LẠI THƯ CHO VƯƠNG THÔNG (Trích)
(Nguyễn Trãi)
Tôi nghe: Múc một gáo nước, biển cả không vì thế mà vơi; thêm một gáo nước, biển cả không vì thế mà đầy. Cho nên người dùng binh giỏi không lấy sự thắng nhỏ mà mừng, không lấy sự thua to mà sợ. Nay các ông lấy tàn tốt vài nghìn, giữ một thành trơ trọi, lương sắp hết và viện chưa thấy đến, chúng lìa lòng mà quân ngày ít đi, cái thế mạnh yếu được thua, có thể ngồi mà tính được. Huống hồ nước An – nam binh tướng thì nhiều, tâm lực đều nhau, chiến khí càng tinh, sĩ khí càng mạnh, kẻ sĩ trí mưu, các tướng sĩ vũ dũng, chẳng khác cây rừng rậm rạp, răng lược khít nhau vậy. Các ông có thắng một trận nhỏ cũng không thấy là mạnh; mà ta có thua một trận nhỏ cũng không thấy là yếu.
Vừa rồi mấy người kì tướng của ta, tuổi trẻ tính ngông, không theo ước thúc, khinh chiến lỡ cơ, các ông lấy thế làm đắc chí. Nay đem những tướng hiệu ở các nơi Tân Bình, Thuận Hóa, Diễn, Nghệ cùng ở các sở Tiền Vệ, Tam Giang, Xương Giang, Trần Di (1) và Thái đô đốc cùng các quan Tam ty (2) chỉ huy, thiên bách hộ, ước hơn vài trăm người, quân nhân một vạn vài nghìn người, trai gái lớn nhỏ hơn ba vạn người bị các ông làm lầm lỡ, mà so với vài người tỳ tướng của ta, thì ai hơn ai kém, ai được ai thua? Thế mà ông không hề lấy thế làm lo, lại còn giương vây nói mẽ, có khác gì nhà đương cháy mà chim én còn nhơn nhơn vui vẻ cùng nhau, há chẳng đáng cười lắm sao! Vả nay ở miền Lưỡng
Quảng nghe tin quân ta thừa thắng ruổi dài, bọn đạo tặc đã nhân dịp mà trỗi dậy. Tích Lịch đại vương(3) đã giữ đất xưng đế, mà binh tượng của ta ngày đêm tiến đánh, Bằng tường(4) Long Châu(5) ta đều lấy được. Nay ông vẫn còn ngày ngày mong đợi viện binh mà nói phao là viện binh sắp đến, thì có khác gì trong mộng nói chuyện mộng không? Lại càng đáng cười lắm!
Ngày trước Thái đô đốc và các chỉ huy thiên vạn hộ(6) cùng các quan phủ huyện châu có bảo tôi đem sự lý trong tờ chiếu của Thái tôn hoàng đế cho lập họ Trần để vào Kinh(7) mà tâu bày và tố cáo việc quan Tổng binh không biết trấn thủ Nam phương(8) lại theo kế của người khác, tự gửi văn thư đi thu binh mã các vệ giả làm giảng hòa rồi thì bội ước để đến nỗi bọn ấy nhao nhao kêu la thất sở. Song tôi nghĩ cứ tờ tâu ngày trước bắt được thì thấy tổng binh đại nhân thực có lòng thành, chỉ vì bọn họ Phương họ Mã làm mê hoặc mới nên nỗi thế. Bởi vậy lời bàn ấy chưa quyết. Nếu ngài nay lại biết theo lời ước cũ, thì nên cho quân về ngay, cùng hòa giải với Thái đô đốc, vừa để thoát khổ can qua cho cho hai nước, vừa để giải mối oán bị bán rẻ của Thái công. Như thế thì trọn quân mà khỏi họa, há chẳng hay sao! Nhược bằng cứ chấp mê mà giữ đến chết không biết biến thông thì cũng như câu Đường Thái Tôn bảo “tận trung vô ích” (hết trung không ích gì) vậy. Vả kẻ đại trượng phu làm việc nên phải lỗi lạc đường hoàng.
Ngài muốn đánh thủy, thì nên bày hết chiến thuyền ở trên sông để quyết tử chiến, muốn đánh bộ thì nên xuất hết binh mã ra đồng rộng để quyết sống mái tromg một hai ngày, không nên chúi ở xó thành, chợt ra chợt vào, cướp lấy củi cỏ, cho thế là đắc sách. Như thế là việc làm của đàn bà con gái, không phả là việc làm của bậc đại trượng phu!
(Trích Lại thư dụ Vương Thông, Nguyễn Trãi toàn tập, Viện Sử học, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội)
* Chú thích:
(1): Vệ Trần – di đóng ở ải Trấn- di phủ Lạng Sơn, tức ải Chi Lăng thuộc huyện
Chi Lăng, tỉnh Lạng Sơn
(2): Tam ty là cơ quan đứng đầu chính quyền đô hộ của nhà Minh ở nước ta
(3): Tích – lịch đại vương có lẽ là một thủ lĩnh nông dân khởi nghĩa ở vùng
Lưỡng Quảng
(4): Bằng Tường thuộc tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc), gần biên giới nước ta
(5): Long Châu thuộc tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc), gần biên giới nước ta
(6): Trong sách in là binh, nhưng có lẽ in nhầm chữ hộ
(7): Tức là Yên – kinh (Bắc – Kinh), thủ đô của nhà Minh
(8): Trong sách in là Bắc phương thì không hợp. Chúng tôi chữa lại làm Nam phương.
Văn bản Lại thư cho Vương Thông là thuộc sáng tác thuộc thể loại nào?
LẠI THƯ CHO VƯƠNG THÔNG (Trích)
(Nguyễn Trãi)
Tôi nghe: Múc một gáo nước, biển cả không vì thế mà vơi; thêm một gáo nước, biển cả không vì thế mà đầy. Cho nên người dùng binh giỏi không lấy sự thắng nhỏ mà mừng, không lấy sự thua to mà sợ. Nay các ông lấy tàn tốt vài nghìn, giữ một thành trơ trọi, lương sắp hết và viện chưa thấy đến, chúng lìa lòng mà quân ngày ít đi, cái thế mạnh yếu được thua, có thể ngồi mà tính được. Huống hồ nước An – nam binh tướng thì nhiều, tâm lực đều nhau, chiến khí càng tinh, sĩ khí càng mạnh, kẻ sĩ trí mưu, các tướng sĩ vũ dũng, chẳng khác cây rừng rậm rạp, răng lược khít nhau vậy. Các ông có thắng một trận nhỏ cũng không thấy là mạnh; mà ta có thua một trận nhỏ cũng không thấy là yếu.
Vừa rồi mấy người kì tướng của ta, tuổi trẻ tính ngông, không theo ước thúc, khinh chiến lỡ cơ, các ông lấy thế làm đắc chí. Nay đem những tướng hiệu ở các nơi Tân Bình, Thuận Hóa, Diễn, Nghệ cùng ở các sở Tiền Vệ, Tam Giang, Xương Giang, Trần Di (1) và Thái đô đốc cùng các quan Tam ty (2) chỉ huy, thiên bách hộ, ước hơn vài trăm người, quân nhân một vạn vài nghìn người, trai gái lớn nhỏ hơn ba vạn người bị các ông làm lầm lỡ, mà so với vài người tỳ tướng của ta, thì ai hơn ai kém, ai được ai thua? Thế mà ông không hề lấy thế làm lo, lại còn giương vây nói mẽ, có khác gì nhà đương cháy mà chim én còn nhơn nhơn vui vẻ cùng nhau, há chẳng đáng cười lắm sao! Vả nay ở miền Lưỡng
Quảng nghe tin quân ta thừa thắng ruổi dài, bọn đạo tặc đã nhân dịp mà trỗi dậy. Tích Lịch đại vương(3) đã giữ đất xưng đế, mà binh tượng của ta ngày đêm tiến đánh, Bằng tường(4) Long Châu(5) ta đều lấy được. Nay ông vẫn còn ngày ngày mong đợi viện binh mà nói phao là viện binh sắp đến, thì có khác gì trong mộng nói chuyện mộng không? Lại càng đáng cười lắm!
Ngày trước Thái đô đốc và các chỉ huy thiên vạn hộ(6) cùng các quan phủ huyện châu có bảo tôi đem sự lý trong tờ chiếu của Thái tôn hoàng đế cho lập họ Trần để vào Kinh(7) mà tâu bày và tố cáo việc quan Tổng binh không biết trấn thủ Nam phương(8) lại theo kế của người khác, tự gửi văn thư đi thu binh mã các vệ giả làm giảng hòa rồi thì bội ước để đến nỗi bọn ấy nhao nhao kêu la thất sở. Song tôi nghĩ cứ tờ tâu ngày trước bắt được thì thấy tổng binh đại nhân thực có lòng thành, chỉ vì bọn họ Phương họ Mã làm mê hoặc mới nên nỗi thế. Bởi vậy lời bàn ấy chưa quyết. Nếu ngài nay lại biết theo lời ước cũ, thì nên cho quân về ngay, cùng hòa giải với Thái đô đốc, vừa để thoát khổ can qua cho cho hai nước, vừa để giải mối oán bị bán rẻ của Thái công. Như thế thì trọn quân mà khỏi họa, há chẳng hay sao! Nhược bằng cứ chấp mê mà giữ đến chết không biết biến thông thì cũng như câu Đường Thái Tôn bảo “tận trung vô ích” (hết trung không ích gì) vậy. Vả kẻ đại trượng phu làm việc nên phải lỗi lạc đường hoàng.
Ngài muốn đánh thủy, thì nên bày hết chiến thuyền ở trên sông để quyết tử chiến, muốn đánh bộ thì nên xuất hết binh mã ra đồng rộng để quyết sống mái tromg một hai ngày, không nên chúi ở xó thành, chợt ra chợt vào, cướp lấy củi cỏ, cho thế là đắc sách. Như thế là việc làm của đàn bà con gái, không phả là việc làm của bậc đại trượng phu!
(Trích Lại thư dụ Vương Thông, Nguyễn Trãi toàn tập, Viện Sử học, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội)
* Chú thích:
(1): Vệ Trần – di đóng ở ải Trấn- di phủ Lạng Sơn, tức ải Chi Lăng thuộc huyện
Chi Lăng, tỉnh Lạng Sơn
(2): Tam ty là cơ quan đứng đầu chính quyền đô hộ của nhà Minh ở nước ta
(3): Tích – lịch đại vương có lẽ là một thủ lĩnh nông dân khởi nghĩa ở vùng
Lưỡng Quảng
(4): Bằng Tường thuộc tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc), gần biên giới nước ta
(5): Long Châu thuộc tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc), gần biên giới nước ta
(6): Trong sách in là binh, nhưng có lẽ in nhầm chữ hộ
(7): Tức là Yên – kinh (Bắc – Kinh), thủ đô của nhà Minh
(8): Trong sách in là Bắc phương thì không hợp. Chúng tôi chữa lại làm Nam phương.
Văn bản Lại thư cho Vương Thông là thuộc sáng tác thuộc thể loại nào?
Quảng cáo
Trả lời:
Văn chính luận.
Câu hỏi cùng đoạn
Câu 2:
Đối tượng giao tiếp, hoàn cảnh giao tiếp của văn bản trên là ai?
Đối tượng giao tiếp, hoàn cảnh giao tiếp của văn bản trên là: Tướng giặc, khi chúng phản kích và huênh hoang vì chút thắng lợi nhỏ.
Câu 3:
Biện pháp nghệ thuật nào được sử dụng trong câu: “Múc một gáo nước, biển cả không vì thế mà vơi; thêm một gáo nước, biển cả không vì thế mà đầy.”?
Biện pháp nghệ thuật nào được sử dụng trong câu: “Múc một gáo nước, biển cả không vì thế mà vơi; thêm một gáo nước, biển cả không vì thế mà đầy.”?
Đối lập, ẩn dụ.
Câu 4:
Mục đích của luận điểm thứ nhất trong văn bản trên là gì?
Mục đích của luận điểm thứ nhất trong văn bản trên là gì?
Quân giặc đừng vội huênh hoang.
Câu 5:
Ở luận điểm thứ 2, tác giả dùng thao tác lập luận chính nào?
Ở luận điểm thứ 2, tác giả dùng thao tác lập luận chính nào?
Thao tác đối sánh.
Câu 6:
Câu: “Múc một gáo nước, biển cả không vì thế mà vơi; thêm một gáo nước, biển cả không vì thế mà đầy” dùng cách nói nào? Nhằm mục đích gì?
Câu: “Múc một gáo nước, biển cả không vì thế mà vơi; thêm một gáo nước, biển cả không vì thế mà đầy” dùng cách nói nào? Nhằm mục đích gì?
Dùng hình ảnh gáo nước, biển cả khẳng định thắng thua vừa rồi là không đáng kể.
Câu 7:
Mục đích của luận điểm thứ 3 trong văn bản là gì?
Mục đích của luận điểm thứ 3 trong văn bản là gì?
Tướng giặc nên cho lui quân về ngay.
Câu 8:
Từ nội dung văn bản “Lại thư cho Vương Thông” anh/ chị học tập được điều gì cho việc viết văn nghị luận thuyết phục một ai đó thay đổi quyết định của họ?
Từ nội dung văn bản “Lại thư cho Vương Thông” anh/ chị học tập được điều gì cho việc viết văn nghị luận thuyết phục một ai đó thay đổi quyết định của họ?
Học sinh đưa ra những kinh nghiệm học tập được về một hình thức, nội dung từ văn bản đọc của tác giả Nguyễn Trãi.
Câu 9:
Phân tích nghệ thuật lập luận của Nguyễn Trãi ở đoạn văn bản sau và chỉ ra vai trò của đoạn đối với mục đích toàn văn bản:
“Ngài muốn đánh thủy, thì nên bày hết chiến thuyền ở trên sông để quyết tử chiến, muốn đánh bộ thì nên xuất hết binh mã ra đồng rộng để quyết sống mái trong một hai ngày, không nên chúi ở xó thành, chợt ra chợt vào, cướp lấy củi cỏ, cho thế là đắc sách. Như thế là việc làm của đàn bà con gái, không phải là việc làm của bậc đại trượng phu!”
Phân tích nghệ thuật lập luận của Nguyễn Trãi ở đoạn văn bản sau và chỉ ra vai trò của đoạn đối với mục đích toàn văn bản:
“Ngài muốn đánh thủy, thì nên bày hết chiến thuyền ở trên sông để quyết tử chiến, muốn đánh bộ thì nên xuất hết binh mã ra đồng rộng để quyết sống mái trong một hai ngày, không nên chúi ở xó thành, chợt ra chợt vào, cướp lấy củi cỏ, cho thế là đắc sách. Như thế là việc làm của đàn bà con gái, không phải là việc làm của bậc đại trượng phu!”
- Nghệ thuật lập luận:
+ Chọn cách tôn trọng đối phương: tùy lựa chọn
+ Lồng ghép định hướng thể hiện lòng tự tôn của đối phương bằng lối nói tự trọng của những người cầm quân: quyết tử chiến; quyết sống mái
+ Dùng thủ pháp đối lập (quyết chiến lớn lao hành động đánh lén); hình ảnh chúi ở xó thành, chợt ra chợt vào, cướp lấy củi cỏ, đàn bà “khích tướng” để đối phương phải tỏ thái độ, hành động
- Vai trò của đoạn đối với mục đích toàn văn bản: đoạn này nằm cuối văn bản thể hiện sự nhất quán với toàn văn bản về thái độ đối với tướng giặc: coi thường, mỉa mai…; về mục đích khẳng định: không thể thắng được quân ta, sự thất bại không thể tránh khỏi của kẻ thù;…
Câu 10:
Từ văn bản “Lại thư cho Vương Thông” của Nguyễn Trãi đã giúp anh/ chị nhận thấy những tài năng nào của Nguyễn Trãi?
Từ văn bản “Lại thư cho Vương Thông” của Nguyễn Trãi đã giúp anh/ chị nhận thấy những tài năng nào của Nguyễn Trãi?
Một số gợi ý:
- Tài năng của Nguyễn Trãi:
+ Về quân sự, chính trị: am hiểu đối phương, thời cuộc, thế trận (lực lượng hiện tại của đôi bên)
+ Về văn chương: tài thuyết phục biện luận (sử dụng nhiều thao tác lập luận, lí lẽ sắc bén, lập luận logic; bằng chứng.
Hot: 1000+ Đề thi giữa kì 1 file word cấu trúc mới 2025 Toán, Văn, Anh... lớp 1-12 (chỉ từ 60k). Tải ngay
- Trọng tâm Toán, Văn, Anh 10 cho cả 3 bộ KNTT, CTST, CD VietJack - Sách 2025 ( 13.600₫ )
- Sách - Sổ tay kiến thức trọng tâm Vật lí 10 VietJack - Sách 2025 theo chương trình mới cho 2k9 ( 31.000₫ )
- Sách lớp 10 - Combo Trọng tâm Toán, Văn, Anh và Lí, Hóa, Sinh cho cả 3 bộ KNTT, CD, CTST VietJack ( 75.000₫ )
- Sách lớp 11 - Trọng tâm Toán, Lý, Hóa, Sử, Địa lớp 11 3 bộ sách KNTT, CTST, CD VietJack ( 52.000₫ )
CÂU HỎI HOT CÙNG CHỦ ĐỀ
Lời giải
Gợi ý:
- Đảm bảo yêu cầu về hình thức, dung lượng
+ Viết đúng hình thức bài văn đầy đủ ba phần Mở bài, Thân bài, Kết bài.
+ Đảm bảo dung lượng khoảng 600 chữ.
- Xác định đúng vấn đề nghị luận: Phân tích giá trị của văn bản nghị luận “Lại thư cho Vương Thông” của tác giả Nguyễn Trãi.
- Lựa chọn được các thao tác lập luận phù hợp; kết hợp nhuần nhuyễn lí lẽ và dẫn chứng; trình bày được hệ thống ý phù hợp theo bố cục ba phần của bài văn nghị luận. Có thể triển khai theo hướng:
* Mở bài:
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm, nêu nội dung cần phân tích, đánh giá.
* Thân bài:
a. Phân tích, đánh giá đặc sắc nội dung
- Hoàn cảnh ra đời của tác phẩm
- Nội dung bức thư:
+ Nhắc nhở giặc đừng vội huênh hoang vì một chiến thắng nhỏ.
+ Chỉ ra cái thế của quân Minh đang gặp những điều bất lợi.
+ Chỉ trích và đưa ra lời khuyên tướng giặc nên cho lui quân.
=> Bức thư thể hiện niềm tin tất thắng và tinh thần yêu chuộng hoà bình của tác giả. b. Phân tích, đánh giá đặc sắc nghệ thuật
- Lập luận chặt chẽ, lí lẽ giàu sức thuyết phục
- Ngôn ngữ đánh thép.
* Kết bài:
- Khẳng định lại một cách khái quát những nét đặc sắc về nội dung, độc đá về nghệ thuật; khẳng định tài năng của tác giả và nêu ý nghĩa/ giá trị, tác động của tác phẩm với người đọc.
Bài viết tham khảo
Nguyễn Trãi là bậc anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới, người đã để lại cho đời nhiều tác phẩm có giá trị lớn về tư tưởng và nghệ thuật. Trong số những tác phẩm ấy, “Lại thư cho Vương Thông” là một áng văn nghị luận xuất sắc, thể hiện trí tuệ sắc sảo, lòng yêu nước nồng nàn và tinh thần nhân đạo cao cả của ông. Qua bức thư này, Nguyễn Trãi không chỉ vạch rõ thế mạnh – yếu giữa hai phe mà còn bày tỏ tấm lòng khoan dung, yêu chuộng hòa bình và ý chí độc lập dân tộc của người Việt Nam.
“Lại thư cho Vương Thông” ra đời trong hoàn cảnh cuộc kháng chiến chống quân Minh của nghĩa quân Lam Sơn bước vào giai đoạn cuối. Sau nhiều thất bại, Vương Thông vẫn ngoan cố cố thủ trong thành Đông Quan, trông chờ viện binh. Nguyễn Trãi thay mặt Lê Lợi viết thư để vừa cảnh tỉnh, vừa buộc tướng giặc phải đầu hàng.
Mở đầu bức thư, tác giả dùng hình ảnh so sánh giản dị nhưng giàu triết lý: “Múc một gáo nước, biển cả không vì thế mà vơi; thêm một gáo nước, biển cả không vì thế mà đầy.” Từ đó, ông khuyên kẻ thù chớ nên kiêu ngạo trước một chiến thắng nhỏ, cũng như không nên tuyệt vọng vì một thất bại cục bộ. Lời lẽ ấy thể hiện phong thái bình tĩnh, tự tin và bản lĩnh của người hiểu rõ thế cục chiến tranh.
Nguyễn Trãi chỉ rõ thế yếu của quân Minh: “giữ một thành trơ trọi, lương sắp hết và viện chưa thấy đến, chúng lìa lòng mà quân ngày ít đi.” Trong khi đó, quân dân Đại Việt thì “binh tướng thì nhiều, tâm lực đều nhau, chiến khí càng tinh, sĩ khí càng mạnh.” Sự đối lập ấy không chỉ khẳng định niềm tin tất thắng của nghĩa quân mà còn cho thấy nhãn quan chiến lược sắc bén của Nguyễn Trãi.
Bằng giọng điệu nghiêm nghị xen lẫn mỉa mai, ông vạch ra sự ngông cuồng và mù quáng của Vương Thông: “Nhà đương cháy mà chim én còn nhơn nhơn vui vẻ cùng nhau, há chẳng đáng cười lắm sao!” Không dừng lại ở việc đả kích, Nguyễn Trãi còn thể hiện tấm lòng nhân nghĩa khi khuyên đối phương sớm rút quân để “thoát khổ can qua cho hai nước”. Đó là tấm lòng khoan hòa, yêu chuộng hòa bình – một giá trị nhân đạo sâu sắc xuyên suốt trong tư tưởng Nguyễn Trãi.
Như vậy, bức “Lại thư cho Vương Thông” không chỉ là bản cáo trạng đanh thép tố cáo sự phi nghĩa của quân xâm lược, mà còn là lời kêu gọi hòa bình thấm đẫm tinh thần nhân nghĩa, thể hiện niềm tin vững chắc vào chính nghĩa và sức mạnh dân tộc.
Về nghệ thuật, tác phẩm thể hiện tài năng nghị luận lỗi lạc của Nguyễn Trãi. Lập luận trong thư rất chặt chẽ, có lý có tình, kết hợp nhuần nhuyễn giữa lý trí sắc bén và cảm xúc chân thành. Ông sử dụng nhiều biện pháp so sánh, ẩn dụ, ví von giàu hình ảnh (“biển cả”, “chim én”, “nhà cháy”) khiến lập luận không khô khan mà sinh động, dễ thuyết phục.
Ngôn ngữ trong thư giàu sức gợi, đanh thép mà vẫn điềm tĩnh, thể hiện phong cách của một nhà chính trị, một nhà quân sự và một nhà văn hóa lớn. Giọng văn lúc khuyên răn ôn tồn, khi phê phán sắc sảo, lúc mỉa mai, châm biếm, tất cả hòa quyện tạo nên một áng văn nghị luận mẫu mực.
“Lại thư cho Vương Thông” là một tác phẩm tiêu biểu cho tài năng và tư tưởng lớn của Nguyễn Trãi – người anh hùng dân tộc, nhà tư tưởng nhân nghĩa, nhà văn hóa kiệt xuất. Bức thư không chỉ có giá trị lịch sử mà còn là một áng văn mẫu mực về nghệ thuật nghị luận trung đại: lập luận logic, ngôn từ hùng biện, giọng văn giàu cảm xúc. Đọc tác phẩm, ta càng thêm khâm phục trí tuệ, nhân cách và tấm lòng yêu nước sâu sắc của Nguyễn Trãi – một vì sao lớn trong nền văn học dân tộc.
Lời giải
Gợi ý:
- Đảm bảo yêu cầu về hình thức, dung lượng
+ Viết đúng hình thức đoạn văn (diễn dịch, quy nạp, móc xích…).
+ Đảm bảo dung lượng khoảng 200 chữ.
- Xác định đúng vấn đề nghị luận
+ Trình bày suy nghĩ về phẩm chất và trí tuệ của người anh hùng trong thời đại ngày nay.
- Hệ thống ý:
+ Trong “Lại thư cho Vương Thông”, Nguyễn Trãi hiện lên với trí tuệ mưu lược, tư duy sắc bén, lời lẽ đanh thép mà nhân nghĩa — vừa chỉ rõ thế mạnh yếu của đôi bên, vừa khuyên đối phương sớm quy thuận để tránh cảnh binh đao.
+ Ở thời đại hôm nay, người anh hùng không nhất thiết cầm gươm ra trận, mà là người góp phần bảo vệ, xây dựng đất nước bằng tri thức, lòng nhân ái và tinh thần trách nhiệm.
+ Họ có thể là chiến sĩ nơi biên cương, bác sĩ trong đại dịch, nhà khoa học sáng tạo vì dân, hay người trẻ dấn thân phụng sự xã hội.
+ Người anh hùng thời đại mới phải có bản lĩnh – trí tuệ – nhân văn, biết kết hợp cái tâm và cái tầm để hành động đúng đắn, hữu ích.
- Phát triển đoạn văn logic, thuyết phục
+ Dẫn chứng từ văn bản để minh chứng cho nhận định.
+ Thể hiện rõ suy nghĩ về phẩm chất và trí tuệ của người anh hùng trong thời đại ngày nay.
- Đảm bảo ngữ pháp, liên kết:
+ Trình bày rõ ràng, mạch lạc, không mắc lỗi chính tả.
- Sáng tạo
+ Cách diễn đạt mới mẻ, có suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận.
Đoạn văn tham khảo
Nguyễn Trãi trong “Lại thư cho Vương Thông” hiện lên như một bậc anh hùng toàn tài, không chỉ giỏi thao lược mà còn giàu lòng nhân nghĩa. Từ ngòi bút sắc sảo, ông phân tích thế mạnh yếu giữa hai bên, khuyên địch sớm dừng binh để tránh cảnh sinh linh đồ thán. Qua đó, ta thấy rõ trí tuệ, bản lĩnh và tấm lòng vì dân của người anh hùng dân tộc. Trong thời đại hôm nay, đất nước không còn chiến tranh, nhưng vẫn cần những con người anh hùng – dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích cộng đồng. Người anh hùng hiện đại có thể là người chiến sĩ bảo vệ biên cương, bác sĩ cứu người trong đại dịch, hay những người trẻ sáng tạo, góp sức dựng xây Tổ quốc. Điểm chung ở họ là trí tuệ, lòng nhân và tinh thần phụng sự. Mỗi chúng ta, dù ở vị trí nào, cũng có thể trở thành “anh hùng” khi sống có lý tưởng, dấn thân vì cái tốt, cái đẹp. Bởi chỉ khi con người có trí tuệ và nhân cách lớn, dân tộc mới thật sự trường tồn.
Lời giải
Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.
Lời giải
Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.
Lời giải
Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.
Lời giải
Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.