn thoắt đến mọi chỗ trong rừng mặc dù đây là lần đầu anh đi vào rừng này.
(3) Sài cõng Thêm luồn rừng, lội suối suốt mười lăm tiếng đồng hồ tìm về đơn vị, dù Thêm đã hi sinh.
Anh/ Chị có thể chọn một trong các chi tiết trên và làm rõ lí do mình có ấn tượng sâu đậm với chi tiết đó (chi tiết thể hiện vẻ đẹp của những người lính, dù không phải là lúc xông pha chiến đấu nơi chiến trường nhưng vẫn hiện lên với phẩm chất anh bộ đội cụ Hồ: tinh thần trách nhiệm cao, sự hi sinh quên mình vì đồng đội, sự nhanh nhẹn, nhiệt huyết của tuổi trẻ...; chi tiết đem lại những bài học sâu sắc về giá trị sống cho cá nhân trong những hoàn cảnh khốc liệt của cuộc sống,...).
Câu 6:
Qua đoạn trích, anh/chị nhận xét gì về tình đồng chí, đồng đội của những người lính trong chiến tranh?

- Gắn bó keo sơn, sẻ chia gian khổ, sống chết có nhau.
- Tình đồng đội là chỗ dựa tinh thần, giúp người lính vượt qua hiểm nguy, thiếu thốn.
- Đây là giá trị nhân văn sâu sắc của văn học viết về chiến tranh.
Câu 7:
Nêu những nét nghệ thuật đặc sắc trong đoạn trích.

- Miêu tả chân thực hoàn cảnh chiến tranh gian khổ, khốc liệt.
- Nghệ thuật khắc họa tâm lí nhân vật tinh tế.
- Ngôn ngữ giàu sức gợi, giàu cảm xúc.
- Xen kẽ giữa tự sự và chất trữ tình, làm tăng sức lay động.
Câu 8:
Trình bày suy nghĩ của anh/ chị về sức mạnh tinh thần của con người Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước qua văn bản trên.

Có thể trình bày suy nghĩ của anh chị về sức mạnh tinh thần của con người Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước qua văn bản trên theo các ý sau:
(1) Trong chiến tranh, những người lính phải đối mặt với nhiều hoàn cảnh và tình huống khốc liệt: bệnh tật, thiếu thốn, bom đạn, hi sinh,... Nhưng ngay trong hoàn cảnh khó khăn gian khổ của cuộc sống, ở họ vẫn sáng lên với những phẩm chất cao đẹp: quan tâm tới bạn bè đồng đội; chủ động, trách nhiệm trong công việc; hi sinh quên mình vì đồng đội,... Sức mạnh tinh thần đã đem đến cho họ một cuộc sống đẹp, đáng nhớ, giàu ý nghĩa.
(2) Sức mạnh tinh thần được thể hiện từ cuộc sống của người lính sẽ được nhân lên trong những thời khắc chiến đấu nơi chiến trường để dân tộc ta có thể mạnh mẽ đi qua cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và có ngày vinh quang hôm nay. Sức mạnh tinh thần đó cũng chính là những phẩm chất truyền thống của con người Việt Nam không chỉ trong chiến tranh mà vẫn luôn được thể hiện trong các tình huống thử thách của cuộc sống.
Hot: Danh sách các trường đã công bố điểm chuẩn Đại học 2025 (mới nhất) (2025). Xem ngay
- Tổng ôn Ngữ văn 12 Form (2025) ( 36.000₫ )
- 30 Bộ đề, Tổng ôn, sổ tay NLXH, sổ tay trọng tâm môn Ngữ Văn (có đáp án chi tiết) ( 60.000₫ )
- Sổ tay lớp 12 các môn Toán, Lí, Hóa, Văn, Sử, Địa, KTPL (chương trình mới) ( 36.000₫ )
- Tổng ôn lớp 12 môn Toán, Lí, Hóa, Văn, Anh, Sinh Sử, Địa, KTPL (Form 2025) ( 36.000₫ )
CÂU HỎI HOT CÙNG CHỦ ĐỀ
Lời giải
Gợi ý:
- Đảm bảo yêu cầu về hình thức, dung lượng
+ Viết đúng hình thức đoạn văn (diễn dịch, quy nạp, móc xích…).
+ Đảm bảo dung lượng khoảng 200 chữ.
- Xác định đúng vấn đề nghị luận
+ Cảm nghĩ về hình ảnh người lính trẻ trong chiến tranh được thể hiện qua đoạn trích ngữ liệu văn bản “Thời xa vắng” của Lê Lựu.
- Hệ thống ý:
+ Người lính trẻ giàu nghị lực, kiên cường vượt qua bệnh tật và thử thách khắc nghiệt.
. Sài chiến đấu với cơn sốt ác tính tưởng không qua khỏi, vẫn quyết tâm trở lại đơn vị.
+ Người lính trẻ giàu tình đồng chí, đồng đội.
. Sài hết lòng lo lắng, chăm sóc Thêm; cõng bạn đã hi sinh suốt 15 tiếng đồng hồ băng rừng lội suối.
. Hình ảnh hai người lính ngã xuống trong tư thế như “hai người bạn tri kỉ đang trò chuyện” vô cùng thiêng liêng, xúc động.
+ Biểu tượng cho vẻ đẹp bi tráng của thế hệ trẻ trong chiến tranh.
. Sẵn sàng đối diện cái chết, vẫn giữ vững niềm tin, tình thương.
. Gợi lên sự hi sinh thầm lặng, cao cả mà đau thương.
- Phát triển đoạn văn logic, thuyết phục
+ Dẫn chứng từ văn bản để minh chứng cho nhận định.
+ Thể hiện rõ cảm nghĩ về hình ảnh người lính trẻ trong chiến tranh được thể hiện trong văn bản ngữ liệu.
- Đảm bảo ngữ pháp, liên kết:
+ Trình bày rõ ràng, mạch lạc, không mắc lỗi chính tả.
- Sáng tạo
+ Cách diễn đạt mới mẻ, có suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận.
Đoạn văn tham khảo
Trong suốt chiều dài văn học kháng chiến, người lính trẻ luôn hiện lên như biểu tượng của tinh thần yêu nước, lòng quả cảm và sự hi sinh thầm lặng. Đoạn trích Thời xa vắng của Lê Lựu đã khắc họa thành công hình ảnh ấy qua nhân vật Sài. Giữa chiến trường khốc liệt, anh phải chống chọi với cơn sốt ác tính tưởng chừng không thể qua khỏi, nhưng bằng nghị lực và ý chí, Sài đã dần hồi phục để trở lại đơn vị, tiếp tục gánh vác nhiệm vụ. Đặc biệt, ở anh tỏa sáng vẻ đẹp của tình đồng chí, đồng đội thiêng liêng. Hình ảnh Sài cõng Thêm – người đồng đội đã hi sinh – suốt mười lăm tiếng ròng rã băng rừng, lội suối vừa gây xúc động, vừa gợi cảm giác bi tráng. Khoảnh khắc hai người lính nằm cạnh nhau như “hai người bạn tri kỉ đang trò chuyện” trở thành biểu tượng cho tình thương và sự gắn bó keo sơn của thế hệ trẻ trong chiến tranh. Qua đó, người đọc càng thấm thía vẻ đẹp cao cả của những người lính – bình dị mà anh hùng. Đoạn trích không chỉ làm sống dậy ký ức một thời chiến đấu gian khổ mà còn nhắc nhở thế hệ hôm nay phải biết sống đẹp, sống có lý tưởng để xứng đáng với sự hi sinh của cha anh.
Lời giải
Gợi ý:
- Đảm bảo yêu cầu về hình thức, dung lượng
+ Viết đúng hình thức bài văn đầy đủ ba phần Mở bài, Thân bài, Kết bài.
+ Đảm bảo dung lượng khoảng 600 chữ.
- Xác định đúng vấn đề nghị luận: Phân tích văn bản ngữ liệu “Thời xa vắng” của Lê Lựu.
- Lựa chọn được các thao tác lập luận phù hợp; kết hợp nhuần nhuyễn lí lẽ và dẫn chứng; trình bày được hệ thống ý phù hợp theo bố cục ba phần của bài văn nghị luận. Có thể triển khai theo hướng:
* Mở bài:
- Giới thiệu tác giả Lê Lựu: một trong những nhà văn tiêu biểu thời kỳ chống Mỹ, có phong cách viết chân thực, sâu sắc, phản ánh số phận con người trong chiến tranh và hậu chiến.
- Giới thiệu tiểu thuyết Thời xa vắng và đoạn trích: khắc họa hình tượng người lính Giang Minh Sài những ngày đầu ra chiến trường, qua đó làm nổi bật vẻ đẹp phẩm chất của thế hệ trẻ thời chiến.
- Dẫn dắt, nêu vấn đề: Đoạn trích thể hiện rõ nghị lực, tình đồng đội và phẩm chất anh hùng của người lính trong chiến tranh.
* Thân bài:
a) Hoàn cảnh nhân vật
- Sài – chàng trai trẻ, mới vào chiến trường, gặp thử thách khắc nghiệt: bệnh sốt ác tính, cái chết cận kề, rồi đối diện bom đạn kẻ thù.
- Thêm – người đồng đội trẻ trung, hồn nhiên, gắn bó với Sài trong hành trình đi kiếm rau rừng.
b) Diễn biến và phẩm chất nổi bật
- Sức mạnh nghị lực, ý chí kiên cường
+ Mặc dù bệnh nặng tưởng chừng không qua khỏi, Sài vẫn gượng dậy, chống chọi với tử thần để tiếp tục trở lại chiến đấu.
+ Thể hiện tinh thần bền bỉ, vượt lên trên giới hạn thể xác.
- Tình đồng chí, đồng đội sâu nặng
+ Khi Thêm bị thương nặng, Sài dốc hết sức cõng bạn suốt mười lăm tiếng qua rừng, qua suối.
+ Dù Thêm đã hi sinh, Sài vẫn không bỏ bạn lại phía sau; hình ảnh hai người lính nằm cạnh nhau như “hai người bạn tri kỉ đang trò chuyện” gợi xúc động bi tráng.
+ Đây là minh chứng sinh động cho tình đồng đội – một giá trị nhân văn cao đẹp của người lính Việt Nam.
- Vẻ đẹp của người lính thời chiến
+ Gan dạ, dũng cảm, kiên cường.
+ Giàu tình thương, biết sống vì đồng đội, vì tập thể.
+ Hình ảnh Sài trở thành biểu tượng của thế hệ thanh niên thời kháng chiến – bình dị mà anh hùng.
c) Nghệ thuật
- Tự sự kết hợp miêu tả và trữ tình, ngôn ngữ giản dị, chân thực.
- Xây dựng chi tiết đầy ám ảnh: cơn sốt tử thần, hành trình cõng bạn suốt 15 tiếng, cái chết lặng lẽ mà bi tráng của Thêm.
→ Làm nổi bật hiện thực chiến tranh khốc liệt nhưng cũng ngời sáng tình người.
d) Ý nghĩa, giá trị
- Đoạn trích góp phần khẳng định vẻ đẹp tinh thần, phẩm chất cao quý của người lính trong chiến tranh.
- Gợi cho thế hệ hôm nay niềm tự hào, đồng thời là lời nhắc nhở về trách nhiệm sống tốt, sống có lý tưởng để xứng đáng với sự hi sinh của cha anh.
* Kết bài:
- Khẳng định giá trị đoạn trích: khắc họa thành công hình tượng người lính trong chiến tranh, gợi bi tráng mà nhân văn.
- Đánh giá đóng góp của Lê Lựu: không chỉ phản ánh hiện thực chiến tranh mà còn làm sáng ngời vẻ đẹp con người Việt Nam.
- Liên hệ: hình tượng người lính trong Đồng chí (Chính Hữu), Những ngôi sao xa xôi (Lê Minh Khuê) – cùng tỏa sáng vẻ đẹp lý tưởng và tình đồng đội.
Bài văn tham khảo
Trong nền văn học Việt Nam hiện đại, đề tài người lính và chiến tranh cách mạng đã để lại những dấu ấn sâu đậm với nhiều tác phẩm giàu giá trị nhân văn. Bên cạnh những trang viết về chiến thắng và niềm vui, nhiều nhà văn còn tập trung khắc họa những gian khổ, mất mát để làm sáng lên phẩm chất cao đẹp của người lính. Lê Lựu – một cây bút trưởng thành trong thời chống Mỹ – đã có đóng góp đặc sắc với tiểu thuyết Thời xa vắng. Đoạn trích những ngày đầu Giang Minh Sài bước vào chiến trường là một lát cắt tiêu biểu, vừa phản ánh hiện thực khốc liệt, vừa ngợi ca vẻ đẹp bi tráng của thế hệ thanh niên trong kháng chiến.
Trước hết, nhân vật Sài hiện lên trong hoàn cảnh vô cùng khắc nghiệt. Vừa đặt chân vào chiến trường, anh đã phải đối mặt với bệnh sốt ác tính tưởng chừng không thể vượt qua. Sự sống và cái chết chỉ cách nhau một ranh giới mong manh. Nhưng bằng nghị lực, niềm tin và khát vọng được tiếp tục chiến đấu, Sài đã từng bước chống chọi với tử thần để hồi phục. Hình ảnh ấy khẳng định ý chí kiên cường, tinh thần không lùi bước của người lính trẻ, đồng thời cũng cho thấy chiến tranh không chỉ thử thách con người bằng bom đạn mà còn bằng cả sự khốc liệt của thiên nhiên, bệnh tật.
Không dừng lại ở đó, đoạn trích còn khắc họa cảm động tình đồng chí, đồng đội sâu nặng. Trong chuyến đi kiếm rau rừng, Sài và Thêm đã gắn bó với nhau như anh em. Khi Thêm bị thương nặng bởi bom đạn, Sài không màng nguy hiểm, dốc hết sức lực cõng bạn suốt mười lăm tiếng đồng hồ băng rừng, lội suối. Dù Thêm đã hi sinh, Sài vẫn không buông bỏ, vẫn kiên quyết đưa bạn về với đơn vị. Hình ảnh hai người lính nằm cạnh nhau, “như hai người bạn tri kỉ đang trò chuyện”, vừa bi thương vừa thiêng liêng, trở thành biểu tượng của tình đồng đội bất diệt. Qua đó, ta thấy được một giá trị nhân văn rạng ngời trong chiến tranh: giữa sự hủy diệt, tình người vẫn nảy nở và tỏa sáng.
Đoạn trích cũng góp phần khắc họa vẻ đẹp tổng hòa của người lính thời chống Mỹ: gan dạ, dũng cảm, nghị lực kiên cường, giàu tình thương và sống có trách nhiệm với đồng đội. Họ không phải những con người xa lạ, phi thường, mà rất đỗi bình dị, gần gũi, nhưng chính trong sự bình dị ấy lại tỏa sáng chất anh hùng. Đây cũng là thông điệp sâu xa mà Lê Lựu gửi gắm: chiến tranh khốc liệt không chỉ hủy hoại mà còn rèn giũa, làm sáng lên những phẩm chất cao quý nhất của con người Việt Nam.
Thành công của đoạn trích còn nằm ở nghệ thuật kể chuyện giàu sức gợi: giọng văn chân thực, chi tiết sinh động, nhiều đoạn miêu tả ám ảnh (như cơn sốt tử thần, hay cảnh cõng bạn mười lăm tiếng đồng hồ). Kết hợp giữa hiện thực và trữ tình, tác giả vừa phản ánh chân thực chiến tranh, vừa lay động trái tim người đọc bằng những cung bậc cảm xúc.
Có thể khẳng định, đoạn trích Thời xa vắng đã khắc họa thành công hình tượng người lính trong chiến tranh: nghị lực kiên cường, giàu tình đồng đội, bình dị mà anh hùng. Qua đó, tác phẩm không chỉ gợi niềm tự hào mà còn là lời nhắc nhở thế hệ hôm nay: hãy sống đẹp, sống có trách nhiệm, xứng đáng với những hi sinh của cha anh. Đặt cạnh hình ảnh người lính trong Đồng chí của Chính Hữu hay Những ngôi sao xa xôi của Lê Minh Khuê, ta càng thấy rõ một vẻ đẹp xuyên suốt: những con người trẻ tuổi đã lấy tình thương và ý chí để làm nên sức mạnh chiến thắng.
Lời giải
Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.
Lời giải
Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.
Lời giải
Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.
Lời giải
Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.