THƯƠNG NHỚ MƯỜI HAI
(Vũ Bằng)
Tự nhiên như thế: ai cũng chuộng mùa xuân. Mà tháng Giêng là tháng đầu của mùa xuân, người ta càng trìu mến, không có gì lạ hết. Ai bảo được non đừng thương nước, bướm đừng thương hoa, trăng đừng thương gió; ai cấm được trai thương gái, ai cấm được mẹ yêu con; ai cấm được cô gái còn son nhớ chồng thì mới hết được người mê luyến mùa xuân.
Tôi yêu sông xanh, núi tím; tôi yêu đôi mày ai như trăng mới in ngần và tôi cũng xây mộng ước mơ, nhưng yêu nhất mùa xuân không phải là vì thế.
Mùa xuân của tôi - mùa xuân Bắc Việt, mùa xuân của Hà Nội - là mùa xuân có mưa riêu riêu, gió lành lạnh, có tiếng nhạn kêu trong đêm xanh, có tiếng trống chèo vọng lại từ những thôn xóm xa xa, có câu hát huê tình của cô gái đẹp như thơ mộng...
Người yêu cảnh, vào những lúc trời đất mang mang1 như vậy, khoác một cái áo lông, ngậm một ống điếu mở cửa đi ra ngoài tự nhiên thấy một cái thú giang hồ êm ái như nhung và không cần uống rượu mạnh cũng như lòng mình say sưa một cái gì đó – có lẽ là sự sống!
Ấy đấy, cái mùa xuân thần thánh của tôi làm cho người ta muốn phát điên lên như thế ấy. Ngồi yên không chịu được. Nhựa sống ở trong người căng lên như máu căng lên trong lộc của loài nai, như mầm non của cây cối, nẵm im mãi không chịu được, phải trồi ra thành những cái lá nhỏ li ti giơ tay vẫy những cặp uyên ương đứng cạnh.
Cùng với mùa xuân trở lại, tim người ta dường như cũng trẻ hơn ra, và đập mạnh hơn trong những ngày đông tháng giá. Lúc ấy, đường sá không còn lầy lội nữa mà là cái rét ngọt ngào, chớ không còn tê buốt căm căm nữa.
Y như những con vật nằm thu hình một nơi trốn rét thấy nắng ấm trở về thì lại bò ra để nhảy nhót kiếm ăn, anh cũng “sống” lại và thèm khát yêu thương thực sự. Ra ngoài trời, thấy ai cũng muốn yêu thương, về đến nhà lại cũng thấy yêu thương nữa.
Nhang trầm, đèn nến, và nhất là bầu không khí gia đình đoàn tụ êm đềm, trên kính dưới nhường, trước những bàn thờ Phật, bàn thờ Thánh, bàn thờ tổ tiên làm cho lòng anh ấm lạ ấm lùng, tuy miệng chẳng nói ra nhưng trong lòng thì cảm như có không biết bao nhiêu là hoa mới nở, bướm ra ràng mở hội liên hoan.
Đẹp quá đi, mùa xuân ơi mùa xuân của Hà Nội thân yêu, của Bắc Việt thương mến. Nhưng tôi yêu mùa xuân nhất là vào khoảng sau ngày rằm tháng giêng, Tết hết mà chưa hết hẳn, đào hơi phai nhưng nhụy vẫn còn phong, cỏ không mướt xanh như cuối đông, đầu giêng, nhưng trái lại, lại nức một mùi hương man mác.
Thường thường, vào khoảng đó trời đã hết nồm2, mưa xuân bắt đầu thay thế cho mưa phùn, không còn làm cho nền trời đùng đục như màu pha lê mờ. Sáng dậy, nam dài nhìn ra cửa số thấy những vệt xanh tươi hiện ra ở trên trời, mình cảm thấy rạo rực một niềm vui sáng sủa. Trên giàn hoa lí, vài con ong siêng năng đã bay đi kiếm nhị hoa. Chỉ độ tám chín giờ sáng, trên nền trời trong trong có những làn sáng hồng hồng rung động như cánh con ve mới lột.
Ấy là lúc thịt mỡ dưa hành đã hết, người ta bắt đầu trở về bữa cơm giản dị có cà om với thịt thăn điểm những lá tía tô thái nhỏ hay bát canh trứng cua vắt chanh ăn mát như quạt vào lòng. Cánh màn điều treo ở đầu bàn thờ ông vải đã hạ xuống từ hôm “hóa vàng” và các trò vui ngày Tết cũng tạm thời kết thúc để nhường chỗ cho cuộc sống êm đềm thường nhật.
* Chú thích:
1) Mang mang: Mang nhiều trạng thái, cảnh sắc đan xen, hòa dâng trong cảm xúc.
2) Nồm: Trạng thái thời tiết ẩm và ẩm ướt ở miền Bắc Việt Nam vào cuối mùa đông sang đầu mùa xuân.
- Vũ Bằng (1913 - 1984), sinh ra và lớn lên trong một gia đình nhà Nho tại Hà Nội, ông có sở trường về truyện ngắn, tùy bút, bút kí,... Là một nhà văn trữ tình, giàu chất thơ, có thiên hướng bộc lộ nội tâm của mình, hướng về phong cảnh thiên nhiên, bốn mùa xứ xở. Ông là một ngòi bút đầy cảm xúc và tinh tế với lối viết trữ tình, độc đáo đã làm nên nét đặc sắc trong bút pháp nghệ thuật của ông.
Xác định đề tài của đoạn văn bản tùy bút trên.
THƯƠNG NHỚ MƯỜI HAI
(Vũ Bằng)
Tự nhiên như thế: ai cũng chuộng mùa xuân. Mà tháng Giêng là tháng đầu của mùa xuân, người ta càng trìu mến, không có gì lạ hết. Ai bảo được non đừng thương nước, bướm đừng thương hoa, trăng đừng thương gió; ai cấm được trai thương gái, ai cấm được mẹ yêu con; ai cấm được cô gái còn son nhớ chồng thì mới hết được người mê luyến mùa xuân.
Tôi yêu sông xanh, núi tím; tôi yêu đôi mày ai như trăng mới in ngần và tôi cũng xây mộng ước mơ, nhưng yêu nhất mùa xuân không phải là vì thế.
Mùa xuân của tôi - mùa xuân Bắc Việt, mùa xuân của Hà Nội - là mùa xuân có mưa riêu riêu, gió lành lạnh, có tiếng nhạn kêu trong đêm xanh, có tiếng trống chèo vọng lại từ những thôn xóm xa xa, có câu hát huê tình của cô gái đẹp như thơ mộng...
Người yêu cảnh, vào những lúc trời đất mang mang1 như vậy, khoác một cái áo lông, ngậm một ống điếu mở cửa đi ra ngoài tự nhiên thấy một cái thú giang hồ êm ái như nhung và không cần uống rượu mạnh cũng như lòng mình say sưa một cái gì đó – có lẽ là sự sống!
Ấy đấy, cái mùa xuân thần thánh của tôi làm cho người ta muốn phát điên lên như thế ấy. Ngồi yên không chịu được. Nhựa sống ở trong người căng lên như máu căng lên trong lộc của loài nai, như mầm non của cây cối, nẵm im mãi không chịu được, phải trồi ra thành những cái lá nhỏ li ti giơ tay vẫy những cặp uyên ương đứng cạnh.
Cùng với mùa xuân trở lại, tim người ta dường như cũng trẻ hơn ra, và đập mạnh hơn trong những ngày đông tháng giá. Lúc ấy, đường sá không còn lầy lội nữa mà là cái rét ngọt ngào, chớ không còn tê buốt căm căm nữa.
Y như những con vật nằm thu hình một nơi trốn rét thấy nắng ấm trở về thì lại bò ra để nhảy nhót kiếm ăn, anh cũng “sống” lại và thèm khát yêu thương thực sự. Ra ngoài trời, thấy ai cũng muốn yêu thương, về đến nhà lại cũng thấy yêu thương nữa.
Nhang trầm, đèn nến, và nhất là bầu không khí gia đình đoàn tụ êm đềm, trên kính dưới nhường, trước những bàn thờ Phật, bàn thờ Thánh, bàn thờ tổ tiên làm cho lòng anh ấm lạ ấm lùng, tuy miệng chẳng nói ra nhưng trong lòng thì cảm như có không biết bao nhiêu là hoa mới nở, bướm ra ràng mở hội liên hoan.
Đẹp quá đi, mùa xuân ơi mùa xuân của Hà Nội thân yêu, của Bắc Việt thương mến. Nhưng tôi yêu mùa xuân nhất là vào khoảng sau ngày rằm tháng giêng, Tết hết mà chưa hết hẳn, đào hơi phai nhưng nhụy vẫn còn phong, cỏ không mướt xanh như cuối đông, đầu giêng, nhưng trái lại, lại nức một mùi hương man mác.
Thường thường, vào khoảng đó trời đã hết nồm2, mưa xuân bắt đầu thay thế cho mưa phùn, không còn làm cho nền trời đùng đục như màu pha lê mờ. Sáng dậy, nam dài nhìn ra cửa số thấy những vệt xanh tươi hiện ra ở trên trời, mình cảm thấy rạo rực một niềm vui sáng sủa. Trên giàn hoa lí, vài con ong siêng năng đã bay đi kiếm nhị hoa. Chỉ độ tám chín giờ sáng, trên nền trời trong trong có những làn sáng hồng hồng rung động như cánh con ve mới lột.
Ấy là lúc thịt mỡ dưa hành đã hết, người ta bắt đầu trở về bữa cơm giản dị có cà om với thịt thăn điểm những lá tía tô thái nhỏ hay bát canh trứng cua vắt chanh ăn mát như quạt vào lòng. Cánh màn điều treo ở đầu bàn thờ ông vải đã hạ xuống từ hôm “hóa vàng” và các trò vui ngày Tết cũng tạm thời kết thúc để nhường chỗ cho cuộc sống êm đềm thường nhật.
* Chú thích:
1) Mang mang: Mang nhiều trạng thái, cảnh sắc đan xen, hòa dâng trong cảm xúc.
2) Nồm: Trạng thái thời tiết ẩm và ẩm ướt ở miền Bắc Việt Nam vào cuối mùa đông sang đầu mùa xuân.
- Vũ Bằng (1913 - 1984), sinh ra và lớn lên trong một gia đình nhà Nho tại Hà Nội, ông có sở trường về truyện ngắn, tùy bút, bút kí,... Là một nhà văn trữ tình, giàu chất thơ, có thiên hướng bộc lộ nội tâm của mình, hướng về phong cảnh thiên nhiên, bốn mùa xứ xở. Ông là một ngòi bút đầy cảm xúc và tinh tế với lối viết trữ tình, độc đáo đã làm nên nét đặc sắc trong bút pháp nghệ thuật của ông.
Xác định đề tài của đoạn văn bản tùy bút trên.
Câu hỏi trong đề: 10 Ngữ liệu ngoài sách giáo khoa lớp 11 phần Kí !!
Quảng cáo
Trả lời:
- Vẻ đẹp mùa xuân ở miền Bắc nước ta
Câu hỏi cùng đoạn
Câu 2:
Nêu nội dung chính của văn bản.
Nêu nội dung chính của văn bản.
- Tác giả đã miêu tả không khí, con người, cảnh sắc thiên nhiên đặc trưng của Hà Nội vào mùa xuân. Tình yêu mùa xuân của con người nói chung và nỗi nhớ mùa xuân miền Bắc của tác giả. Tác giả không chỉ nhớ cảnh sắc thiên nhiên mà còn nhớ không khí mùa xuân, nhớ hương vị ngày Tết cổ truyền. Từ đó càng thấy yêu hơn sự sống, gia đình.
Câu 3:
Cảm hứng chủ đạo của văn bản trên là gì?
Cảm hứng chủ đạo của văn bản trên là gì?
- Tình yêu mùa xuân và nỗi nhớ mùa xuân quê hương miền Bắc của tác giả.
Câu 4:
Cái “tôi” trữ tình trong văn bản thể hiện tình cảm, cảm xúc gì? Hãy dẫn ra một số câu văn thể hiện rõ tình cảm, cảm xúc ấy.
Cái “tôi” trữ tình trong văn bản thể hiện tình cảm, cảm xúc gì? Hãy dẫn ra một số câu văn thể hiện rõ tình cảm, cảm xúc ấy.
- Cái tôi tác giả trong văn bản: Là cái tôi tài hoa, đầy cảm xúc thế hiện tình yêu và nỗi nhớ thương mùa xuân ở đất Bắc và Hà Nội, được thể hiện rõ qua những câu văn thấm đượm tình cảm, cảm xúc của tác giả với mùa xuân:
+ “Tôi yêu sông xanh, núi tím; tôi yêu đôi mày ai như trăng mới in ngần và tôi cũng xây mộng ước mơ, nhưng yêu nhất mùa xuân không phải là vì thế”
+ “Ấy đấy, cái mùa xuân thần thánh của tôi nó làm cho con người ta muốn phát điên lên như thế đấy. Nhựa sống ở trong người căng lên như máu cũng căng lên trong lộc của loài nai, như mầm non của cây cối…”
+ “Ra ngoài trời, thấy ai cũng muốn yêu thương, về đến nhà lại cũng thấy yêu thương nữa.”
+ “Nhưng tôi yêu nhất mùa xuân nhất là vào khoảng sau ngày rẫm tháng Giêng, Tết hết mà chưa hết hẳn, đào hơi phai nhưng nhụy vẫn còn phong, cỏ không mướt xanh như cuối đông, đầu Giêng, nhưng trái lại, lại nức một mùi hương man mác.”
+ “Đẹp quá đi, mùa xuân ơi - mùa xuân của Hà Nội thân yêu, của Bắc Việt thương mến.”
=> Đó cũng là cái “tôi” chan chứa tình yêu quê hương đất nước.
Câu 5:
Hãy chỉ ra các câu văn miêu tả không khí mùa xuân Hà Nội và khung cảnh đoàn tụ đầm ấm của gia đình. Phân tích tác dụng của việc kết hợp hai yếu tố đó trong đoạn văn trên.
Hãy chỉ ra các câu văn miêu tả không khí mùa xuân Hà Nội và khung cảnh đoàn tụ đầm ấm của gia đình. Phân tích tác dụng của việc kết hợp hai yếu tố đó trong đoạn văn trên.
* Chi tiết miêu tả thời tiết mùa xuân Hà Nội vào khoảng rằm tháng Giêng:
- “Mùa xuân của tôi - mùa xuân Bắc Việt, mùa xuân của Hà Nội - là mùa xuân có mưa riêu riêu, gió lành lạnh, có tiếng nhạn kêu trong đêm xanh, có tiếng trống chèo vọng lại từ những thôn xóm xa xa, có câu hát huê tình của cô gái đẹp như thơ mộng...”
- “Thường thường, vào khoảng đó trời đã hết nồm, mưa xuân bắt đầu thay thế cho mưa phùn, không còn làm cho nền trời đùng đục như màu pha lê mờ.”
- “Sáng dậy, năm dài nhìn ra cửa số thấy những vệt xanh tươi hiện ra ở trên trời”.
- “Trên giàn hoa lý, vài con ong siêng năng đã bay đi kiếm nhị hoa. Chỉ độ tám chín giờ sáng, trên nền trời trong trong có những làn sáng hồng hồng rung động như cánh con ve mới lột.”
* Chi tiết miêu tả khung cảnh đoàn tụ đầm ấm của gia đình:
- “Nhang trầm, đèn nến, và nhất là bầu không khí gia đình đoàn tụ êm đềm, trên kính dưới nhường, trước những bàn thờ Phật, bàn thờ Thánh, bàn thờ tổ tiên làm cho lòng anh ấm lạ ấm lùng, tuy miệng chẳng nói ra nhưng trong lòng thì cảm như có không biết bao nhiêu là hoa mới nở, bướm ra ràng mở hội liên hoan.”
- “Cánh màn điều treo ở đầu bàn thờ ông vải đã hạ xuống từ hôm 'hoa vàng' và các trò vui ngày Tết cũng tạm thời kết thúc đế nhường chỗ cho cuộc sống êm đềm thường nhật.”
- “Ấy là lúc thịt mỡ dưa hành đã hết, người ta bắt đầu trở về bữa cơm giản dị có cà om với thịt thăn điểm những lá tía tô thái nhỏ hay bát canh trứng cua vắt chanh ăn mát như quạt vào lòng.”
=> Phân tích tác dụng của việc kết hợp yếu tố tự sự và trữ tình:
- Nghệ thuật: Tăng sức gợi hình gợi cảm, làm cho đoạn văn thêm sinh động.
- Nội dung: Nhấn mạnh, miêu tả thời tiết đặc trưng và nếp sinh hoạt của người Hà Nội vào mùa xuân, sau rằm tháng Giêng. Qua đó làm nối bật tình cảm, cảm xúc mãnh liệt của tác giả với mùa xuân, giúp người đọc cảm nhận được tình yêu tha thiết và nỗi nhớ mùa xuân quê hương miền Bắc
của tác giả.
Câu 6:
Xác định và nêu tác dụng của một số biện pháp tu từ được dùng trong văn bản.
Xác định và nêu tác dụng của một số biện pháp tu từ được dùng trong văn bản.
- So sánh:
+ “Nhựa sống ở trong người căng lên như máu căng lên trong lộc của loài nai, như mầm non của cây cối, nằm im mãi không chịu được, phải trồi ra thành những cái lá nhỏ li ti giơ tay vẫy những cặp uyên ương đứng cạnh.”
+ “Nhựa sống ở trong người căng lên như máu căng lên trong lộc của loài nai…”
- Liệt kê khung cảnh mùa xuân đất Bắc, mùa xuân Hà Nội:
+ “Mùa xuân của tôi - mua xuân Bắc Việt, mùa xuân của Hà Nội - là mùa xuân có mưa riêu riêu, gió lành lạnh, có tiếng nhạn kêu trong đêm xanh, có tiếng trống chèo vọng lại từ những thôn xóm xa xa, có câu hát huê tình của cô gái đẹp như thơ mộng...”
- Liệt kê phong tục truyền thống của gia đình:
+ “Nhang trầm, đèn nến, và nhất là bầu không khí gia đình đoàn tụ êm đềm, trên kính dưới nhường, trước những bàn thờ Phật, bàn thờ Thánh, bàn thờ tổ tiên…”
- Phép điệp:
+ Điệp ngữ “yêu thương” trong câu “Y như những con vật nằm thu hình một nơi trốn rét thấy nắng ấm trở về thì lại bò ra để nhảy nhót kiếm ăn, anh cũng “sống” lại và thèm khát yêu thương thực sự. Ra ngoài trời, thấy ai cũng muốn yêu thương, về đến nhà lại cũng thấy yêu thương nữa.”
+ Điệp ngữ “mùa xuân” trong câu “Mùa xuân của tôi - mùa xuân Bắc Việt, mùa xuân của Hà Nội…”
+ Điệp ngữ “tôi yêu" trong câu “Tôi yêu sông xanh, núi tím; tôi yêu đôi mày ai như trăng mới in ngần...”
- Tác dụng:
+ Nghệ thuật: Tăng sức gợi hình gợi cảm, tăng sức biểu đạt.
+ Nội dung: Nhấn mạnh, làm nổi bật vẻ đẹp của thời tiết, cảnh sắc thiên nhiên đặc trưng của Hà Nội vào mùa xuân và khung cảnh gia đình quây quần bên nhau đầy ấm áp, những nét đẹp của văn hoá cổ truyền. Qua đó, cảm xúc yêu thương được nhấn mạnh, tô đậm, càng làm rõ nét nỗi nhớ, niềm thương của tác giả đối với mùa xuân quê hương đất nước.
Hot: 1000+ Đề thi cuối kì 1 file word cấu trúc mới 2025 Toán, Văn, Anh... lớp 1-12 (chỉ từ 60k). Tải ngay
- Trọng tâm Sử, Địa, GD KTPL 11 cho cả 3 bộ Kết nối, Chân trời, Cánh diều VietJack - Sách 2025 ( 38.000₫ )
- Trọng tâm Hóa học 11 dùng cho cả 3 bộ sách Kết nối, Cánh diều, Chân trời sáng tạo VietJack - Sách 2025 ( 58.000₫ )
- Sách lớp 11 - Trọng tâm Toán, Lý, Hóa, Sử, Địa lớp 11 3 bộ sách KNTT, CTST, CD VietJack ( 52.000₫ )
- Sách lớp 10 - Combo Trọng tâm Toán, Văn, Anh và Lí, Hóa, Sinh cho cả 3 bộ KNTT, CD, CTST VietJack ( 75.000₫ )
CÂU HỎI HOT CÙNG CHỦ ĐỀ
Lời giải
Gợi ý:
- Đảm bảo yêu cầu về hình thức, dung lượng
+ Viết đúng hình thức bài văn đầy đủ ba phần Mở bài, Thân bài, Kết bài.
+ Đảm bảo dung lượng khoảng 600 chữ.
- Xác định đúng vấn đề nghị luận: Trình bày suy nghĩ về vai trò của việc gìn giữ và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống trong đời sống con người Việt Nam hiện nay.
- Lựa chọn được các thao tác lập luận phù hợp; kết hợp nhuần nhuyễn lí lẽ và dẫn chứng; trình bày được hệ thống ý phù hợp theo bố cục ba phần của bài văn nghị luận. Có thể triển khai theo hướng:
* Mở bài:
- Giới thiệu ngắn gọn về văn bản Thương nhớ mười hai – một tùy bút trữ tình đậm đà tình quê, tình người.
- Dẫn vào vấn đề: Qua nỗi thương nhớ mùa xuân Bắc Việt của Vũ Bằng, ta nhận ra ý nghĩa sâu sắc của việc gìn giữ và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống – linh hồn của dân tộc Việt Nam.
* Thân bài:
a. Giải thích vấn đề
- Giá trị văn hóa truyền thống: Là những tinh hoa vật chất và tinh thần do cha ông ta sáng tạo, lưu truyền qua nhiều thế hệ: phong tục, tập quán, tín ngưỡng, nghệ thuật, ngôn ngữ, ẩm thực, đạo lý sống…
- Gìn giữ và phát huy: Là trân trọng, bảo tồn, duy trì và phát triển những giá trị ấy trong đời sống hiện đại.
b. Phân tích và bàn luận
- Những giá trị văn hóa truyền thống giúp con người:
+ Hiểu về cội nguồn: Biết mình là ai, từ đâu mà có, để nuôi dưỡng lòng tự hào dân tộc.
+ Bồi dưỡng nhân cách: Văn hóa truyền thống dạy con người hướng thiện, nhân nghĩa, hiếu kính, khiêm nhường.
+ Kết nối cộng đồng: Tạo nên sự gắn bó giữa các thế hệ, làm nên bản sắc riêng của dân tộc Việt trong hội nhập.
+ Bồi dưỡng cảm xúc thẩm mỹ: Như trong văn bản, Vũ Bằng không chỉ tả mùa xuân mà còn gợi lại nhịp sống, phong vị, nét đẹp tinh tế của văn hóa Bắc Việt — một minh chứng cho sức sống bền bỉ của văn hóa dân tộc trong tâm hồn người xa quê.
c. Liên hệ thực tế – mở rộng
- Trong đời sống hôm nay:
+ Văn hóa dân tộc đang đứng trước nhiều thách thức của toàn cầu hóa: lối sống thực dụng, văn hóa ngoại lai, sự thờ ơ của giới trẻ.
+ Tuy nhiên, nhiều người trẻ vẫn ý thức bảo tồn và làm mới văn hóa: phục dựng lễ hội truyền thống, quảng bá áo dài, ẩm thực Việt, nghệ thuật dân gian, tiếng Việt trên nền tảng số…
- Giữ gìn văn hóa không chỉ là “bảo tàng ký ức” mà là thổi hồn Việt vào nhịp sống hiện đại, để bản sắc dân tộc hòa nhập nhưng không hòa tan.
d. Phản đề
- Phê phán những biểu hiện đáng lo ngại:
+ Thờ ơ, lãng quên truyền thống.
+ Bắt chước, sính ngoại, coi thường văn hóa dân tộc.
+ Biến tướng, thương mại hóa giá trị văn hóa chỉ vì lợi nhuận.
* Kết bài:
- Khẳng định lại vai trò thiêng liêng của văn hóa truyền thống: đó là cội nguồn sức mạnh, là linh hồn dân tộc Việt.
- Mỗi người Việt, đặc biệt là thế hệ trẻ, cần nuôi dưỡng niềm tự hào, yêu quý và sáng tạo trong gìn giữ văn hóa dân tộc, để bản sắc Việt mãi tỏa sáng qua từng mùa xuân quê hương như trong trang viết của Vũ Bằng.
Bài viết tham khảo
Văn bản Thương nhớ mười hai của Vũ Bằng là khúc hát tràn đầy cảm xúc về mùa xuân Bắc Việt – mùa xuân của mưa riêu riêu, gió lành lạnh, tiếng trống chèo, mùi nhang trầm và không khí đoàn tụ ấm cúng của gia đình. Ẩn sau những dòng chữ ấy là tình yêu sâu nặng với quê hương và niềm trân trọng đối với những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc. Từ đó, ta càng nhận ra vai trò to lớn của việc gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa Việt trong đời sống hôm nay.
Giá trị văn hóa truyền thống là kết tinh của trí tuệ, tâm hồn và nhân cách dân tộc qua hàng nghìn năm lịch sử. Đó là phong tục tập quán, tín ngưỡng, lễ hội, ngôn ngữ, nghệ thuật, đạo lý sống và cách ứng xử giữa con người với con người. Gìn giữ và phát huy các giá trị ấy không chỉ là bảo tồn những di sản vật thể và phi vật thể, mà còn là nuôi dưỡng tâm hồn dân tộc trong mỗi con người Việt Nam.
Trong Thương nhớ mười hai, qua từng chi tiết giản dị như bữa cơm ngày Tết, khói nhang bàn thờ, tiếng trống chèo hay mưa xuân, Vũ Bằng đã tái hiện cả một không gian văn hóa Bắc Việt thanh nhã và tinh tế. Đó là bức tranh của nếp sống Việt – nơi con người biết yêu thương, biết đoàn tụ, biết tận hưởng vẻ đẹp của tự nhiên và niềm vui giản dị đời thường. Những giá trị ấy không chỉ là hoài niệm của quá khứ mà còn là sợi dây gắn kết các thế hệ Việt Nam trong hiện tại và tương lai.
Ngày nay, trong bối cảnh toàn cầu hóa, khi giao lưu văn hóa diễn ra mạnh mẽ, việc giữ gìn bản sắc dân tộc càng trở nên cấp thiết. Một dân tộc nếu đánh mất văn hóa của mình thì chẳng khác nào đánh mất linh hồn. Giới trẻ cần ý thức rằng mặc áo dài, nói tiếng Việt trong sáng, đón Tết truyền thống, biết ơn tổ tiên hay yêu cảnh sắc quê hương cũng là những cách giản dị mà thiết thực để bảo vệ văn hóa dân tộc. Đồng thời, phát huy giá trị ấy còn là sáng tạo – làm mới văn hóa truyền thống bằng tinh thần hiện đại: đưa dân ca, ca trù, múa rối, áo dài… ra thế giới với diện mạo trẻ trung, hấp dẫn hơn.
Văn hóa dân tộc là dòng máu chảy trong mỗi người Việt Nam, là ngọn nguồn của sức mạnh tinh thần dân tộc. Gìn giữ và phát huy các giá trị ấy chính là gìn giữ bản sắc Việt, là giữ lấy cội nguồn và linh hồn của Tổ quốc. Như Vũ Bằng từng viết về mùa xuân quê hương với niềm thương nhớ khôn nguôi, mỗi người chúng ta hôm nay cũng cần biết “thương nhớ” và tự hào về văn hóa Việt – để dù đi đến đâu, vẫn nhận ra trong tim mình có một mùa xuân Bắc Việt, một hồn Việt dịu dàng mà bền vững.
Lời giải
Gợi ý:
- Đảm bảo yêu cầu về hình thức, dung lượng
+ Viết đúng hình thức đoạn văn (diễn dịch, quy nạp, móc xích…).
+ Đảm bảo dung lượng khoảng 200 chữ.
- Xác định đúng vấn đề nghị luận
+ Trình bày suy nghĩ về ý nghĩa của những giá trị văn hóa dân tộc trong mỗi người dân đất Việt.
- Hệ thống ý:
+ Giải thích:
. Giá trị văn hóa dân tộc là những gì tốt đẹp, bền vững được hình thành qua lịch sử: phong tục, tín ngưỡng, ẩm thực, lối sống, ngôn ngữ, nghệ thuật, cách ứng xử…
. Những giá trị ấy tạo nên bản sắc riêng, là “linh hồn” của dân tộc Việt.
+ Bàn luận – Ý nghĩa của giá trị văn hóa dân tộc
. Là cội nguồn tinh thần giúp con người hiểu về gốc rễ, tự hào về dân tộc.
. Là sợi dây kết nối các thế hệ, gắn bó con người với quê hương, đất nước.
. Là động lực và nền tảng để dân tộc phát triển, giữ vững bản sắc giữa thời kỳ hội nhập.
. Người biết trân trọng giá trị văn hóa dân tộc sẽ sống có bản lĩnh, nhân ái, biết yêu thương và hướng thiện.
- Phát triển đoạn văn logic, thuyết phục
+ Dẫn chứng từ văn bản để minh chứng cho nhận định.
+ Thể hiện rõ suy nghĩ, quan điểm về ý nghĩa của những giá trị văn hóa dân tộc trong mỗi người dân đất Việt.
- Đảm bảo ngữ pháp, liên kết:
+ Trình bày rõ ràng, mạch lạc, không mắc lỗi chính tả.
- Sáng tạo
+ Cách diễn đạt mới mẻ, có suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận.
Đoạn văn tham khảo
Văn bản Thương nhớ mười hai của Vũ Bằng gợi lên trong lòng người đọc vẻ đẹp tinh tế và sâu lắng của mùa xuân Bắc Việt, từ đó khơi dậy tình yêu và niềm tự hào về những giá trị văn hóa dân tộc. Giá trị văn hóa dân tộc là những tinh hoa được cha ông ta tạo dựng và lưu truyền qua nhiều thế hệ: đó là phong tục, lối sống, tín ngưỡng, tiếng nói, nếp nghĩ, là linh hồn của mỗi dân tộc. Với người Việt Nam, những giá trị ấy góp phần hình thành nhân cách, nuôi dưỡng tình yêu quê hương và giúp ta nhận ra cội nguồn của mình. Trong nhịp sống hiện đại, chính văn hóa dân tộc là nền tảng giúp con người không hòa tan, không đánh mất bản sắc giữa muôn màu văn hóa thế giới. Ngược lại, thờ ơ hay quên lãng những giá trị ấy đồng nghĩa với việc đánh mất một phần bản thân. Mỗi người Việt, đặc biệt là thế hệ trẻ, cần trân trọng, giữ gìn và lan tỏa vẻ đẹp văn hóa dân tộc – bởi đó là dòng máu, là linh hồn và là niềm tự hào thiêng liêng của đất nước.
Lời giải
Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.
Lời giải
Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.
Lời giải
Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.
Lời giải
Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.