TIÊN BỬU (Trích)
GIÁO ĐẦU:      
Từ Lương1 giang quê ngụ,
Thiếp mỹ hiệu Bửu Tiên.
Thung đường2 đã sớm cách suối vàng.
Nguyên thất3 hãy náu nương nhà bạc.
(Ai đi) Đoái gia đạo tự cơ hàn khiếm khuyết,
(Còn) Nhìn từ thân4 lụy nhỏ chứa chan.
(Như tôi là) Buồn riêng than hổ phận nữ nhi.
(Tôi biết) Lấy chi trả mười ơn cốt nhục?
(Vậy thôi thời) Kíp vào nơi thảo thất5
Trình từ thân tỏ nỗi thủy chung,
Phận cơ hàn phải chịu gian nan.
MẸ BỬU: (Ớ con ôi!) Con vào phòng mẹ,
Tối tăm là vậy
Có chuyện chi hay không (vậy a con?)
TIÊN BỬU:  
(Dạ dám thưa mẹ) Cúi bày lời ấu nữ6,
Cho tỏ dạ mẫu thân
Xin cho con xuống chốn Giang Tân7,
(Đặng mà) Con lập thuyền chiếc đưa đò đỡ bữa (a mẹ).
MẸ BỬU:     
(Con ôi !)
Thời con đà quyết dạ
Mẹ dễ phiền lòng
(Bớ con ôi !)
Nay mà con xuống chốn Giang Tân,
(Thôi thơi nghe lời mẹ dặn nghe con).
Phải nhớ câu trinh nữ chi ca8,
(Con đừng học thói)
Dâm khuê9 chi vịnh10
(Cho nhớ đừng có quên nghe không con!)
TIÊN BỬU:  
(Dạ dám thưa mẹ)
Khắn khắn vâng lời vàng đá,
Khăng khăng tạc dạ sắt đinh.
Lạy mẫu từ ở lại lều tranh
Cho ấu nữ Giang Tân đưa khách.
Hát nam:
Ấu nữ Giang Tân đưa khách,
Cúi đầu từ huyên thất dời chân.
MẸ BỬU:     
(Con ôi ! Con có đi thì nghe mẹ dặn)
Thời sách có chữ rằng:
Gia bần tri hiếu tử11
Quốc loạn thức trung thần12
(Con còn nhớ không con?)
Hát nam:
Thương vì con trẻ thơ ngây,
Dầm sương trải gió nào nguôi lòng già13.
TIÊN BỬU:
(Dám thưa mẹ như con nay là)
Nghiêng mình lạy tạ mẫu thân,
Giang Tân con tới thảo trang14 mẹ hồi15
MẸ BỬU:     
(Con có đi thời nhớ lời mẹ dặn, chẳng can chi mà
Con phòng sợ, thời sách có chữ rằng):
Tử sanh hữu mạng16
(Còn) Phú quý tại thiên17 (đó con!)
Hát nam:
Dứt tình phân rẽ đôi phương,
Giang Tân con tới thảo trang mẹ hồi
(Thôi con tới)
TIÊN BỬU: (Mẫu thân à)
Mẫu thân đà trở lại thảo trang.
Âu ta kíp trông chừng Giang quận18,
Hát nam:     
Giang quận âu ta mau kíp,
Quyết một lòng giữ đạo thảo ngay.
Riêng thân phận gái nữ nhi,
Ba năm19
chưa trả mười ơn lăm đền,
Mảng còn than thở sự tình
Phút đâu lố thấy Giang Tân hầu gần.  
(Trích tuồng Tiên Bửu,Theo Tổng tập văn học Việt Nam, tập 12, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 2000)
Chú thích:
1. Từ Lương giang hoặc Lương giang: không rõ địa hạt nào. Đây phiếm chỉ một địa điểm làm quê quán nhân vật.
2. Thung đường: tức xuân đường chỉ ông bố.
3. Nguyên thất: (phiên lầm chữ, huyên thất, chỉ bà mẹ. Người ta thường gọi cha mẹ là xuân huyên. “Xuân huyên hai khóm tốt tươi”. “Xuân đường kịp gọi Sinh về hộ tang”. “Nhà huyên chợt tỉnh, hỏi cơn cớ gì?”…Truyện Kiều).
4. Từ thân: mẹ hiền.
5. Thảo thất: nhà cỏ, nhà tranh.
6. Ấu nữ: con gái còn nhỏ tuổi.
7. Giang Tân: bến sông.
8. Trinh nữ chi ca: lời ca người con gái đứng đắn.
9. Nguyên bản: khê
10. Dâm khuê chi vịnh: lời vè người con gái lẳng lơ. Dâm khuê: Buồng hư hỏng của một cô gái nào đó.
11. Gia bần chi hiếu tử: nhà nghèo mới biết con hiếu thảo.
12. Quốc loạn thức trung thần: nước loạn mới biết tôi trung thành.
13. Nguyên bản: dầm sường trải gió lòng già nào nguôi.
14. Thảo trang: cũng như thảo thất, thảo lư, thảo xá…đều là nói nhà tranh, nhà cỏ.
15. Nguyên bản: Giang Tân con tới thảo lư mẹ hồi.
                                            
                                                                                
Văn bản trên thuộc loại hình nghệ thuật nào?
                                    
                                                                                                                        TIÊN BỬU (Trích)
GIÁO ĐẦU:
Từ Lương1 giang quê ngụ,
Thiếp mỹ hiệu Bửu Tiên.
Thung đường2 đã sớm cách suối vàng.
Nguyên thất3 hãy náu nương nhà bạc.
(Ai đi) Đoái gia đạo tự cơ hàn khiếm khuyết,
(Còn) Nhìn từ thân4 lụy nhỏ chứa chan.
(Như tôi là) Buồn riêng than hổ phận nữ nhi.
(Tôi biết) Lấy chi trả mười ơn cốt nhục?
(Vậy thôi thời) Kíp vào nơi thảo thất5
Trình từ thân tỏ nỗi thủy chung,
Phận cơ hàn phải chịu gian nan.
MẸ BỬU: (Ớ con ôi!) Con vào phòng mẹ,
Tối tăm là vậy
Có chuyện chi hay không (vậy a con?)
TIÊN BỬU:
(Dạ dám thưa mẹ) Cúi bày lời ấu nữ6,
Cho tỏ dạ mẫu thân
Xin cho con xuống chốn Giang Tân7,
(Đặng mà) Con lập thuyền chiếc đưa đò đỡ bữa (a mẹ).
MẸ BỬU:
(Con ôi !)
Thời con đà quyết dạ
Mẹ dễ phiền lòng
(Bớ con ôi !)
Nay mà con xuống chốn Giang Tân,
(Thôi thơi nghe lời mẹ dặn nghe con).
Phải nhớ câu trinh nữ chi ca8,
(Con đừng học thói)
Dâm khuê9 chi vịnh10
(Cho nhớ đừng có quên nghe không con!)
TIÊN BỬU:
(Dạ dám thưa mẹ)
Khắn khắn vâng lời vàng đá,
Khăng khăng tạc dạ sắt đinh.
Lạy mẫu từ ở lại lều tranh
Cho ấu nữ Giang Tân đưa khách.
Hát nam:
Ấu nữ Giang Tân đưa khách,
Cúi đầu từ huyên thất dời chân.
MẸ BỬU:
(Con ôi ! Con có đi thì nghe mẹ dặn)
Thời sách có chữ rằng:
Gia bần tri hiếu tử11
Quốc loạn thức trung thần12
(Con còn nhớ không con?)
Hát nam:
Thương vì con trẻ thơ ngây,
Dầm sương trải gió nào nguôi lòng già13.
TIÊN BỬU:
(Dám thưa mẹ như con nay là)
Nghiêng mình lạy tạ mẫu thân,
Giang Tân con tới thảo trang14 mẹ hồi15
MẸ BỬU:
(Con có đi thời nhớ lời mẹ dặn, chẳng can chi mà
Con phòng sợ, thời sách có chữ rằng):
Tử sanh hữu mạng16
(Còn) Phú quý tại thiên17 (đó con!)
Hát nam:
Dứt tình phân rẽ đôi phương,
Giang Tân con tới thảo trang mẹ hồi
(Thôi con tới)
TIÊN BỬU: (Mẫu thân à)
Mẫu thân đà trở lại thảo trang.
Âu ta kíp trông chừng Giang quận18,
Hát nam:
Giang quận âu ta mau kíp,
Quyết một lòng giữ đạo thảo ngay.
Riêng thân phận gái nữ nhi,
Ba năm19
chưa trả mười ơn lăm đền,
Mảng còn than thở sự tình
Phút đâu lố thấy Giang Tân hầu gần.
(Trích tuồng Tiên Bửu,Theo Tổng tập văn học Việt Nam, tập 12, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 2000)
Chú thích:
1. Từ Lương giang hoặc Lương giang: không rõ địa hạt nào. Đây phiếm chỉ một địa điểm làm quê quán nhân vật.
2. Thung đường: tức xuân đường chỉ ông bố.
3. Nguyên thất: (phiên lầm chữ, huyên thất, chỉ bà mẹ. Người ta thường gọi cha mẹ là xuân huyên. “Xuân huyên hai khóm tốt tươi”. “Xuân đường kịp gọi Sinh về hộ tang”. “Nhà huyên chợt tỉnh, hỏi cơn cớ gì?”…Truyện Kiều).
4. Từ thân: mẹ hiền.
5. Thảo thất: nhà cỏ, nhà tranh.
6. Ấu nữ: con gái còn nhỏ tuổi.
7. Giang Tân: bến sông.
8. Trinh nữ chi ca: lời ca người con gái đứng đắn.
9. Nguyên bản: khê
10. Dâm khuê chi vịnh: lời vè người con gái lẳng lơ. Dâm khuê: Buồng hư hỏng của một cô gái nào đó.
11. Gia bần chi hiếu tử: nhà nghèo mới biết con hiếu thảo.
12. Quốc loạn thức trung thần: nước loạn mới biết tôi trung thành.
13. Nguyên bản: dầm sường trải gió lòng già nào nguôi.
14. Thảo trang: cũng như thảo thất, thảo lư, thảo xá…đều là nói nhà tranh, nhà cỏ.
15. Nguyên bản: Giang Tân con tới thảo lư mẹ hồi.
Văn bản trên thuộc loại hình nghệ thuật nào?
Quảng cáo
Trả lời:
Văn bản trên thuộc loại hình nghệ thuật: Sân khấu dân gian.
Câu hỏi cùng đoạn
Câu 2:
                                                
Dựa vào phần Giáo đầu hãy nêu hoàn cảnh của nhân vật Bửu Tiên.
                                            
                                                                                    Dựa vào phần Giáo đầu hãy nêu hoàn cảnh của nhân vật Bửu Tiên.
Hoàn cảnh của nhân vật Bửu Tiên:
– Nhà nghèo
– Cha mất sớm.
Câu 3:
                                                
Theo anh/ chị, tại sao người mẹ lại phiền lòng khi nghe quyết định của Bửu Tiên?
                                            
                                                                                    Theo anh/ chị, tại sao người mẹ lại phiền lòng khi nghe quyết định của Bửu Tiên?
Người mẹ lại phiền lòng khi nghe quyết định của Bửu Tiên vì:
– Bửu Tiên một thân một mình quyết định đi chèo đò ở Giang Tân để kiếm tiền nuôi mẹ.
– Công việc chèo đò rất vất vả, người mẹ rất quan tâm, lo lắng cho Bửu Tiên.
Câu 4:
                                                
Anh/ chị hiểu thế nào về câu người mẹ nói với Bửu Tiên:
(Con ôi ! Con có đi thì nghe mẹ dặn)
Thời sách có chữ rằng:
Gia bần tri hiếu tử11
Quốc loạn thức trung thần12
(Con còn nhớ không con?)
                                            
                                                                                    Anh/ chị hiểu thế nào về câu người mẹ nói với Bửu Tiên:
(Con ôi ! Con có đi thì nghe mẹ dặn)
Thời sách có chữ rằng:
Gia bần tri hiếu tử11
Quốc loạn thức trung thần12
(Con còn nhớ không con?)
Câu người mẹ nói với Bửu Tiên được hiểu là:
– Người mẹ muốn Bửu Tiên nhớ lời trong sách nói: nhà nghèo mới biết con hiếu thảo, nước loạn mới biết bề tôi trung thành.
– Bà hiểu tấm lòng hiếu thảo, lo lắng cho cha mẹ của Bửu Tiên.
Câu 5:
                                                
Bài học mà anh/ chị rút ra được từ cách ứng xử của Bửu Tiên đối với cha mẹ trong đoạn văn bản trên?
                                            
                                                                                    Bài học mà anh/ chị rút ra được từ cách ứng xử của Bửu Tiên đối với cha mẹ trong đoạn văn bản trên?
– Tấm lòng của Bửu Tiên với cha mẹ rất đáng được ngợi ca và học tập.
– Bản thân mỗi người cần biết trân trọng, hiếu thảo với cha mẹ…
Hot: 1000+ Đề thi giữa kì 1 file word cấu trúc mới 2025 Toán, Văn, Anh... lớp 1-12 (chỉ từ 60k). Tải ngay
- Trọng tâm Toán, Văn, Anh 10 cho cả 3 bộ KNTT, CTST, CD VietJack - Sách 2025 ( 13.600₫ )
 - Sách - Sổ tay kiến thức trọng tâm Vật lí 10 VietJack - Sách 2025 theo chương trình mới cho 2k9 ( 31.000₫ )
 - Sách lớp 10 - Combo Trọng tâm Toán, Văn, Anh và Lí, Hóa, Sinh cho cả 3 bộ KNTT, CD, CTST VietJack ( 75.000₫ )
 - Sách lớp 11 - Trọng tâm Toán, Lý, Hóa, Sử, Địa lớp 11 3 bộ sách KNTT, CTST, CD VietJack ( 52.000₫ )
 
CÂU HỎI HOT CÙNG CHỦ ĐỀ
Lời giải
Gợi ý:
- Đảm bảo yêu cầu về hình thức, dung lượng
+ Viết đúng hình thức đoạn văn (diễn dịch, quy nạp, móc xích…).
+ Đảm bảo dung lượng khoảng 200 chữ.
- Xác định đúng vấn đề nghị luận: Trình bày suy nghĩ về phẩm hạnh của người phụ nữ Việt Nam trong xã hội xưa.
- Hệ thống ý: Trong xã hội phong kiến, người phụ nữ thường phải sống theo chuẩn mực “tam tòng tứ đức”, chịu nhiều thiệt thòi nhưng vẫn giữ lòng hiếu thảo, thủy chung, đảm đang” thông qua nhân vật Tiên Bửu hiện lên với:
+ Tấm lòng hiếu thảo với mẹ (“xin cho con xuống chốn Giang Tân… đặng mà con lập thuyền chiếc đưa đò đỡ bữa”).
+ Đức hạnh trong sáng, thủy chung: nghe lời mẹ dặn “phải nhớ câu trinh nữ chi ca”, “đừng học thói dâm khuê chi vịnh”.
+ Tinh thần chịu khó, đảm đang, sẵn sàng vất vả lao động để giúp mẹ, thể hiện ý thức tự lập, tự trọng.
=> Tiên Bửu là hình ảnh tiêu biểu cho người phụ nữ Việt Nam xưa — giàu tình cảm, hiếu nghĩa, sống có nhân phẩm dù trong cảnh cơ hàn.
- Phát triển đoạn văn logic, thuyết phục
+ Dẫn chứng từ bài thơ để minh chứng cho nhận định.
+ Thể hiện rõ suy nghĩ về phẩm hạnh của người phụ nữ Việt Nam trong xã hội xưa.
- Đảm bảo ngữ pháp, liên kết:
+ Trình bày rõ ràng, mạch lạc, không mắc lỗi chính tả.
- Sáng tạo
+ Cách diễn đạt mới mẻ, có suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận.
Đoạn văn tham khảo
Đọc đoạn trích tuồng Tiên Bửu, ta bắt gặp hình ảnh người con gái hiền thảo, nết na, giàu tình mẫu tử – biểu tượng đẹp của phẩm hạnh phụ nữ Việt Nam xưa. Tiên Bửu sinh ra trong cảnh nghèo khó nhưng luôn giữ trọn lòng hiếu kính với mẹ. Cô xin phép mẹ được xuống Giang Tân lập thuyền đưa đò để giúp đỡ gia đình. Trước khi đi, nàng lắng nghe từng lời dạy của mẹ: phải giữ đạo trinh nữ, sống đoan chính, không sa vào cám dỗ. Lời đối đáp của Tiên Bửu thể hiện sự lễ phép, ngoan hiền, quyết tâm vâng lời, “khắn khắn vâng lời vàng đá, khăng khăng tạc dạ sắt đinh”. Qua đó, người đọc cảm nhận sâu sắc vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ Việt: hiếu thảo, thủy chung, đảm đang và đầy nhân nghĩa. Dù phải chịu nhiều thiệt thòi trong xã hội phong kiến, họ vẫn giữ gìn phẩm giá như một viên ngọc sáng. Ngày nay, người phụ nữ hiện đại tiếp nối truyền thống ấy, vừa giữ gìn đức hạnh, vừa khẳng định trí tuệ và bản lĩnh trong cuộc sống.
Lời giải
Gợi ý:
- Đảm bảo yêu cầu về hình thức, dung lượng
+ Viết đúng hình thức bài văn đầy đủ ba phần Mở bài, Thân bài, Kết bài.
+ Đảm bảo dung lượng khoảng 600 chữ.
- Xác định đúng vấn đề nghị luận: Trình bày suy nghĩ về giá trị của tình mẫu tử và đạo hiếu trong gia đình Việt Nam truyền thống, được thể hiện qua nhân vật Tiên Bửu.
- Lựa chọn được các thao tác lập luận phù hợp; kết hợp nhuần nhuyễn lí lẽ và dẫn chứng; trình bày được hệ thống ý phù hợp theo bố cục ba phần của bài văn nghị luận. Có thể triển khai theo hướng:
* Mở bài:
- Giới thiệu khái quát về tuồng cổ Việt Nam – thể loại nghệ thuật dân gian mang giá trị nhân văn sâu sắc.
- Giới thiệu đoạn trích Tiên Bửu – câu chuyện cảm động về tình mẹ con và lòng hiếu thảo của người con gái trong cảnh nghèo.
- Dẫn dắt đến vấn đề nghị luận: Giá trị của tình mẫu tử và đạo hiếu trong gia đình Việt truyền thống.
* Thân bài:
a. Khái quát nội dung đoạn trích:
- Tiên Bửu – cô gái nghèo mồ côi cha, sống cùng mẹ trong cảnh cơ hàn.
- Vì thương mẹ, cô xin ra bến Giang Tân làm nghề đưa đò để đỡ đần cuộc sống.
- Cuộc đối thoại giữa mẹ và con bộc lộ tình cảm sâu nặng, đầy nhân nghĩa.
b. Biểu hiện của tình mẫu tử và đạo hiếu:
→ Tình mẫu tử sâu sắc, bao dung:
- Người mẹ nghèo lo lắng cho con khi phải ra đời, dặn dò bằng những lời tha thiết, chân tình.
- Mẹ không chỉ thương con mà còn dạy con giữ nếp sống trong sạch, đạo hạnh (“Phải nhớ câu trinh nữ chi ca…”).
- Qua lời mẹ, ta thấy phẩm chất của người phụ nữ Việt xưa: hiền từ, thấu hiểu, sống vì con.
→ Lòng hiếu thảo, biết ơn của Tiên Bửu:
- Tiên Bửu luôn khiêm nhường, xưng “ấu nữ”, “dạ dám thưa mẹ”, thể hiện sự kính trọng, biết ơn.
- Cô không quản vất vả, quyết chí làm việc để phụ giúp mẹ (“Con lập thuyền chiếc đưa đò đỡ bữa”).
- Tình cảm ấy là biểu hiện của đạo hiếu – một trong những giá trị đạo đức cốt lõi của người Việt.
c. Ý nghĩa tư tưởng – giá trị nhân văn:
- Đoạn trích ca ngợi tình mẫu tử thiêng liêng, đề cao đạo hiếu và đạo làm người.
- Thông qua lời dạy của người mẹ và hành động của người con, tác phẩm khẳng định:
→ Hiếu thảo không chỉ là nghĩa vụ mà là tình cảm tự nhiên, chân thật, bền vững.
→ Gia đình là cội nguồn nuôi dưỡng đạo đức, nhân cách con người Việt Nam.
d. Liên hệ mở rộng – bài học hiện nay:
- Trong xã hội hiện đại, đôi khi con người mải mê với công việc, ít quan tâm, chăm sóc cha mẹ.
- Bài học từ Tiên Bửu nhắc nhở thế hệ trẻ cần biết trân trọng công sinh thành, nuôi dưỡng lòng hiếu thảo bằng hành động cụ thể: yêu thương, chăm sóc, biết ơn cha mẹ.
* Kết bài:
- Khẳng định: Tiên Bửu là một khúc ca đẹp về tình mẫu tử, một minh chứng cho sức sống của đạo hiếu trong tâm hồn Việt.
- Liên hệ bản thân: mỗi người trẻ hôm nay cần tiếp nối truyền thống ấy, để tình yêu thương trong gia đình mãi là nền tảng của xã hội nhân văn, tốt đẹp.
Bài viết tham khảo
Trong kho tàng văn học dân tộc, tuồng cổ là thể loại sân khấu dân gian không chỉ phục vụ giải trí mà còn chuyển tải những bài học đạo lý sâu sắc. Đoạn trích Tiên Bửu là một minh chứng tiêu biểu. Câu chuyện giữa người mẹ già nghèo khổ và người con gái nhỏ Tiên Bửu đã làm hiện lên hình ảnh xúc động về tình mẫu tử và đạo hiếu – hai giá trị nền tảng của gia đình Việt Nam truyền thống.
Nhân vật Tiên Bửu xuất thân trong cảnh cơ hàn, mồ côi cha từ nhỏ, sống cùng mẹ già trong túp lều tranh. Thấu hiểu nỗi vất vả của mẹ, nàng xin phép ra bến Giang Tân để lập thuyền đưa đò kiếm sống. Trong cuộc trò chuyện ngắn ngủi ấy, từng câu nói, lời đáp giữa hai mẹ con như hòa quyện thành khúc hát tha thiết của tình thương. Người mẹ, dù tuổi đã cao, vẫn hết lòng lo lắng cho con, dặn dò con giữ nếp sống đoan trang, thủy chung, gìn giữ đạo làm người. Lời dạy của bà giản dị mà sâu sắc: “Phải nhớ câu trinh nữ chi ca, con đừng học thói dâm khuê chi vịnh”. Ẩn sau lời răn ấy là nỗi lo lắng và niềm kỳ vọng của một người mẹ Việt Nam xưa – mong con mình dù nghèo khó vẫn giữ phẩm hạnh, sống trung thực và trong sạch.
Trước tấm lòng ấy, Tiên Bửu hiện lên là hình tượng người con gái hiếu thảo, lễ phép và đầy trách nhiệm. Cô luôn xưng “dạ”, “thưa mẹ”, thể hiện sự kính trọng tuyệt đối. Cô không nề gian khổ, sẵn sàng ra sông nước kiếm sống để đỡ đần mẹ, bởi “gia bần tri hiếu tử” – nhà nghèo mới biết ai là người con có hiếu. Nỗi lo, nỗi thương của người con không chỉ là bổn phận mà là sự tri ân sâu nặng. Đó là đạo lý “uống nước nhớ nguồn”, “hiếu nghĩa vẹn toàn” mà bao thế hệ người Việt luôn trân quý.
Qua Tiên Bửu, tác phẩm không chỉ kể một câu chuyện gia đình mà còn khắc họa một bài học nhân sinh sâu xa: tình mẹ con là sợi dây thiêng liêng gắn kết con người, là nền tảng để hình thành nhân cách và đạo đức. Trong xã hội hiện đại, khi cuộc sống hối hả dễ khiến người ta quên đi những giá trị cội nguồn, bài học ấy càng có ý nghĩa hơn bao giờ hết. Mỗi người trẻ hôm nay cần học lấy tấm lòng của Tiên Bửu – biết thương, biết kính, biết hiếu thảo – để gìn giữ hạnh phúc gia đình và bồi đắp văn hóa dân tộc.
Tình mẹ bao la như biển, lòng con hiếu thuận như nguồn nước ngọt mát lành. Tiên Bửu chính là khúc hát dịu dàng về đạo làm người, nơi tình mẫu tử và lòng hiếu thảo kết tinh thành ánh sáng nhân nghĩa, soi sáng tâm hồn người Việt muôn đời.
Lời giải
Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.
Lời giải
Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.
Lời giải
Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.
Lời giải
Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.