Danh sách câu hỏi tự luận ( Có 28,949 câu hỏi trên 579 trang )

Đọc văn bản sau và trả lời các câu hỏi bên dưới: ĐẤT NỨT CON BỌ HUNG Từ bé Quỳnh đã nổi tiếng học giỏi và đối đáp nhanh. Trong làng có ông Tú Cát rất hợm hĩnh mình, đi đâu cũng khoe mình hay chữ. Quỳnh rất ghét những loại người như vậy. Một hôm Quỳnh đang đứng xem đàn lợn ăn cám trong chuồng, Tú Cát đi qua trông thấy, liền gọi Quỳnh lại và bảo: - Ta nghe đồn mày thông minh và có tài đối đáp. Bây giờ ta ra cho mày một câu đối, nếu không đối được, ta sẽ đánh đòn. Nói rồi, Tú Cát lên giọng, gật gù ngâm nga: - Lợn cấn ăn cám tốn. Tú Cát nghĩ rằng câu này rất khó đối, ví “cấn” và “tốn” là hai quẻ trong kinh Dịch nào ngờ. Quỳnh đối lại ngay: “Chó khôn chớ cắn càn.” Vế này cũng có “khôn” và “càn” là tên hai quẻ trong kinh Dịch, đồng thời lại có ý xỏ Tú Cát là chó. Không ngờ bị chơi đau như vậy, Tú Cát tức lắm, hằm hằm bảo: - Được! Ta ra thêm vế nữa, phải đối lại ngay – rồi đọc – Trời sinh ông Tú Cát. Quỳnh đối luôn: - Đất nứt con bọ hung. Tú Cát tức đến sặc tiết nhưng không làm gì được, vì Quỳnh đối rất chỉnh, đành lùi thủi bỏ đi. a. Nhân vật Quỳnh và ông Tú Cát thể hiện đặc điểm nào của nhân vật truyện cười? Chỉ ra thái độ, cách nhìn nhận của tác giả dân gian với hai nhân vật này.

Xem chi tiết 1.5 K lượt xem 1 năm trước

Đọc văn bản sau và trả lời các câu hỏi bên dưới: THÀ CHẾT CÒN HƠN Xưa có anh keo kiệt, ăn chẳng dám ăn, mặc chẳng dám mặc, cứ khư khư tích của làm giàu. Một hôm có người bạn rủ ra tỉnh chơi. Trước anh ta còn từ chối, sau người bạn nài mãi, anh ta mới vào phòng lấy ba quan tiền giắt lưng rồi cùng đi. Khi ra đến tỉnh, trông thấy cái gì anh ta cũng muốn mua nhưng sợ mất tiền lại thôi. Trời nắng quá, muốn vào hàng uống nước lại sợ phải thiết bạn, không dám vào.  Đến chiều trở về, kkhi qua đò đến giữa sông, anh keo kiệt khát nước quá mới cúi xuống uống nước, chẳng may ngã lộn cổ xuống sông. Anh bạn trên thuyền kêu: - Ai cứu xin thưởng năm quan! Anh keo kiệt ở giữa dòng sông, nghe tiếng cố ngoi lên, nói: - Năm quan đắt quá! Anh bạn chữa lại: - Ba quan vậy! Anh hà tiện lại ngoi đầu lên lần nữa: - Ba quan vẫn đắt, thà chết còn hơn! (In trong Văn học dân gian những tác phẩm chọn lọc, Bùi Mạnh Nhị (Chủ biên), NXB Giáo dục, 2004) a. Nhân vật chính của truyện mang nét tính cách gì? Nét tính cách ấy được thể hiện qua những chi tiết nào?

Xem chi tiết 2.4 K lượt xem 1 năm trước

Đọc văn bản sau và trả lời các câu hỏi bên dưới: TIẾNG THU - MỘT TÂM HỒN CÔ ĐƠN Trần Đình Sử Người Việt Nam yêu Thơ mới không ai không ám ảnh bởi Tiếng thu, không ai không yêu Tiếng thu của Lưu Trọng Lư. Người quen yêu thơ Đường với giá trị hội hoạ, nhìn thấy ở đó một bức tranh phương Đông thuần tuý. Người yêu thơ lãng mạn nhận thấy âm nhạc là đặc trưng nổi bật, là nhịp mạnh của Thơ mới liền hiểu Tiếng thu là thơ nhạc của Lưu Trọng Lư. Bên cạnh đó, phần lớn các bài phân tích, bình giảng về tác phẩm Tiếng thu đều đọc thơ qua nhạc, qua hoạ mà ít đọc nó như là một tác phẩm thơ - thể loại không chỉ nói bằng hoạ, nhạc mà còn nói một cách mạnh mẽ, tha thiết bằng chính giọng và lời, lời của con người, của cảnh vật. Với ba câu hỏi dồn dập và hệ thống hình ảnh tương phản, phi đối xứng, tiếng thu của Lưu Trọng Lư, tiếng nói của một tâm hồn cô đơn, đã được cất lên một cách mãnh liệt và tha thiết. Trước tiên, không thể không nhận thấy cả bài thơ được tổ chức bằng ba câu hỏi. Nhà nghiên cứu Văn Tâm đã khảo sát văn bản và cho biết: 9 dòng thơ viết liền mạch, không chia khổ, chỉ có 3 chữ "Em” đứng đầu dòng viết hoa, và cuối mỗi câu hỏi có một dấu hỏi. Nó chứng tỏ đây là 3 câu hỏi trọn vẹn được ngắt ra, tổ chức thành dòng thơ. Cái đặc biệt của bài thơ này là câu hỏi được đặt bằng từ phủ định: Em không nghe mùa thu/ Em không nghe rạo rực/ Em không nghe rừng thu. Nếu thay từ “có” vào vị trí của từ “không” thì mới đọc qua tưởng không có gì khác biệt nhưng suy ngẫm sẽ thấy khác nhiều. “Em có nghe mùa thu” có một tiền giả định là có sự đồng cảm giữa người hỏi và người được hỏi mà câu hỏi nêu ra để khêu gợi và khẳng định. Còn Em không nghe mùa thu là tiền giả định rằng thiếu một sự đồng cảm ở bên trong, một câu hỏi có vẻ ngạc nhiên, xa lạ. Ba câu hỏi đồn dập, tha thiết nhưng có hỏi mà không có đáp - có người nghe và có người không nghe. Tiếng thu là tiếng buồn, tiếng rạo rực trong lòng người cô phụ đơn chiếc, tiếng thời gian ra đi. Nhưng tiếng thu còn buồn hơn vì nỗi buồn không được chia sẻ. Nó không chỉ buồn mà còn cô đơn. Những gì anh nghe, em không nghe chăng? Cụm từ Em không nghe lặp lại ba lần nhấn mạnh một tiếng lòng lẻ lơi. Em không nghe thổn thức, em không nghe rạo rực, em không nghe lá kêu. Thổn thức, rạo rực là những trạng thái nội tăm thầm kín mà người ta chỉ có thể nghe được bằng chính tâm hồn minh. Hay là em không nghe thấy cả chính tiếng lòng em? Điều đó càng buồn hơn. Ngoài ra, bài thơ còn được xảy dựng theo nguyên tắc phi đối xứng. Về mặt hình ảnh, đây không phải là bức tranh hài hoà. Rạo rực hình ảnh kẻ chinh phu trong lòng người cô phụ là không hài hòa. Con nai vàng ngơ ngác, đạp trên lá thu kêu là không hài hòa. "Lá thu kêu” chính là tiếng mùa thu của Lưu Trọng Lư. Nó không "reo" mà "kêu", một tiếng kêu buồn. Còn con nai vàng thì như không nghe thấy gì, nó ngơ ngác đạp trên là vàng khô. [ ... ] Theo chúng tôi, con nai vàng đạp trên lá vàng khô, trông bề ngoài là bức tranh đồng màu, nhưng không đồng cảm. Nó làm cho sự tương phản trong bài thơ trở nên trọn vẹn. Một bên thì "thổn thức", "rạo rực", "kêu xào xạc", một bên thì "không nghe", "không nghe", "không nghe” và đỉnh cao của sự không nghe ấy là con nai vàng ngơ ngắc - đạp trên là vàng khô. Có cái gì giống như cảnh của Huy Cận: Không cầu gợi chút niềm thân mật/ Lăng lẽ bở xanh tiềp bãi vàng (Tràng giang). Bài thơ không diễn tà sự hài hoà, trái lại nó diễn tả sự tương phản, phi đối xứng để từ đó thức tỉnh tình cảm và khát vọng về sự hài hòa mới - sự đồng cảm của các cá nhân. Nhà thơ lãng mạn Đức Hen-rích Hai-nơ (Henrich Heine) nói: "Toàn thế giới nổ tung ở khoảng giữa, và vết nứt thế giới vĩ đại ấy chạy qua trái tim nhà thơ". Cùng với ý thức về cái TÔI, các nhà thơ lãng mạn đã cảm thấy vết nứt qua trái tim mình - sự cô đơn, thiếu thông cảm. Tiếng thu có tự ngàn xưa. Nhưng trong thơ cổ, tiếng thu là tiếng gợi niềm hoài niệm, là tiếng chày đập vải gợi nỗi nhớ chồng, là các lễ tiết mùa thu gợi tình huynh đệ, bạn bè, là mùa gợi sự tàn tạ của cỏ cây hoa lá. Tiếng thu của Lưu Trọng Lư gợi niềm rạo rực yêu đương chưa được thoá mãn, gợi tiếng “kêu” của bao kiếp lá lìa cành, gợi sự thổn thức phổ biến của sự sống giữa thời tiết thay đổi. Tiếng thu xưa là tiếng buồn của cái tôi bị tách rời cái toàn bộ. Tiếng thu nay là tiếng buồn, cô đơn của cái tôi thức tỉnh nhưng không được chia sẻ. (Trích bài viết Tiếng thu - Một tâm hồn cô đơn, Trần Đình Sử, Những thế giới nghệ thuật thơ, NXB Giáo dục, 1997) a. Vẽ sơ đồ để xác định hệ thống luận điểm, lí lẽ và bằng chứng của văn bản.

Xem chi tiết 2.9 K lượt xem 1 năm trước

Xác định cấu trúc của các đoạn văn sau và tìm câu chủ đề của mỗi đoạn văn (nếu có): a. Cũng như các dân tộc trên toàn cầu, lửa trở thành yếu tố không thể thiếu trong đời sống - xã hội các dân tộc Tây Nguyên. Theo quan niệm truyền thống, Yang Apui (thần Lửa) thường ngự trị trong bếp lửa gia đình - ngài là vị thần hiện thân cho sự may mắn, cho sự sinh sôi nảy nở, cho sự phát triển. Đặc biệt hơn, thần Lửa trong những ngôi nhà dài trở thành sợi dây liên kết cuộc đối thoại vĩnh hằng của con người qua nhiều thế hệ, là sức mạnh thiêng liêng cho sự khởi nguồn của mọi câu chuyện đời thường, của tình yêu đôi lửa, của hôn nhân gia đình, của ước mơ khát vọng, của buồn vui hờn dỗi. Thần Lửa như một nhân chứng quan trọng chứng kiến sự hiện diện của con người từ khi lọt lòng mẹ trong nghi lễ thổi tai cho đến lễ thành đinh, lễ trưởng thành, cưới hỏi, kết nghĩa, ... và đến thời khắc con người từ giã trung giới về với thể giới thần linh. (Tuyết Nhung Buôn Krông, Bếp lửa - Linh hồn của nhà đài Tây Nguyên, https://heritagevietnamairlines.com/bep-lua-linh-hon-cua-nha-dai-tay-nguyen/) b. Theo kết quả của nhiều cuộc khảo sát lớn, người Phần Lan rất thích tham gia những hoạt động giải trí liên quan đến thiên nhiên. 58% người Phần Lan hay đi hải dâu, 35% trượt tuyết xuyên quốc gia, thường là trong bóng đêm của vùng cực, dưới ánh sảng của những công viên thành phố rộng lớn. 70% thường xuyên đi bộ leo núi, trong khi trung bình chỉ có 30% người châu Âu và người Mỹ tham gia hoạt động này. 50% người Phần Lan đạp xe đạp, 20% chạy bộ, 30% dắt chó đi dạo. Và một hoạt động nữa mà tôi đặc biệt yêu thích: 5% dân số nước này, tức khoảng 250 000 người, tham gia trượt tuyết đường đài. Tổng cộng lại, có hơn 95% người Phần Lan thường xuyên chơi đua ngoài trời. (Theo Florence Williams, Tinh thần sống xanh, Phạm Mây Mây (dịch), NXB Văn hóa - Văn nghệ, 2019, tr. 162, 163) c. Trong những năm gần đây, lượng rác thải nhựa tại Việt Nam gia tăng nhanh chóng. Nếu như năm 2014, con số này la khoang 1,8 triệu tần/ năm, thì đến năm 2016 tăng lên khoảng 2,0 triệu tấn/ năm và hiện nay khoảng 3,27 triệu tấn/ năm. Khối lượng rác thải nhựa đổ ra biển mỗi năm khoảng 0,28 - 0,73 triệu tấn/ năm (chiếm gần 6% tổng lượng rác thải nhựa xả ra biển của thế giới). Ở Việt Nam, bình quân mỗi hộ gia đình sử dụng khoảng 1kg tủi nilon/ tháng. Riêng hai thành phố lớn là Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, trung bình mỗi ngày thải ra mồi trường khoảng 80 tần rác thải nhựa và tủi nilon. Tất cả những số liệu trên cho thấy Việt Nam đang đối mặt với nhiều nguy cơ từ rác thải nhựa. (Theo Mạnh Hùng, Rắc thải nhựa ở Việt Nam: Thực trạng và giải pháp, https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/bao-ve-moi-truong/-/2018/826009/rac-thai-nhua-o-viet-nam-thuc-trang-va-giai-phap.aspx) d. Hoa mai no là lúc báo hiệu một mùa xuân nữa lại về. Loài hoa vàng óng khoe sắc rực rỡ dưới những tia nắng ấm của ngày xuân làm cho lòng người hân hoan, phấn khởi. Dân gian quan niệm rằng, nhà nào có mai nở càng nhiều cánh thì nhà đó càng may mắn và sung túc trong năm mới. Chính vì thế, hoa mai luôn được yêu thích và là loài hoa không thể thiếu trong những ngày Tết. (Theo Quỳnh Như, Ý nghĩa hoa Tết, https://laodong.vn/gia-dinh-hon-nhan/y-nghia-hoa tet-873076.Ido) đ. Nón là là vật che nắng, che mưa trong đời sống thường nhật của người Việt. Nón lá đã đi vào thơ ca, hội hoạ và nhiếp ảnh để tạo ra nhiều tắc phẩm nghệ thuật đặc sắc. Nón lá là vật trang sức làm nên nét duyên của người con gái: "Gió cầu vương nắng nàng thôn nữ/ Quai lỏng nghiêng vành chiếc nón thơ" (Đông Hồ). Không chỉ vậy, vật dụng này còn để lại dấu ấn của mình qua những điệu múa nón thướt tha, mang đậm tình thần Việt. Ngày nay, chính sách toàn cầu hóa, mở cửa giao luu về kinh tế và văn hóa với các nước đã đưa chiếc nón lá Việt Nam vươn mình ra ngoài biên giới và trở thành món quà ý nghĩa dành cho du khách quốc tế. (Theo Phương Linh, Nón lá góp phần lan toả văn hóa Việt, https://laodongthudo.vn/non-la-gop-phan-lan-toa-van-hoa-viet-130752.html)

Xem chi tiết 1.5 K lượt xem 1 năm trước