NHÀ THƠ THIÊN TÀI DÂN TỘC NGUYỄN DU (Trích)
(Xuân Diệu)
[…]
Nguyễn Du dùng hiện thực phê bình dựng những nhân vật phản phái, vẽ bọn chúng rất xấu, mặc dầu có khi cho chúng một cái hình thù “coi được” như Mã Giám Sinh: “mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao”. Nhưng đến khi dựng những nhân vật chính diện, thì Nguyễn Du phải dùng ngòi bút vừa hiện thực, vừa lãng mạn. Cái bút pháp này, chúng ta đã thấy Nguyễn Du dùng cho Kim Trọng là một nhân vật Nguyễn Du quý mến, nhưng chưa phải đã gửi tâm sự của mình vào. Những nhân vật Nguyễn Du gửi tâm sự, hoài vọng của mình vào là Thúy Kiều và Từ Hải. Nguyễn Du yêu mến họ như xương thịt mình, đem hết bút lực tài tình mà vẽ họ. Vẽ họ đẹp đến nỗi, phong phú và tổng hợp đến nỗi tất cả những nhân vật khác, ta đều có thể lấy tên mà đặt cho người trong đời thường: mụ ấy là Tú Bà, chàng kia là Kim Trọng, cô nọ là Thúy Vân, đến một anh con trai có hai người chị đẹp, thì chúng bạn gọi anh là Vương Quan; nhưng chẳng bao giờ ai có thể gọi ai trong đời thường cô ấy là Thúy Kiều, hay chàng ấy là Từ Hải! Với Kiều, với Từ, đã là ngòi bút lãng mạn phượng múa rồng bay, đã là mở cửa cho mộng tưởng, cho lý tưởng từ xa xăm về hòa thành sự sống. Thúy Kiều là kết tinh của tài hoa, Từ Hải là kết tinh của khí phách. Thúy Kiều là “tiếng hạc bay qua”, là “hoa trôi man mác”, là “tay tiên gió táp mưa sa”,… bao nhiêu cái gì ước mơ xinh đẹp mà chưa có, là thành Thúy Kiều. Từ Hải là “gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo”, là “dọc ngang nào biết trên đầu có ai”, là “những phường giá áo túi cơm sá gì”, bao nhiêu đạp phá, sảng khoái, vẫy vùng, là thành Từ Hải. Nhưng hai cái lãng mạn tuyệt vời ấy luôn luôn vẫn rất thực. Mỗi lời nàng Kiều nói đều gắn vào đời sống; nàng đã lấy cái chân thực mà trả cái nợ đời thực, chìm nổi khổ nhục như nàng Kiều, thì ai nghĩ đến cũng phải ghê người. Còn Từ Hải “dọc ngang trời rộng, vẫy vùng biển khơi” như thế, thì Nguyễn Du, ở trong thời đại của ông, không có cách nào giải quyết hơn cách trong “Truyện Kiều” đâu! […]
(Trích Nhà thơ thiên tài dân tộc Nguyễn Du, Xuân Diệu, in trong Bình luận các nhà thơ cổ điển Việt Nam, Nxb Trẻ, Hà Nội, 2006)
Chỉ ra phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong đoạn trích?
NHÀ THƠ THIÊN TÀI DÂN TỘC NGUYỄN DU (Trích)
(Xuân Diệu)
[…]
Nguyễn Du dùng hiện thực phê bình dựng những nhân vật phản phái, vẽ bọn chúng rất xấu, mặc dầu có khi cho chúng một cái hình thù “coi được” như Mã Giám Sinh: “mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao”. Nhưng đến khi dựng những nhân vật chính diện, thì Nguyễn Du phải dùng ngòi bút vừa hiện thực, vừa lãng mạn. Cái bút pháp này, chúng ta đã thấy Nguyễn Du dùng cho Kim Trọng là một nhân vật Nguyễn Du quý mến, nhưng chưa phải đã gửi tâm sự của mình vào. Những nhân vật Nguyễn Du gửi tâm sự, hoài vọng của mình vào là Thúy Kiều và Từ Hải. Nguyễn Du yêu mến họ như xương thịt mình, đem hết bút lực tài tình mà vẽ họ. Vẽ họ đẹp đến nỗi, phong phú và tổng hợp đến nỗi tất cả những nhân vật khác, ta đều có thể lấy tên mà đặt cho người trong đời thường: mụ ấy là Tú Bà, chàng kia là Kim Trọng, cô nọ là Thúy Vân, đến một anh con trai có hai người chị đẹp, thì chúng bạn gọi anh là Vương Quan; nhưng chẳng bao giờ ai có thể gọi ai trong đời thường cô ấy là Thúy Kiều, hay chàng ấy là Từ Hải! Với Kiều, với Từ, đã là ngòi bút lãng mạn phượng múa rồng bay, đã là mở cửa cho mộng tưởng, cho lý tưởng từ xa xăm về hòa thành sự sống. Thúy Kiều là kết tinh của tài hoa, Từ Hải là kết tinh của khí phách. Thúy Kiều là “tiếng hạc bay qua”, là “hoa trôi man mác”, là “tay tiên gió táp mưa sa”,… bao nhiêu cái gì ước mơ xinh đẹp mà chưa có, là thành Thúy Kiều. Từ Hải là “gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo”, là “dọc ngang nào biết trên đầu có ai”, là “những phường giá áo túi cơm sá gì”, bao nhiêu đạp phá, sảng khoái, vẫy vùng, là thành Từ Hải. Nhưng hai cái lãng mạn tuyệt vời ấy luôn luôn vẫn rất thực. Mỗi lời nàng Kiều nói đều gắn vào đời sống; nàng đã lấy cái chân thực mà trả cái nợ đời thực, chìm nổi khổ nhục như nàng Kiều, thì ai nghĩ đến cũng phải ghê người. Còn Từ Hải “dọc ngang trời rộng, vẫy vùng biển khơi” như thế, thì Nguyễn Du, ở trong thời đại của ông, không có cách nào giải quyết hơn cách trong “Truyện Kiều” đâu! […]
(Trích Nhà thơ thiên tài dân tộc Nguyễn Du, Xuân Diệu, in trong Bình luận các nhà thơ cổ điển Việt Nam, Nxb Trẻ, Hà Nội, 2006)
Chỉ ra phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong đoạn trích?
Quảng cáo
Trả lời:
Phương thức biểu đạt chính: Nghị luận
Câu hỏi cùng đoạn
Câu 2:
Đoạn trích trên bàn về tác phẩm nào của Nguyễn Du?
Đoạn trích trên bàn về tác phẩm nào của Nguyễn Du?
Truyện Kiều
Câu 3:
Để tăng tính thuyết phục, tác giả đã sử dụng cách nào?
Để tăng tính thuyết phục, tác giả đã sử dụng cách nào?
Kết hợp lí lẽ với dẫn chứng.
Câu 4:
Những nhân vật nào mà theo tác giả là Nguyễn Du đã “đem hết bút lực tài tình mà vẽ họ”?
Những nhân vật nào mà theo tác giả là Nguyễn Du đã “đem hết bút lực tài tình mà vẽ họ”?
Từ Hải và Thúy Kiều
Câu 5:
Để dựng các nhân vật chính diện, Nguyễn Du đã sử dụng kết hợp những bút pháp nào?
Để dựng các nhân vật chính diện, Nguyễn Du đã sử dụng kết hợp những bút pháp nào?
Hiện thực và lãng mạn
Câu 6:
Khái quát nội dung của đoạn trích.
Bút pháp tả thực và lãng mạn trong “Truyện Kiều”
Câu 7:
Mục đích chính của tác giả trong đoạn trích là gì?
Mục đích chính của tác giả trong đoạn trích là gì?
Ca ngợi tài năng của Nguyễn Du.
Câu 8:
Kể tên hai đoạn trích thuộc “Truyện Kiều” mà anh/ chị đã được học hoặc được đọc?
Kể tên hai đoạn trích thuộc “Truyện Kiều” mà anh/ chị đã được học hoặc được đọc?
Hai đoạn trích khác (tham khảo):
- Chị em Thúy Kiều
- Kiều ở lầu Ngưng Bích
Câu 9:
Anh/ chị hiểu thế nào về bút pháp tả thực và bút pháp lãng mạn được tác giả nói tới trong đoạn trích?
Anh/ chị hiểu thế nào về bút pháp tả thực và bút pháp lãng mạn được tác giả nói tới trong đoạn trích?
- Bút pháp tả thực: miêu tả lại nhân vật theo đúng với đặc điểm mà nó có trong thực tế
- Bút pháp lãng mạn: miêu tả nhân vật với diện mạo và tính cách hơn người, thường là thậm xưng, lí tưởng hóa, nhằm qua đó thể hiện ước mơ, khát vọng của tác giả
Hot: 1000+ Đề thi cuối kì 1 file word cấu trúc mới 2025 Toán, Văn, Anh... lớp 1-12 (chỉ từ 60k). Tải ngay
- Trọng tâm Hóa học 11 dùng cho cả 3 bộ sách Kết nối, Cánh diều, Chân trời sáng tạo VietJack - Sách 2025 ( 58.000₫ )
- Sách - Sổ tay kiến thức trọng tâm Vật lí 11 VietJack - Sách 2025 theo chương trình mới cho 2k8 ( 45.000₫ )
- Sách lớp 11 - Trọng tâm Toán, Lý, Hóa, Sử, Địa lớp 11 3 bộ sách KNTT, CTST, CD VietJack ( 52.000₫ )
- Sách lớp 10 - Combo Trọng tâm Toán, Văn, Anh và Lí, Hóa, Sinh cho cả 3 bộ KNTT, CD, CTST VietJack ( 75.000₫ )
CÂU HỎI HOT CÙNG CHỦ ĐỀ
Lời giải
Gợi ý:
- Đảm bảo yêu cầu về hình thức, dung lượng
+ Viết đúng hình thức bài văn đầy đủ ba phần Mở bài, Thân bài, Kết bài.
+ Đảm bảo dung lượng khoảng 600 chữ.
- Xác định đúng vấn đề nghị luận: Trình bày suy nghĩ về nghệ thuật miêu tả nhân vật của Nguyễn Du trong Truyện Kiều.
- Lựa chọn được các thao tác lập luận phù hợp; kết hợp nhuần nhuyễn lí lẽ và dẫn chứng; trình bày được hệ thống ý phù hợp theo bố cục ba phần của bài văn nghị luận. Có thể triển khai theo hướng:
* Mở bài:
- Giới thiệu tác giả Xuân Diệu và đoạn trích.
- Nêu vấn đề nghị luận: Nghệ thuật miêu tả nhân vật của Nguyễn Du trong Truyện Kiều vừa hiện thực vừa lãng mạn, thể hiện tài năng và tâm hồn của một thiên tài dân tộc.
* Thân bài:
a. Giải thích vấn đề:
- Nghệ thuật miêu tả nhân vật là cách nhà văn khắc họa hình tượng con người trong tác phẩm, qua đó thể hiện tư tưởng và cảm xúc của mình.
- Với Nguyễn Du, việc xây dựng nhân vật không chỉ là tả người mà là tả đời, tả tâm hồn con người.
b. Phân tích, chứng minh:
- Với nhân vật phản diện: Nguyễn Du sử dụng bút pháp hiện thực phê phán — như Mã Giám Sinh “mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao” — phơi bày sự giả trá, trơ trẽn.
- Với nhân vật chính diện: Ông dùng ngòi bút vừa hiện thực, vừa lãng mạn để khắc họa những con người lý tưởng — đặc biệt là Thúy Kiều và Từ Hải.
+ Thúy Kiều là kết tinh của tài hoa, là “tiếng hạc bay qua”, “hoa trôi man mác”, tượng trưng cho cái đẹp, cái tài, cái khổ của người phụ nữ.
+ Từ Hải là kết tinh của khí phách, “dọc ngang nào biết trên đầu có ai”, biểu tượng của tự do, dám sống và dám hành động.
- Nguyễn Du lý tưởng hóa nhân vật, song vẫn giữ họ trong đời thực — Thúy Kiều vẫn chịu khổ, Từ Hải vẫn phải thất bại — thể hiện cái nhìn nhân văn và hiện thực sâu sắc.
c. Đánh giá, mở rộng:
- Bút pháp kết hợp giữa hiện thực và lãng mạn giúp Nguyễn Du vừa phản ánh xã hội phong kiến mục nát, vừa gửi gắm khát vọng về con người lý tưởng.
- Nghệ thuật ấy thể hiện tấm lòng nhân đạo, tài năng ngôn ngữ và tư tưởng lớn lao của ông — khiến Truyện Kiều vượt thời gian, chạm tới nhân loại.
* Kết bài:
- Khẳng định lại giá trị nghệ thuật miêu tả nhân vật của Nguyễn Du.
- Liên hệ: Bút pháp của ông là bài học cho người nghệ sĩ mọi thời — cần yêu thương con người và sáng tạo bằng trái tim.
Bài viết tham khảo
Nguyễn Du là một thiên tài của văn học dân tộc, người đã đưa Truyện Kiều trở thành đỉnh cao của ngôn ngữ và nghệ thuật Việt Nam. Trong bài viết “Nhà thơ thiên tài dân tộc Nguyễn Du”, Xuân Diệu đã nhận định: khi miêu tả nhân vật chính diện, Nguyễn Du dùng ngòi bút vừa hiện thực vừa lãng mạn, gửi gắm tâm sự và hoài vọng của chính mình vào hình tượng Thúy Kiều và Từ Hải. Qua nhận xét ấy, ta thấy rõ nghệ thuật miêu tả nhân vật của Nguyễn Du mang vẻ đẹp tổng hòa giữa cái thật và cái mơ, giữa đời thường và lý tưởng.
Nghệ thuật miêu tả nhân vật là phương tiện để nhà văn thể hiện cái nhìn và triết lý về con người. Với Nguyễn Du, việc khắc họa nhân vật không chỉ là tả hình dáng, hành động mà còn là miêu tả tâm hồn, số phận. Ông dùng hiện thực phê phán để xây dựng các nhân vật phản diện như Mã Giám Sinh, Tú Bà, Sở Khanh, lột trần bản chất giả dối và đồi bại của xã hội phong kiến. Chỉ một câu “mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao”, Nguyễn Du đã khắc họa chân dung của một kẻ buôn người đội lốt nho sinh - vừa thật, vừa chua chát.
Nhưng khi viết về những nhân vật chính diện, ngòi bút của Nguyễn Du lại thăng hoa với cảm hứng lãng mạn. Thúy Kiều là kết tinh của tài hoa, là “tiếng hạc bay qua”, “hoa trôi man mác”, tượng trưng cho vẻ đẹp thanh cao và số phận bi thương của người phụ nữ tài sắc. Còn Từ Hải là biểu tượng của khí phách anh hùng, “dọc ngang nào biết trên đầu có ai”, là khát vọng tự do, công bằng và khẳng định bản lĩnh con người. Nguyễn Du lý tưởng hóa họ, nhưng không biến họ thành ảo tưởng: Kiều vẫn chịu khổ, Từ Hải vẫn thất bại - bởi đó là sự thật nghiệt ngã của đời sống. Hai nhân vật vừa bước ra từ mộng tưởng, vừa gắn bó chặt chẽ với thực tại.
Sự hòa quyện giữa hiện thực và lãng mạn đã làm nên bút pháp độc đáo của Nguyễn Du. Chính vì vậy, nhân vật của ông không chỉ là sản phẩm của ngòi bút mà là biểu tượng sống động cho nhân phẩm, tình yêu và khát vọng con người. Từ trong nỗi đau của Thúy Kiều, người đọc cảm nhận được tình thương bao la của tác giả; từ khí phách của Từ Hải, ta thấy niềm tin mãnh liệt vào con người lý tưởng.
Có thể nói, nghệ thuật miêu tả nhân vật của Nguyễn Du là đỉnh cao của sự kết hợp giữa cái thật và cái đẹp, giữa hiện thực và lý tưởng. Ông đã dùng ngòi bút nhân đạo và tài hoa để biến những con người bình thường thành bất tử trong văn học. Truyện Kiều vì thế không chỉ là câu chuyện về số phận mà còn là bản trường ca về con người, về tình yêu và lòng nhân ái muôn đời.
Lời giải
Gợi ý:
- Đảm bảo yêu cầu về hình thức, dung lượng
+ Viết đúng hình thức đoạn văn (diễn dịch, quy nạp, móc xích…).
+ Đảm bảo dung lượng khoảng 200 chữ.
- Xác định đúng vấn đề nghị luận: Phân tích mối quan hệ giữa các lí lẽ và bằng chứng trong đoạn trích.
- Hệ thống ý: Lí lẽ và bằng chứng kết hợp chặt chẽ; các bằng chứng được đưa ra rất xác đáng, có tính thuyết phục cao, khiến cho lí lẽ có sức nặng. Điều này được thể hiện rõ nhất khi nói về bút pháp lãng mạn trong việc miêu tả Từ Hải và Thúy Kiều. Tác giả cho rằng Nguyễn Du vẽ họ đẹp đến nỗi ta không thể tìm thấy họ trong đời thực. Tác giả minh chứng:
+ Thúy Kiều là kết tinh của tài hoa; Thúy Kiều là “tiếng hạc bay qua”, là “hoa trôi man mác”, là “tay tiên gió táp mưa sa”,… bao nhiêu cái gì ước mơ xinh đẹp mà chưa có, là thành Thúy Kiều.
+ Từ Hải là kết tinh của khí phách; Từ Hải là “gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo”, là “dọc ngang nào biết trên đầu có ai”, là “những phường giá áo túi cơm sá gì”, bao nhiêu đạp phá, sảng khoái, vẫy vùng, là thành Từ Hải
=> Như vậy, dẫn chứng có độ phù hợp cao, có tính điển hình, tiêu biểu, khiến cho lý lẽ đưa ra có cơ sở vững chắc, không thể chối cãi.
- Phát triển đoạn văn logic, thuyết phục
+ Dẫn chứng từ bài thơ để minh chứng cho nhận định.
+ Phân tích rõ mối quan hệ giữa các lí lẽ và bằng chứng trong đoạn trích.
- Đảm bảo ngữ pháp, liên kết:
+ Trình bày rõ ràng, mạch lạc, không mắc lỗi chính tả.
- Sáng tạo
+ Cách diễn đạt mới mẻ, có suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận.
Đoạn văn tham khảo
Trong đoạn trích Nhà thơ thiên tài dân tộc Nguyễn Du của Xuân Diệu, mối quan hệ giữa lí lẽ và bằng chứng được thể hiện chặt chẽ, logic và có tính thuyết phục cao. Tác giả nêu luận điểm trung tâm rằng khi khắc họa các nhân vật chính diện như Thúy Kiều và Từ Hải, Nguyễn Du đã vận dụng bút pháp vừa hiện thực vừa lãng mạn, thể hiện rõ tình cảm, lý tưởng và hoài bão của mình. Để làm sáng tỏ luận điểm ấy, Xuân Diệu đưa ra hàng loạt dẫn chứng giàu sức gợi: Thúy Kiều là “tiếng hạc bay qua”, “hoa trôi man mác”, “tay tiên gió táp mưa sa”, là kết tinh của tài hoa; còn Từ Hải là “gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo”, “dọc ngang nào biết trên đầu có ai”, là kết tinh của khí phách. Những hình ảnh và trích dẫn từ Truyện Kiều vừa cụ thể, vừa giàu giá trị biểu tượng, giúp người đọc cảm nhận được vẻ đẹp lý tưởng mà Nguyễn Du gửi gắm. Nhờ sự kết hợp hài hòa giữa lí lẽ sâu sắc và bằng chứng tiêu biểu, lập luận của Xuân Diệu trở nên có sức nặng, thuyết phục, đồng thời khẳng định tài năng, tấm lòng và bút pháp bậc thầy của Nguyễn Du trong việc xây dựng hình tượng nhân vật.
Lời giải
Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.
Lời giải
Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.
Lời giải
Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.
Lời giải
Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.