Câu hỏi:

16/12/2025 125 Lưu

I. Đọc hiểu (4,0 điểm)

Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới:

[…] Chủ nghĩa nhân đạo trong tác phẩm của Thạch Lam thực ra chưa sâu sắc và mãnh liệt nếu đem so sánh với ngòi bút Ngô Tất Tố hay Nam Cao, nhất là khi cần phanh phui triệt để những mâu thuẫn gay gắt trong xã hội người bóc lột người đã dẫn đến nỗi bất hạnh của người dân lao động. Ông không phải không đề cập đến vấn đề ấy, nhưng trong nhiều trường hợp, ngòi bút ấy dường như vừa chạm đến đã vội dừng lại và chuyển hướng. Chẳng hạn như truyện “Đứa con”, mở đầu là mâu thuẫn giữa chủ và người ở (một phụ nữ), là áp chế tàn nhẫn giữa kẻ có tiền và người làm thuê. Song kết thúc truyện thì mâu thuẫn đó lại bị xóa nhòa bởi một chuyển hướng hòa hợp, mà tác nhân là sự kích thích của tình mẫu tử – một thứ nhân tính muôn đời. Trong “Cái chân què” cũng tương tự như vậy. Chuyện tả một anh chàng vì nghèo mà cay cú với số phận, quyết tìm cách làm giàu. Nhưng khi được như ý, thì dần dần anh ta lại nhận thấy rằng đồng tiền không đem lại hạnh phúc. Sự tỉnh ngộ lần này của anh căn bản dựa trên cái triết lí về đồng tiền thường thấy ở một số tác giả khác trong Tự lực văn đoàn: triết lí của những con người chưa thực sự bị họa áo cơm ghì riết và hành hạ. Dù sao Thạch Lam cũng chưa hẳn đã sống chết với vấn đề này.

Tuy nhiên, đối với người lao động nghèo, cái nhìn của Thạch Lam nói chung là một cái nhìn hiện thực giàu tính nhân đạo. Bức tranh về cuộc sống của dân nghèo sau lũy tre, trong xóm chợ, nơi ngoại ô, ngõ hẻm không hề được phủ bằng màn sương thi vị. Những số phận nhọc nhằn, bi đát, với một viễn cảnh mờ mịt, đen tối, vẫn là kết cục chung cho hầu hết các tác phẩm viết về người dân lao động nghèo khổ của Thạch Lam. Cái chết của mẹ Lê để lại cả một đàn con gầy còm ngơ ngác là một cái kết bi thảm, gây nên “cái cảm giác lo sợ đè nén lấy tâm can” những người còn sống – những người mà “cái nghèo khổ cứ theo đuổi mãi không bao giờ dứt” (Nhà mẹ Lê). Có những gia đình trước đây đã có thời mát mặt, về sau cũng sa sút, khó khăn và càng ngày cuộc sống càng thắt nghẹt họ mãi (Cô hàng xén, Đói, Hai đứa trẻ…). Những kết thúc u ám như thế cứ trở đi trở lại trong nhiều truyện ngắn của Thạch Lam, tô đậm cái quá trình bần cùng không lối thoát của nhân dân lao động trong xã hội cũ […].

(Trần Ngọc Dung, Phong cách truyện ngắn Thạch Lam, 

Thạch Lam - Tác phẩm và lời bình, Nxb Văn học, Hà Nội, 2013)

(0,5 điểm) Xác định phương thức biểu đạt của văn bản trên.

Quảng cáo

Trả lời:

verified Giải bởi Vietjack

Phương thức biểu đạt: nghị luận.

Câu hỏi cùng đoạn

Câu 2:

(0,5 điểm) Văn bản trên viết về ai và vấn đề gì?

Xem lời giải

verified Giải bởi Vietjack

Văn bản viết về Thạch Lam, phân tích phong cách truyện ngắn của ông, đặc biệt là chủ nghĩa nhân đạo và cách phản ánh đời sống người lao động nghèo.

Câu 3:

(1,0 điểm) Chỉ ra và phân tích tác dụng của biện pháp tu từ trong câu sau: Bức tranh về cuộc sống của dân nghèo sau lũy tre, trong xóm chợ, nơi ngoại ô, ngõ hẻm không hề được phủ bằng màn sương thi vị.

Xem lời giải

verified Giải bởi Vietjack

- Biện pháp ẩn dụ: màn sương thi vị.

- Tác dụng:

+ Nhấn mạnh đặc điểm của giá trị nhân đạo trong tác phẩm Thạch Lam là giàu tính hiện thực.

+ Làm nổi bật tính chân thực, hiện thực, không tô vẽ của bức tranh đời sống dân nghèo. Người đọc thấy được cuộc sống khổ cực, nhọc nhằn và bế tắc của họ.

+ Giúp câu văn trở nên giàu hình ảnh, cảm xúc.

Câu 4:

(1,0 điểm) Nhận xét mục đích, thái độ của của tác giả được thể hiện ở văn bản trên.

Xem lời giải

verified Giải bởi Vietjack

-  Mục đích: Thuyết phục người đọc thấy rằng: dù chưa thực sự sâu sắc và mãnh liệt, nhưng trong các tác phẩm của Thạch Lam đều ẩn chứa một cái nhìn nhân đạo đối với những người dân nghèo khổ.

- Thái độ: Nghiêm khắc trong việc nhìn nhận về chủ nghĩa nhân đạo trong các tác phẩm của Thạch Lam chưa sâu sắc và mãnh liệt; Ca ngợi các sáng tác của Thạch Lam ở cái nhìn đầy thương cảm đối với người dân nghèo.

Câu 5:

(1,0 điểm) Qua văn bản, em rút ra bài học gì cho bản thân về cách nêu luận điểm và dẫn chứng trong bài văn nghị luận? 

Xem lời giải

verified Giải bởi Vietjack

Qua văn bản, em rút ra được một số bài học quan trọng về cách nêu luận điểm và dẫn chứng trong bài văn nghị luận:

- Luận điểm cần rõ ràng, tập trung: Văn bản xác định ngay vấn đề phân tích là phong cách truyện ngắn và cái nhìn nhân đạo của Thạch Lam, giúp người đọc dễ nắm ý.

- Dẫn chứng cụ thể, sinh động: Tác giả sử dụng ví dụ từ các truyện ngắn tiêu biểu (Nhà mẹ Lê, Đứa con, Cái chân què…) để minh họa, làm luận điểm thuyết phục hơn.

- So sánh, phân tích để làm nổi bật luận điểm: Văn bản so sánh Thạch Lam với Ngô Tất Tố, Nam Cao để nhấn mạnh ưu điểm và hạn chế, tạo cái nhìn khách quan.

- Kết hợp tổng kết và nhận xét: Sau khi dẫn chứng, tác giả rút ra nhận xét về giá trị nhân đạo và hiện thực, giúp luận điểm rõ ràng và có chiều sâu.

Câu 6:

II. Viết (6,0 điểm)

(2,0 điểm) Từ văn bản “Phong cách truyện ngắn Thạch Lam” của Trần Ngọc Dung, em hãy viết một đoạn văn trình bày suy nghĩ của em về cái nhìn nhân đạo trong truyện ngắn của Thạch Lam.

Xem lời giải

verified Giải bởi Vietjack

* Yêu cầu về hình thức, kĩ năng: Đảm bảo đoạn văn nghị luận có bố cục mạch lạc, sử dụng linh hoạt các kiểu câu và có sự liên kết chặt chẽ giữa các câu, các ý trong đoạn văn. Có cách diễn đạt trong sáng độc đáo, thể hiện những suy nghĩ, kiến giải mới mẻ về vấn đề nghị luận.

Yêu cầu về kiến thức

Học sinh có thể triển khai theo nhiều cách, nhưng cần giới thiệu được vấn đề cần bàn luận, nêu rõ lí do và quan điểm của bản thân, hệ thống luận điểm chặt chẽ, lập luận thuyết phục, sử dụng dẫn chứng thuyết phục.

Sau đây là một hướng gợi ý: 

- Dù hạn chế, Thạch Lam vẫn có cái nhìn hiện thực giàu tính nhân đạo đối với người lao động nghèo.

- Bức tranh đời sống nghèo khó, nhọc nhằn được ông mô tả rõ nét, không tô vẽ.

- Những số phận bi đát, kết thúc u ám như trong Nhà mẹ Lê, Cô hàng xén, Đói, Hai đứa trẻ… làm nổi bật quá trình bần cùng, thiếu lối thoát của người dân lao động.

Có sự sáng tạo trong cách viết

CÂU HỎI HOT CÙNG CHỦ ĐỀ

Câu 1

(4,0 điểm) Viết bài văn phân tích trích đoạn Lão hà tiện của Mô-li-e.

HỒI III LỚP I

ÁC-PA-GÔNG, CỜ-LÊ-ĂNG, Ê-LI-DƠ, VA-LE-RƠ, BÀ CỜ-LỐT, BÁC GIẮC, BỜ-RANH-ĐA-VOAN, LA MÉC-LUY-SƠ

Ác-pa-gông: – Nào, lại cả đây để tôi phân lệnh chốc nữa làm và cắt việc cho mỗi người. Lại gần đây, bà Cờ-lốt. Bắt đầu là bà nhé. (Bà Cờ-lốt cầm cái chổi.) Được, bà sẵn khí giới cầm tay rồi. Tôi trao cho bà nhiệm vụ lau chùi mọi nơi, và nhất là cẩn thận đừng có các đồ gỗ mạnh quá, sợ mòn mất. Ngoài việc ấy, tôi uỷ cho bà, lúc bữa ăn tối, quân giám chai lọ; nếu để thất lạc cái nào và đánh vỡ cái gì, tôi sẽ bắt đến bà rồi trở vào tiến công.

Bác Giắc: (nói riêng) – Hình phạt thiết thực gớm!

Ác-pa-gông: (vẫn nói với bà Cờ-lốt) – Thôi đi. Đến anh Bờ-ranh-đa-voan và anh La Méc-luy-sơ, tôi cắt cho các anh chức vụ lau rửa cốc và rót rượu, nhưng chỉ khi nào mọi người khát, chứ không phải theo thói của những thằng đầy tớ dỡ đần, như muốn khiêu khích người ta, nhắc nhở người ta phải uống khi người ta không nghĩ đến chuyện uống. Hãy chờ khi người ta hò đôi ba lần đã, và nhớ là phải mang thêm thật nhiều nước lã.

Bác Giắc: (nói riêng) – Vâng, rượu nguyên không pha, bốc lên đầu.

La Méc-luy-sơ: – Thế chúng tôi có phải cởi áo ngoài không, thưa ông?

Ác-pa-gông: – Có, nhưng khi nào thấy khách đến đã; và giữ gìn kĩ chớ làm hỏng y phục.

Bờ-ranh-đa-voan: – Thưa ông, ông đã biết rõ, vạt trước áo vét dài của tôi bị một vết dầu đèn to tướng.

La Méc-luy-sơ: – Còn tôi, thưa ông, quần của tôi thì thủng đít và, nói lỗi phép, người ta nhìn thấy...

Ác-pa-gông: (nói với La Méc-luy-sơ) – Im! Liệu khéo quay cái đó vào phía tường và lúc nào cũng quay đằng trước ra phía khách là được. (Ác-pa-gông đặt chiếc mũ trước áo của mình để chỉ cho Bờ-ranh-đa-voan phải làm thế nào để che vết dầu.) Còn anh, khi hầu bàn, luôn luôn cầm mũ thế này này. Còn cô con gái của tôi, con phải để mắt đến mọi thứ khi dọn bàn và cẩn thận đừng để hư hại gì. Việc ấy, đúng là việc đàn bà con gái. Nhưng con phải chuẩn bị đón tiếp cô người yêu của cha cho tử tế; cô ấy sẽ đến thăm con và cùng đi với con ra chợ phiên. Con nghe thấy cha nói gì chưa?

Ê-li-dơ: – Có, thưa cha.

Ác-pa-gông: – Vâng, cô ngốc ạ. Còn anh, cậu ấm của tôi, cha đã rộng lòng tha thứ câu chuyện lúc nãy, đừng có mà mặt sưng mày sỉa với cô ta.

Cờ-lê-ăng: – Con, thưa cha, con mà mặt sưng mày sỉa? Và về lí do gì kia ạ?

Ác-pa-gông: – Trời ơi! Chúng tao hiểu cách đối xử của con cái, khi bố muốn tục huyền, và chúng nó thường nhìn cái người gọi là mẹ kế ấy bằng con mắt thế nào rồi. Nhưng nếu mày muốn tạo quên đi cái việc hoang tàng của mày vừa rồi, thì tao dặn mày trước hết là phải niềm nở mà đon đả với người ta, và cố gắng đón tiếp thế nào cho tốt đẹp nhất!

Cờ-lê-ăng: - Thưa cha, nói thật với cha, con không thể hứa với cha là con vui sướng có cô ấy làm mẹ kế. Con sẽ nói dối, nếu con bảo cha như vậy. Nhưng về việc đón tiếp tử tế và có bộ mặt niềm nở, thì con xin hứa là, về mục này, con tuân theo lời cho không sai một li.

Ác-pa-gông: – Ít nhất cứ phải chú ý.

Cờ-lê-ăng: – Rồi cha xem, cha sẽ không có điều gì phải phàn nàn cả.

Ác-pa-gông: – Con thế là khôn ngoan. Va-le-rơ ơi, giúp tôi việc này. Ô này, bác Giác lại gần đây. Tôi để bác lại người cuối cùng đấy.

Bác Giắc: – Nhưng, thưa ông, ông muốn nói với anh đánh xe hay anh đầu bếp, bởi vì tôi vừa là anh này vừa là anh kia.

Ác-pa-gông: – Với cả hai.

Bắc Giắc: – Nhưng, trong hai người, ông nói với ai trước?

Ác-pa-gông: – Với đầu bếp.

Bắc Giắc: – Vậy ông làm ơn chờ cho.

(Bác bỏ mũ đánh xe và xuất hiện với bộ áo đầu bếp.)

Ác-pa-gông: – Nghi thức quỷ quái gì thế?

Bác Giắc: – Ông cứ nói.

Ác-pa-gông: – Bác Giắc, chả là tôi đã định thết cơm khách tối nay.

Bác Giắc: (nói riêng) – Một kì quan vĩ đại!

Bác Giắc: – Được, nếu ông cho nhiều tiền.

Ác-pa-gông: – Bác cho biết, liệu có cho chúng ta ăn ngon được không?

Ác-pa-gông: – Quỷ thật! Lúc nào cũng tiền! Hình như chúng nó không có gì khác mà nói: “Tiền, tiền, tiền”. À! Chúng nó chỉ có tiếng “tiền” nơi cửa miệng. Lúc nào cũng nói tiền. Tiền, đó là gươm gối đầu giường” của chúng nó.

Va-le-rơ: – Tôi chưa từng thấy câu trả lời nào láo lếu như vậy. Thật là kì diệu khi ăn ngon mà cần nhiều tiền! Đó là một việc dễ nhất trên đời; chẳng có ai ngu tối đến đâu mà không làm được như vậy; nhưng để hành động ra con người thông minh và khéo léo, phải nói là làm được cơm ngon với ít tiền thôi.

Bác Giắc: – Ăn ngon với ít tiền thôi?

Va-le-rơ: – Đúng.

Bác Giắc: (nói với Va-le-rơ) – Theo tôi, thưa ông quản gia, ông làm ơn cho chúng tôi ông cũng tài giỏi cả. biết cái bí mật ấy và nhận lấy cái chức đầu bếp của tôi; như vậy, ở cái nhà này, việc gì ông cũng tài giỏi cả.

Ác-pa-gông: – Thôi im. Bác cần những gì nào?

Bác Giắc: – Đấy, có ông quản gia, ông ấy làm cơm ngon cho ông mà mất ít tiền.

Ác-pa-gông: – Chao chao! Tôi muốn bác trả lời tôi.

Bác Giắc: – Các ông có bao nhiêu người ăn?

Ác-pa-gông: – Chúng tôi tám hoặc mười người; nhưng chỉ tính tám người. Khi đủ cho tám người ăn thì cũng rất đủ cho mười người.

Va-le-rơ: – Đúng thế.

Bác Giắc: – Vậy thì phải bốn bát nấu rõ đầy và năm đĩa xào đầu vị. Món nấu: nước dùng tôm he, chim đa đa hâm bắp cải xanh, rau nấu thượng thang, vịt nấu củ cải. Đầu vị: thịt gà xé, bồ câu ra giàng nhồi thịt, ức bê non, dồi lợn và nấm xào.

Ác-pa-gông: – Quái quỷ! Thế để thết cả một thành phố à?

Bác Giắc: – Thịt quay đầy một xanh thật to, xếp cao thành hình kim tự tháp, nửa con bê thả béo bên sông, ba chim trĩ, ba gà mái tơ béo, mười hai chim câu nuôi chuồng, mười hai gà giò,

Ác-pa-gông: (lấy tay bịt miệng bác Giắc) – À! Thằng phản chủ! Mày ăn hết của của tao.

Bác Giắc: – Món đầu vị...

Ác-pa-gông: (lại lấy tay bịt miệng bác Giắc) – Nữa kia à?

(Mô-li-e, Lão hà tiện, Đỗ Đức Hiểu dịch,  NXB Kim Đồng, Hà Nội, 2020, tr. 74 – 79)

Lời giải

a. Đảm bảo cấu trúc bài văn nghị luận

- Học sinh biết tạo lập một bài văn nghị luận đảm bảo đủ cấu trúc 3 phần: Mở bài, Thân bài, Kết bài. 

b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận

Phân tích hài kịch Lão hà tiện.

c. Triển khai vấn đề nghị luận

- Chia vấn đề nghị luận thành các luận điểm, luận cứ phù hợp, có sức thuyết phục; sử dụng tốt các thao tác lập luận; biết kết hợp giữa nêu lí lẽ và đưa dẫn chứng.

- HS có thể triển khai theo những cách khác nhau, nhưng cần đảm bảo các ý cơ bản sau:

* Mở bài

- Giới thiệu tác giả và vở kịch: Mô-li-e — cây đại thụ của hài kịch Pháp; Lão hà tiện châm biếm tính keo kiệt, mê tiền.

- Giới thiệu đoạn trích: cảnh Arpagon phân công bổn phận cho đầy tớ, con cái — bộc lộ tính hà tiện, gia trưởng và tạo nên xung đột, yếu tố hài kịch.

* Thân bài

- Tóm tắt nội dung cảnh (ngắn gọn)

+ Arpagon phân công việc cho bà Cờ-lốt, Bờ-ranh-đa-voan, La Méc-luy-sơ, con cái, Bác Giắc…; nhấn mạnh yêu cầu tiết kiệm, quản lý chi tiêu; tranh luận, đối thoại hé lộ tính cách.

- Phân tích tính cách Arpagon

+ Keo kiệt, ham tiền: luôn nhắc “tiền”, lo toan từng chi tiết nhỏ để tiết kiệm.

+ Gia trưởng, độc đoán: ra lệnh cho con cái, coi tiền hơn hạnh phúc.

+ Mỉa mai và hoang tưởng: cảnh giác quá mức (nghe tiếng chó — sợ mất tiền).

+ Tính hài kịch: thái quá, lặp câu, cử chỉ (đặt mũ, hướng che vết dầu) làm bật sự lố bịch.

- Phân tích vai trò và cách xây dựng các nhân vật phụ

+ Vale (quản gia): nịnh hót, lý lẽ lòng vòng — làm nổi Arpagon; vai trò khuôn mẫu quản gia “tâng bốc”.

+ Bác Giắc (đầu bếp/đánh xe): thẳng thắn, châm biếm — đối thoại với Arpagon làm bật nghịch lí (muốn ăn ngon nhưng tiếc tiền).

+ Con cái (Cờ-lê-ăng, Ê-li-dơ): phản ứng khác nhau — sự mâu thuẫn giữa quyền lợi cha mẹ và nguyện vọng cá nhân.

+ Các đầy tớ: phản ứng nhỏ, góp phần tạo hiệu ứng hài.

- Xung đột kịch

+ Xung đột chủ yếu: lợi ích (tiền) vs. tình người (hạnh phúc, phẩm giá).

+ Xung đột quyền lực trong nhà: Arpagon áp đặt, con cái phản ứng ngầm (Cờ-lê-ăng hứa giả tạo).

+ Xung đột lời — việc: lời ra lệnh quá lố so với thực tế (muốn cỗ to nhưng tiếc tiền) — tạo mâu thuẫn trào phúng.

- Nghệ thuật biểu hiện hài kịch và châm biếm

+ Đối thoại nhanh, nhịp điệu; điệp từ, lặp lại (nhấn ý, tạo nhạc điệu hài).

+ Tương phản (mong muốn xa hoa nhưng tính toán keo kiệt).

+ Chi tiết hành vi, phụ kiện (mũ, vết dầu, chổi) làm hiện thực hoá thói xấu.

+ Sử dụng lời nói nịnh bợ, mỉa mai để phơi bày bản chất nhân vật.

+ Sân khấu hoá — chỉ đạo hành động rõ rệt, tạo hình ảnh sống động, kịch tính.

- Ý nghĩa nghệ thuật và xã hội

+ Phê phán thói hà tiện, ích kỷ, coi tiền hơn người.

+ Lên án lối sống gia trưởng, áp đặt khiến tình cảm gia đình méo mó.

+ Tác phẩm vừa giải trí (hài kịch), vừa giáo dục: khuyến cáo lương thiện, tình người.

* Kết bài

- Khẳng định: đoạn trích tiêu biểu cho nghệ thuật hài kịch châm biếm của Mô-li-e — dùng xung đột kịch và đối thoại để bóc trần thói xấu.

- Nêu cảm nhận chung: vừa cười vừa suy ngẫm — bài học về đạo đức, cách sống và giá trị tình người vượt lên trên đồng tiền.

d. Chính tả, ngữ pháp

Đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ pháp Tiếng Việt

e. Sáng tạo

- Bài viết có luận điểm rõ ràng, lập luận thuyết phục, diễn đạt trong sáng, bài viết thể hiện được sự sáng tạo, độc đáo riêng.           

- Chữ viết sạch đẹp, rõ ràng, văn phong lưu loát; không mắc lỗi chính tả, lỗi dùng từ, đặt câu.

Lời giải

Văn bản viết về Thạch Lam, phân tích phong cách truyện ngắn của ông, đặc biệt là chủ nghĩa nhân đạo và cách phản ánh đời sống người lao động nghèo.

Lời giải

Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.

Nâng cấp VIP

Lời giải

Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.

Nâng cấp VIP