Danh sách câu hỏi
Có 4,886 câu hỏi trên 98 trang
Đọc đoạn trích sau trong tác phẩm Chinh phụ ngâm và trả lời các câu hỏi:
Chàng tuổi trẻ vốn dòng hào kiệt,
Xếp bút nghiên theo việc đao cung.
Thành liền mong tiến bệ rồng,
Thước gươm đã quyết chẳng dung giặc trời
Chí làm trai dặm nghìn da ngựa,
Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao
Giã nhà đeo bức chiến bào,
Thét roi cầu Vị ào ào gió thu.
(Những khúc ngâm chọn lọc, tập I, Lương Văn Đang – Nguyễn Thạch Giang – Nguyễn Lộc giới thiệu, biên khảo, chú giải, NXB Giáo dục, 1994, tr. 39 – 40)
Nêu cảm nhận của em về hình tượng người chinh phu trong đoạn trích.
Đọc đoạn trích sau trong tác phẩm Chinh phụ ngâm và trả lời các câu hỏi:
Chàng tuổi trẻ vốn dòng hào kiệt,
Xếp bút nghiên theo việc đao cung.
Thành liền mong tiến bệ rồng,
Thước gươm đã quyết chẳng dung giặc trời
Chí làm trai dặm nghìn da ngựa,
Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao
Giã nhà đeo bức chiến bào,
Thét roi cầu Vị ào ào gió thu.
(Những khúc ngâm chọn lọc, tập I, Lương Văn Đang – Nguyễn Thạch Giang – Nguyễn Lộc giới thiệu, biên khảo, chú giải, NXB Giáo dục, 1994, tr. 39 – 40)
Người chinh phu trong đoạn trích được miêu tả với những đặc điểm gì?
Đọc đoạn trích sau trong tác phẩm Chinh phụ ngâm và trả lời các câu hỏi:
Chàng tuổi trẻ vốn dòng hào kiệt,
Xếp bút nghiên theo việc đao cung.
Thành liền mong tiến bệ rồng,
Thước gươm đã quyết chẳng dung giặc trời
Chí làm trai dặm nghìn da ngựa,
Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao
Giã nhà đeo bức chiến bào,
Thét roi cầu Vị ào ào gió thu.
(Những khúc ngâm chọn lọc, tập I, Lương Văn Đang – Nguyễn Thạch Giang – Nguyễn Lộc giới thiệu, biên khảo, chú giải, NXB Giáo dục, 1994, tr. 39 – 40)
Hình tượng núi Thái Sơn trong đoạn trích và trong câu ca dao “Công cha như núi Thái Sơn...” giống và khác nhau như thế nào?
Đọc đoạn trích sau trong tác phẩm Chinh phụ ngâm và trả lời các câu hỏi:
Chàng tuổi trẻ vốn dòng hào kiệt,
Xếp bút nghiên theo việc đao cung.
Thành liền mong tiến bệ rồng,
Thước gươm đã quyết chẳng dung giặc trời
Chí làm trai dặm nghìn da ngựa,
Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao
Giã nhà đeo bức chiến bào,
Thét roi cầu Vị ào ào gió thu.
(Những khúc ngâm chọn lọc, tập I, Lương Văn Đang – Nguyễn Thạch Giang – Nguyễn Lộc giới thiệu, biên khảo, chú giải, NXB Giáo dục, 1994, tr. 39 – 40)
Câu thơ “Xếp bút nghiên theo việc đao cung.” thể hiện nội dung gì?
Đọc đoạn trích sau trong tác phẩm Chinh phụ ngâm và trả lời các câu hỏi:
Chàng tuổi trẻ vốn dòng hào kiệt,
Xếp bút nghiên theo việc đao cung.
Thành liền mong tiến bệ rồng,
Thước gươm đã quyết chẳng dung giặc trời
Chí làm trai dặm nghìn da ngựa,
Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao
Giã nhà đeo bức chiến bào,
Thét roi cầu Vị ào ào gió thu.
(Những khúc ngâm chọn lọc, tập I, Lương Văn Đang – Nguyễn Thạch Giang – Nguyễn Lộc giới thiệu, biên khảo, chú giải, NXB Giáo dục, 1994, tr. 39 – 40)
Đoạn trích trên được viết bằng thể thơ nào? Yếu tố nào giúp em xác định điều đó?
Đọc đoạn trích sau trong tác phẩm Truyện đền thiêng ở cửa bể (Hải khẩu linh từ lục) của Đoàn Thị Điểm và trả lời các câu hỏi:
(Lược một đoạn: Nguyễn Thị Bích Châu, con gái đại thần Nguyễn Tướng Công, sinh vào khoảng năm 1356, dưới thời vua Trần Dụ Tông. Nàng tư dung xinh đẹp, nổi tiếng thông tuệ, hiểu văn chương, biết thi phú, thạo âm luật, được vua Duệ Tông kén vào hậu cung và hết mực thương yêu, chiều chuộng. Năm 1376, Chiêm Thành đến cướp Hoá Châu. Trần Duệ Tông giận dữ xuống chiếu ngự giá thân chinh đi dẹp giặc. Bích Châu dâng biểu khuyên can không được đành xin đi theo hộ giá. Khi đoàn thuyền chiến của vua vừa đến cửa bể Kỳ Hoa (Kỳ Anh – Nghệ Tĩnh), trời bỗng nổi cơn phong ba bão táp, quân lính kinh hãi nản lòng. Nhà vua nhất quyết đợi tan cơn bão sẽ tiến binh tiếp. Đêm ấy, vua Duệ Tông mộng thấy một vị thần xưng là “Nam Minh Đô đốc”, thủ hạ của Quảng Lợi Vương, muốn xin vua ban cho một người thiếp, nếu được như ý nguyện, mới để thuyền vua đi qua. Nguyễn Thị Bích Châu tự nguyện hi sinh thân mình, nhảy xuống bể làm vợ Giao thần, nhờ đó sóng yên bề lặng. Về sau, vua Lê Thánh Tông đem quân đánh Chiêm Thành, đến cửa bể Kỳ Hoa, nàng báo mộng nhờ vua giải thoát mình khỏi cảnh tủi nhục nơi thuỷ phủ. Thánh Tông gửi thư tố cáo Giao thần đến Quảng Lợi Vương và Giao thần đã bị Quảng Lợi Vương trừng phạt. Nhờ đó, nàng Bích Châu được tự do, tiêu dao nơi tiên cảnh.)
Khi mặt trời đã chiếu vào cửa sổ trong thuyền, quân tiến đến cửa bể, bỗng có một trận gió lốc cuồn cuộn thổi vào thuyền vua, lá cờ bị gió cuốn sang phương nam. Nàng nói:
– Trận gió ấy lạ thay! Tiếng ào ào, sắc thảm đạm, chắc là một thứ gió gian tà.
Vua hỏi:
– Là nghĩa thế nào?
Nàng nói:
– Thiếp từ khi nhỏ đọc sách, đã biết phong giác. Vả lại, Thuỷ cùng cực ở ngôi Thìn, Mộc cùng cực ở ngôi Mùi. Tính Thuỷ khôn, khôn cùng cực thì làm gian, tính Mộc nhân, nhân cùng cực thì đi lệch. Bây giờ là giờ Mùi, thế mà gió từ ngôi Thìn đến, e xảy ra việc giết hại người! Xin nhà vua cấp tốc chuẩn bị lục quân để đối phó.
Nàng nói chưa hết lời, quả nhiên gió bão nổi lên, sóng bể gào thét. Vua hạ lệnh bỏ neo để lánh gió mạnh. Cuối canh ba bỗng thấy một người nanh to râu xồm, diện mạo hung tợn, đầu đội mũ lưu tinh, mình mặc áo gấm vây, bước vào, cúi đầu, nghiêng mình, lảo đảo đi thẳng đến trước mặt vua thi lễ. Vua hỏi:
– Người là ai? Đêm khuya tới đây tất có điều gì muốn hỏi? Người ấy thưa:
– Tôi là Đô đốc vùng Nam Hải, đi làm quan ở nơi giang hồ, hiện còn thiếu người nội trợ, nghe nói bệ hạ cung tần rất nhiều, nay bỗng gặp nhau, cho nên nổi cơn sóng mạnh để thay câu thơ “Hoa đường”. Vậy xin ban cho nàng Tử Vân, tôi sẽ kết cỏ ngậm vành mong có ngày báo đáp. Nếu bệ hạ chỉ để làm thú vui riêng, thì tôi không thể bỏ qua được vậy.
Vua gật đầu, bỗng thức dậy, liền vời phi tần, kể lại việc trong mộng, các cung phi thất sắc nhìn nhau im lặng không ai nói gì. Trong đó riêng nàng chứa chan nước mắt, nghẹn ngào nói không ra lời, dáng vẻ yếu như hoa lê gặp mưa, quỳ trước mặt vua tàu rằng:
– Ngôi đền thiêng liêng kia phụ lão đã trình bày, cái nguy sóng gió kia, chứng nghiệm đã báo trước. Nếu không phải là oan khiên ngày trước cũng tất là nghiệp chướng ngày nay. Thiếp đây không dám tham luyến phồn hoa, tiếc thân bồ liễu, xin trả cho xong cái nợ trước mặt vậy.
[..] Nói xong, liền nhảy xuống bể, trong tiếng gió gào, sóng cuộn, còn nghe vẳng tiếng nói: “Kính tạ quân vương, từ nay vĩnh biệt, không thể nào hầu bên vua được nữa”. Vua và các phi tần kinh hoàng luống cuống, ai cũng thương khóc. Bỗng chốc mây tạnh gió lặng, bể hết nổi sóng. Vua sai thuỷ quân mò tìm, đã không thấy tung tích nàng đâu cả...
(Đoàn Thị Điểm, Truyền kì tân phả, in trong Tổng tập tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam, Ngô Lập Chi dịch, Trần Nghĩa Chủ biên, tập 1, NXB Thế giới, Hà Nội, 1997, tr. 345 – 347)
Những đặc điểm nào của truyện truyền kì được thể hiện trong đoạn trích trên?
Đọc đoạn trích sau trong tác phẩm Truyện đền thiêng ở cửa bể (Hải khẩu linh từ lục) của Đoàn Thị Điểm và trả lời các câu hỏi:
(Lược một đoạn: Nguyễn Thị Bích Châu, con gái đại thần Nguyễn Tướng Công, sinh vào khoảng năm 1356, dưới thời vua Trần Dụ Tông. Nàng tư dung xinh đẹp, nổi tiếng thông tuệ, hiểu văn chương, biết thi phú, thạo âm luật, được vua Duệ Tông kén vào hậu cung và hết mực thương yêu, chiều chuộng. Năm 1376, Chiêm Thành đến cướp Hoá Châu. Trần Duệ Tông giận dữ xuống chiếu ngự giá thân chinh đi dẹp giặc. Bích Châu dâng biểu khuyên can không được đành xin đi theo hộ giá. Khi đoàn thuyền chiến của vua vừa đến cửa bể Kỳ Hoa (Kỳ Anh – Nghệ Tĩnh), trời bỗng nổi cơn phong ba bão táp, quân lính kinh hãi nản lòng. Nhà vua nhất quyết đợi tan cơn bão sẽ tiến binh tiếp. Đêm ấy, vua Duệ Tông mộng thấy một vị thần xưng là “Nam Minh Đô đốc”, thủ hạ của Quảng Lợi Vương, muốn xin vua ban cho một người thiếp, nếu được như ý nguyện, mới để thuyền vua đi qua. Nguyễn Thị Bích Châu tự nguyện hi sinh thân mình, nhảy xuống bể làm vợ Giao thần, nhờ đó sóng yên bề lặng. Về sau, vua Lê Thánh Tông đem quân đánh Chiêm Thành, đến cửa bể Kỳ Hoa, nàng báo mộng nhờ vua giải thoát mình khỏi cảnh tủi nhục nơi thuỷ phủ. Thánh Tông gửi thư tố cáo Giao thần đến Quảng Lợi Vương và Giao thần đã bị Quảng Lợi Vương trừng phạt. Nhờ đó, nàng Bích Châu được tự do, tiêu dao nơi tiên cảnh.)
Khi mặt trời đã chiếu vào cửa sổ trong thuyền, quân tiến đến cửa bể, bỗng có một trận gió lốc cuồn cuộn thổi vào thuyền vua, lá cờ bị gió cuốn sang phương nam. Nàng nói:
– Trận gió ấy lạ thay! Tiếng ào ào, sắc thảm đạm, chắc là một thứ gió gian tà.
Vua hỏi:
– Là nghĩa thế nào?
Nàng nói:
– Thiếp từ khi nhỏ đọc sách, đã biết phong giác. Vả lại, Thuỷ cùng cực ở ngôi Thìn, Mộc cùng cực ở ngôi Mùi. Tính Thuỷ khôn, khôn cùng cực thì làm gian, tính Mộc nhân, nhân cùng cực thì đi lệch. Bây giờ là giờ Mùi, thế mà gió từ ngôi Thìn đến, e xảy ra việc giết hại người! Xin nhà vua cấp tốc chuẩn bị lục quân để đối phó.
Nàng nói chưa hết lời, quả nhiên gió bão nổi lên, sóng bể gào thét. Vua hạ lệnh bỏ neo để lánh gió mạnh. Cuối canh ba bỗng thấy một người nanh to râu xồm, diện mạo hung tợn, đầu đội mũ lưu tinh, mình mặc áo gấm vây, bước vào, cúi đầu, nghiêng mình, lảo đảo đi thẳng đến trước mặt vua thi lễ. Vua hỏi:
– Người là ai? Đêm khuya tới đây tất có điều gì muốn hỏi? Người ấy thưa:
– Tôi là Đô đốc vùng Nam Hải, đi làm quan ở nơi giang hồ, hiện còn thiếu người nội trợ, nghe nói bệ hạ cung tần rất nhiều, nay bỗng gặp nhau, cho nên nổi cơn sóng mạnh để thay câu thơ “Hoa đường”. Vậy xin ban cho nàng Tử Vân, tôi sẽ kết cỏ ngậm vành mong có ngày báo đáp. Nếu bệ hạ chỉ để làm thú vui riêng, thì tôi không thể bỏ qua được vậy.
Vua gật đầu, bỗng thức dậy, liền vời phi tần, kể lại việc trong mộng, các cung phi thất sắc nhìn nhau im lặng không ai nói gì. Trong đó riêng nàng chứa chan nước mắt, nghẹn ngào nói không ra lời, dáng vẻ yếu như hoa lê gặp mưa, quỳ trước mặt vua tàu rằng:
– Ngôi đền thiêng liêng kia phụ lão đã trình bày, cái nguy sóng gió kia, chứng nghiệm đã báo trước. Nếu không phải là oan khiên ngày trước cũng tất là nghiệp chướng ngày nay. Thiếp đây không dám tham luyến phồn hoa, tiếc thân bồ liễu, xin trả cho xong cái nợ trước mặt vậy.
[..] Nói xong, liền nhảy xuống bể, trong tiếng gió gào, sóng cuộn, còn nghe vẳng tiếng nói: “Kính tạ quân vương, từ nay vĩnh biệt, không thể nào hầu bên vua được nữa”. Vua và các phi tần kinh hoàng luống cuống, ai cũng thương khóc. Bỗng chốc mây tạnh gió lặng, bể hết nổi sóng. Vua sai thuỷ quân mò tìm, đã không thấy tung tích nàng đâu cả...
(Đoàn Thị Điểm, Truyền kì tân phả, in trong Tổng tập tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam, Ngô Lập Chi dịch, Trần Nghĩa Chủ biên, tập 1, NXB Thế giới, Hà Nội, 1997, tr. 345 – 347)
Qua đoạn trích, em cảm nhận được tình cảm, tư tưởng gì của tác giả?
Đọc đoạn trích sau trong tác phẩm Truyện đền thiêng ở cửa bể (Hải khẩu linh từ lục) của Đoàn Thị Điểm và trả lời các câu hỏi:
(Lược một đoạn: Nguyễn Thị Bích Châu, con gái đại thần Nguyễn Tướng Công, sinh vào khoảng năm 1356, dưới thời vua Trần Dụ Tông. Nàng tư dung xinh đẹp, nổi tiếng thông tuệ, hiểu văn chương, biết thi phú, thạo âm luật, được vua Duệ Tông kén vào hậu cung và hết mực thương yêu, chiều chuộng. Năm 1376, Chiêm Thành đến cướp Hoá Châu. Trần Duệ Tông giận dữ xuống chiếu ngự giá thân chinh đi dẹp giặc. Bích Châu dâng biểu khuyên can không được đành xin đi theo hộ giá. Khi đoàn thuyền chiến của vua vừa đến cửa bể Kỳ Hoa (Kỳ Anh – Nghệ Tĩnh), trời bỗng nổi cơn phong ba bão táp, quân lính kinh hãi nản lòng. Nhà vua nhất quyết đợi tan cơn bão sẽ tiến binh tiếp. Đêm ấy, vua Duệ Tông mộng thấy một vị thần xưng là “Nam Minh Đô đốc”, thủ hạ của Quảng Lợi Vương, muốn xin vua ban cho một người thiếp, nếu được như ý nguyện, mới để thuyền vua đi qua. Nguyễn Thị Bích Châu tự nguyện hi sinh thân mình, nhảy xuống bể làm vợ Giao thần, nhờ đó sóng yên bề lặng. Về sau, vua Lê Thánh Tông đem quân đánh Chiêm Thành, đến cửa bể Kỳ Hoa, nàng báo mộng nhờ vua giải thoát mình khỏi cảnh tủi nhục nơi thuỷ phủ. Thánh Tông gửi thư tố cáo Giao thần đến Quảng Lợi Vương và Giao thần đã bị Quảng Lợi Vương trừng phạt. Nhờ đó, nàng Bích Châu được tự do, tiêu dao nơi tiên cảnh.)
Khi mặt trời đã chiếu vào cửa sổ trong thuyền, quân tiến đến cửa bể, bỗng có một trận gió lốc cuồn cuộn thổi vào thuyền vua, lá cờ bị gió cuốn sang phương nam. Nàng nói:
– Trận gió ấy lạ thay! Tiếng ào ào, sắc thảm đạm, chắc là một thứ gió gian tà.
Vua hỏi:
– Là nghĩa thế nào?
Nàng nói:
– Thiếp từ khi nhỏ đọc sách, đã biết phong giác. Vả lại, Thuỷ cùng cực ở ngôi Thìn, Mộc cùng cực ở ngôi Mùi. Tính Thuỷ khôn, khôn cùng cực thì làm gian, tính Mộc nhân, nhân cùng cực thì đi lệch. Bây giờ là giờ Mùi, thế mà gió từ ngôi Thìn đến, e xảy ra việc giết hại người! Xin nhà vua cấp tốc chuẩn bị lục quân để đối phó.
Nàng nói chưa hết lời, quả nhiên gió bão nổi lên, sóng bể gào thét. Vua hạ lệnh bỏ neo để lánh gió mạnh. Cuối canh ba bỗng thấy một người nanh to râu xồm, diện mạo hung tợn, đầu đội mũ lưu tinh, mình mặc áo gấm vây, bước vào, cúi đầu, nghiêng mình, lảo đảo đi thẳng đến trước mặt vua thi lễ. Vua hỏi:
– Người là ai? Đêm khuya tới đây tất có điều gì muốn hỏi? Người ấy thưa:
– Tôi là Đô đốc vùng Nam Hải, đi làm quan ở nơi giang hồ, hiện còn thiếu người nội trợ, nghe nói bệ hạ cung tần rất nhiều, nay bỗng gặp nhau, cho nên nổi cơn sóng mạnh để thay câu thơ “Hoa đường”. Vậy xin ban cho nàng Tử Vân, tôi sẽ kết cỏ ngậm vành mong có ngày báo đáp. Nếu bệ hạ chỉ để làm thú vui riêng, thì tôi không thể bỏ qua được vậy.
Vua gật đầu, bỗng thức dậy, liền vời phi tần, kể lại việc trong mộng, các cung phi thất sắc nhìn nhau im lặng không ai nói gì. Trong đó riêng nàng chứa chan nước mắt, nghẹn ngào nói không ra lời, dáng vẻ yếu như hoa lê gặp mưa, quỳ trước mặt vua tàu rằng:
– Ngôi đền thiêng liêng kia phụ lão đã trình bày, cái nguy sóng gió kia, chứng nghiệm đã báo trước. Nếu không phải là oan khiên ngày trước cũng tất là nghiệp chướng ngày nay. Thiếp đây không dám tham luyến phồn hoa, tiếc thân bồ liễu, xin trả cho xong cái nợ trước mặt vậy.
[..] Nói xong, liền nhảy xuống bể, trong tiếng gió gào, sóng cuộn, còn nghe vẳng tiếng nói: “Kính tạ quân vương, từ nay vĩnh biệt, không thể nào hầu bên vua được nữa”. Vua và các phi tần kinh hoàng luống cuống, ai cũng thương khóc. Bỗng chốc mây tạnh gió lặng, bể hết nổi sóng. Vua sai thuỷ quân mò tìm, đã không thấy tung tích nàng đâu cả...
(Đoàn Thị Điểm, Truyền kì tân phả, in trong Tổng tập tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam, Ngô Lập Chi dịch, Trần Nghĩa Chủ biên, tập 1, NXB Thế giới, Hà Nội, 1997, tr. 345 – 347)
Khi nghe nhà vua kể lại việc nói chuyện trong mộng với Đô đốc Nam Hải, nàng Bích Châu đã có phản ứng như thế nào? Từ đó, em hiểu gì thêm về tính cách của nhân vật này?
Đọc đoạn trích sau trong tác phẩm Truyện đền thiêng ở cửa bể (Hải khẩu linh từ lục) của Đoàn Thị Điểm và trả lời các câu hỏi:
(Lược một đoạn: Nguyễn Thị Bích Châu, con gái đại thần Nguyễn Tướng Công, sinh vào khoảng năm 1356, dưới thời vua Trần Dụ Tông. Nàng tư dung xinh đẹp, nổi tiếng thông tuệ, hiểu văn chương, biết thi phú, thạo âm luật, được vua Duệ Tông kén vào hậu cung và hết mực thương yêu, chiều chuộng. Năm 1376, Chiêm Thành đến cướp Hoá Châu. Trần Duệ Tông giận dữ xuống chiếu ngự giá thân chinh đi dẹp giặc. Bích Châu dâng biểu khuyên can không được đành xin đi theo hộ giá. Khi đoàn thuyền chiến của vua vừa đến cửa bể Kỳ Hoa (Kỳ Anh – Nghệ Tĩnh), trời bỗng nổi cơn phong ba bão táp, quân lính kinh hãi nản lòng. Nhà vua nhất quyết đợi tan cơn bão sẽ tiến binh tiếp. Đêm ấy, vua Duệ Tông mộng thấy một vị thần xưng là “Nam Minh Đô đốc”, thủ hạ của Quảng Lợi Vương, muốn xin vua ban cho một người thiếp, nếu được như ý nguyện, mới để thuyền vua đi qua. Nguyễn Thị Bích Châu tự nguyện hi sinh thân mình, nhảy xuống bể làm vợ Giao thần, nhờ đó sóng yên bề lặng. Về sau, vua Lê Thánh Tông đem quân đánh Chiêm Thành, đến cửa bể Kỳ Hoa, nàng báo mộng nhờ vua giải thoát mình khỏi cảnh tủi nhục nơi thuỷ phủ. Thánh Tông gửi thư tố cáo Giao thần đến Quảng Lợi Vương và Giao thần đã bị Quảng Lợi Vương trừng phạt. Nhờ đó, nàng Bích Châu được tự do, tiêu dao nơi tiên cảnh.)
Khi mặt trời đã chiếu vào cửa sổ trong thuyền, quân tiến đến cửa bể, bỗng có một trận gió lốc cuồn cuộn thổi vào thuyền vua, lá cờ bị gió cuốn sang phương nam. Nàng nói:
– Trận gió ấy lạ thay! Tiếng ào ào, sắc thảm đạm, chắc là một thứ gió gian tà.
Vua hỏi:
– Là nghĩa thế nào?
Nàng nói:
– Thiếp từ khi nhỏ đọc sách, đã biết phong giác. Vả lại, Thuỷ cùng cực ở ngôi Thìn, Mộc cùng cực ở ngôi Mùi. Tính Thuỷ khôn, khôn cùng cực thì làm gian, tính Mộc nhân, nhân cùng cực thì đi lệch. Bây giờ là giờ Mùi, thế mà gió từ ngôi Thìn đến, e xảy ra việc giết hại người! Xin nhà vua cấp tốc chuẩn bị lục quân để đối phó.
Nàng nói chưa hết lời, quả nhiên gió bão nổi lên, sóng bể gào thét. Vua hạ lệnh bỏ neo để lánh gió mạnh. Cuối canh ba bỗng thấy một người nanh to râu xồm, diện mạo hung tợn, đầu đội mũ lưu tinh, mình mặc áo gấm vây, bước vào, cúi đầu, nghiêng mình, lảo đảo đi thẳng đến trước mặt vua thi lễ. Vua hỏi:
– Người là ai? Đêm khuya tới đây tất có điều gì muốn hỏi? Người ấy thưa:
– Tôi là Đô đốc vùng Nam Hải, đi làm quan ở nơi giang hồ, hiện còn thiếu người nội trợ, nghe nói bệ hạ cung tần rất nhiều, nay bỗng gặp nhau, cho nên nổi cơn sóng mạnh để thay câu thơ “Hoa đường”. Vậy xin ban cho nàng Tử Vân, tôi sẽ kết cỏ ngậm vành mong có ngày báo đáp. Nếu bệ hạ chỉ để làm thú vui riêng, thì tôi không thể bỏ qua được vậy.
Vua gật đầu, bỗng thức dậy, liền vời phi tần, kể lại việc trong mộng, các cung phi thất sắc nhìn nhau im lặng không ai nói gì. Trong đó riêng nàng chứa chan nước mắt, nghẹn ngào nói không ra lời, dáng vẻ yếu như hoa lê gặp mưa, quỳ trước mặt vua tàu rằng:
– Ngôi đền thiêng liêng kia phụ lão đã trình bày, cái nguy sóng gió kia, chứng nghiệm đã báo trước. Nếu không phải là oan khiên ngày trước cũng tất là nghiệp chướng ngày nay. Thiếp đây không dám tham luyến phồn hoa, tiếc thân bồ liễu, xin trả cho xong cái nợ trước mặt vậy.
[..] Nói xong, liền nhảy xuống bể, trong tiếng gió gào, sóng cuộn, còn nghe vẳng tiếng nói: “Kính tạ quân vương, từ nay vĩnh biệt, không thể nào hầu bên vua được nữa”. Vua và các phi tần kinh hoàng luống cuống, ai cũng thương khóc. Bỗng chốc mây tạnh gió lặng, bể hết nổi sóng. Vua sai thuỷ quân mò tìm, đã không thấy tung tích nàng đâu cả...
(Đoàn Thị Điểm, Truyền kì tân phả, in trong Tổng tập tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam, Ngô Lập Chi dịch, Trần Nghĩa Chủ biên, tập 1, NXB Thế giới, Hà Nội, 1997, tr. 345 – 347)
Nêu bối cảnh xuất hiện và những hành động của nhân vật Đô đốc Nam Hải, Theo em, nhân vật này có vai trò gì trong đoạn trích?
Đọc đoạn trích sau trong tác phẩm Truyện đền thiêng ở cửa bể (Hải khẩu linh từ lục) của Đoàn Thị Điểm và trả lời các câu hỏi:
(Lược một đoạn: Nguyễn Thị Bích Châu, con gái đại thần Nguyễn Tướng Công, sinh vào khoảng năm 1356, dưới thời vua Trần Dụ Tông. Nàng tư dung xinh đẹp, nổi tiếng thông tuệ, hiểu văn chương, biết thi phú, thạo âm luật, được vua Duệ Tông kén vào hậu cung và hết mực thương yêu, chiều chuộng. Năm 1376, Chiêm Thành đến cướp Hoá Châu. Trần Duệ Tông giận dữ xuống chiếu ngự giá thân chinh đi dẹp giặc. Bích Châu dâng biểu khuyên can không được đành xin đi theo hộ giá. Khi đoàn thuyền chiến của vua vừa đến cửa bể Kỳ Hoa (Kỳ Anh – Nghệ Tĩnh), trời bỗng nổi cơn phong ba bão táp, quân lính kinh hãi nản lòng. Nhà vua nhất quyết đợi tan cơn bão sẽ tiến binh tiếp. Đêm ấy, vua Duệ Tông mộng thấy một vị thần xưng là “Nam Minh Đô đốc”, thủ hạ của Quảng Lợi Vương, muốn xin vua ban cho một người thiếp, nếu được như ý nguyện, mới để thuyền vua đi qua. Nguyễn Thị Bích Châu tự nguyện hi sinh thân mình, nhảy xuống bể làm vợ Giao thần, nhờ đó sóng yên bề lặng. Về sau, vua Lê Thánh Tông đem quân đánh Chiêm Thành, đến cửa bể Kỳ Hoa, nàng báo mộng nhờ vua giải thoát mình khỏi cảnh tủi nhục nơi thuỷ phủ. Thánh Tông gửi thư tố cáo Giao thần đến Quảng Lợi Vương và Giao thần đã bị Quảng Lợi Vương trừng phạt. Nhờ đó, nàng Bích Châu được tự do, tiêu dao nơi tiên cảnh.)
Khi mặt trời đã chiếu vào cửa sổ trong thuyền, quân tiến đến cửa bể, bỗng có một trận gió lốc cuồn cuộn thổi vào thuyền vua, lá cờ bị gió cuốn sang phương nam. Nàng nói:
– Trận gió ấy lạ thay! Tiếng ào ào, sắc thảm đạm, chắc là một thứ gió gian tà.
Vua hỏi:
– Là nghĩa thế nào?
Nàng nói:
– Thiếp từ khi nhỏ đọc sách, đã biết phong giác. Vả lại, Thuỷ cùng cực ở ngôi Thìn, Mộc cùng cực ở ngôi Mùi. Tính Thuỷ khôn, khôn cùng cực thì làm gian, tính Mộc nhân, nhân cùng cực thì đi lệch. Bây giờ là giờ Mùi, thế mà gió từ ngôi Thìn đến, e xảy ra việc giết hại người! Xin nhà vua cấp tốc chuẩn bị lục quân để đối phó.
Nàng nói chưa hết lời, quả nhiên gió bão nổi lên, sóng bể gào thét. Vua hạ lệnh bỏ neo để lánh gió mạnh. Cuối canh ba bỗng thấy một người nanh to râu xồm, diện mạo hung tợn, đầu đội mũ lưu tinh, mình mặc áo gấm vây, bước vào, cúi đầu, nghiêng mình, lảo đảo đi thẳng đến trước mặt vua thi lễ. Vua hỏi:
– Người là ai? Đêm khuya tới đây tất có điều gì muốn hỏi? Người ấy thưa:
– Tôi là Đô đốc vùng Nam Hải, đi làm quan ở nơi giang hồ, hiện còn thiếu người nội trợ, nghe nói bệ hạ cung tần rất nhiều, nay bỗng gặp nhau, cho nên nổi cơn sóng mạnh để thay câu thơ “Hoa đường”. Vậy xin ban cho nàng Tử Vân, tôi sẽ kết cỏ ngậm vành mong có ngày báo đáp. Nếu bệ hạ chỉ để làm thú vui riêng, thì tôi không thể bỏ qua được vậy.
Vua gật đầu, bỗng thức dậy, liền vời phi tần, kể lại việc trong mộng, các cung phi thất sắc nhìn nhau im lặng không ai nói gì. Trong đó riêng nàng chứa chan nước mắt, nghẹn ngào nói không ra lời, dáng vẻ yếu như hoa lê gặp mưa, quỳ trước mặt vua tàu rằng:
– Ngôi đền thiêng liêng kia phụ lão đã trình bày, cái nguy sóng gió kia, chứng nghiệm đã báo trước. Nếu không phải là oan khiên ngày trước cũng tất là nghiệp chướng ngày nay. Thiếp đây không dám tham luyến phồn hoa, tiếc thân bồ liễu, xin trả cho xong cái nợ trước mặt vậy.
[..] Nói xong, liền nhảy xuống bể, trong tiếng gió gào, sóng cuộn, còn nghe vẳng tiếng nói: “Kính tạ quân vương, từ nay vĩnh biệt, không thể nào hầu bên vua được nữa”. Vua và các phi tần kinh hoàng luống cuống, ai cũng thương khóc. Bỗng chốc mây tạnh gió lặng, bể hết nổi sóng. Vua sai thuỷ quân mò tìm, đã không thấy tung tích nàng đâu cả...
(Đoàn Thị Điểm, Truyền kì tân phả, in trong Tổng tập tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam, Ngô Lập Chi dịch, Trần Nghĩa Chủ biên, tập 1, NXB Thế giới, Hà Nội, 1997, tr. 345 – 347)
Khả năng kì lạ của nàng Bích Châu được biểu hiện qua những chi tiết nào?
Đọc đoạn trích sau trong tác phẩm Truyện đền thiêng ở cửa bể (Hải khẩu linh từ lục) của Đoàn Thị Điểm và trả lời các câu hỏi:
(Lược một đoạn: Nguyễn Thị Bích Châu, con gái đại thần Nguyễn Tướng Công, sinh vào khoảng năm 1356, dưới thời vua Trần Dụ Tông. Nàng tư dung xinh đẹp, nổi tiếng thông tuệ, hiểu văn chương, biết thi phú, thạo âm luật, được vua Duệ Tông kén vào hậu cung và hết mực thương yêu, chiều chuộng. Năm 1376, Chiêm Thành đến cướp Hoá Châu. Trần Duệ Tông giận dữ xuống chiếu ngự giá thân chinh đi dẹp giặc. Bích Châu dâng biểu khuyên can không được đành xin đi theo hộ giá. Khi đoàn thuyền chiến của vua vừa đến cửa bể Kỳ Hoa (Kỳ Anh – Nghệ Tĩnh), trời bỗng nổi cơn phong ba bão táp, quân lính kinh hãi nản lòng. Nhà vua nhất quyết đợi tan cơn bão sẽ tiến binh tiếp. Đêm ấy, vua Duệ Tông mộng thấy một vị thần xưng là “Nam Minh Đô đốc”, thủ hạ của Quảng Lợi Vương, muốn xin vua ban cho một người thiếp, nếu được như ý nguyện, mới để thuyền vua đi qua. Nguyễn Thị Bích Châu tự nguyện hi sinh thân mình, nhảy xuống bể làm vợ Giao thần, nhờ đó sóng yên bề lặng. Về sau, vua Lê Thánh Tông đem quân đánh Chiêm Thành, đến cửa bể Kỳ Hoa, nàng báo mộng nhờ vua giải thoát mình khỏi cảnh tủi nhục nơi thuỷ phủ. Thánh Tông gửi thư tố cáo Giao thần đến Quảng Lợi Vương và Giao thần đã bị Quảng Lợi Vương trừng phạt. Nhờ đó, nàng Bích Châu được tự do, tiêu dao nơi tiên cảnh.)
Khi mặt trời đã chiếu vào cửa sổ trong thuyền, quân tiến đến cửa bể, bỗng có một trận gió lốc cuồn cuộn thổi vào thuyền vua, lá cờ bị gió cuốn sang phương nam. Nàng nói:
– Trận gió ấy lạ thay! Tiếng ào ào, sắc thảm đạm, chắc là một thứ gió gian tà.
Vua hỏi:
– Là nghĩa thế nào?
Nàng nói:
– Thiếp từ khi nhỏ đọc sách, đã biết phong giác. Vả lại, Thuỷ cùng cực ở ngôi Thìn, Mộc cùng cực ở ngôi Mùi. Tính Thuỷ khôn, khôn cùng cực thì làm gian, tính Mộc nhân, nhân cùng cực thì đi lệch. Bây giờ là giờ Mùi, thế mà gió từ ngôi Thìn đến, e xảy ra việc giết hại người! Xin nhà vua cấp tốc chuẩn bị lục quân để đối phó.
Nàng nói chưa hết lời, quả nhiên gió bão nổi lên, sóng bể gào thét. Vua hạ lệnh bỏ neo để lánh gió mạnh. Cuối canh ba bỗng thấy một người nanh to râu xồm, diện mạo hung tợn, đầu đội mũ lưu tinh, mình mặc áo gấm vây, bước vào, cúi đầu, nghiêng mình, lảo đảo đi thẳng đến trước mặt vua thi lễ. Vua hỏi:
– Người là ai? Đêm khuya tới đây tất có điều gì muốn hỏi? Người ấy thưa:
– Tôi là Đô đốc vùng Nam Hải, đi làm quan ở nơi giang hồ, hiện còn thiếu người nội trợ, nghe nói bệ hạ cung tần rất nhiều, nay bỗng gặp nhau, cho nên nổi cơn sóng mạnh để thay câu thơ “Hoa đường”. Vậy xin ban cho nàng Tử Vân, tôi sẽ kết cỏ ngậm vành mong có ngày báo đáp. Nếu bệ hạ chỉ để làm thú vui riêng, thì tôi không thể bỏ qua được vậy.
Vua gật đầu, bỗng thức dậy, liền vời phi tần, kể lại việc trong mộng, các cung phi thất sắc nhìn nhau im lặng không ai nói gì. Trong đó riêng nàng chứa chan nước mắt, nghẹn ngào nói không ra lời, dáng vẻ yếu như hoa lê gặp mưa, quỳ trước mặt vua tàu rằng:
– Ngôi đền thiêng liêng kia phụ lão đã trình bày, cái nguy sóng gió kia, chứng nghiệm đã báo trước. Nếu không phải là oan khiên ngày trước cũng tất là nghiệp chướng ngày nay. Thiếp đây không dám tham luyến phồn hoa, tiếc thân bồ liễu, xin trả cho xong cái nợ trước mặt vậy.
[..] Nói xong, liền nhảy xuống bể, trong tiếng gió gào, sóng cuộn, còn nghe vẳng tiếng nói: “Kính tạ quân vương, từ nay vĩnh biệt, không thể nào hầu bên vua được nữa”. Vua và các phi tần kinh hoàng luống cuống, ai cũng thương khóc. Bỗng chốc mây tạnh gió lặng, bể hết nổi sóng. Vua sai thuỷ quân mò tìm, đã không thấy tung tích nàng đâu cả...
(Đoàn Thị Điểm, Truyền kì tân phả, in trong Tổng tập tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam, Ngô Lập Chi dịch, Trần Nghĩa Chủ biên, tập 1, NXB Thế giới, Hà Nội, 1997, tr. 345 – 347)
Em hình dung như thế nào về không gian và thời gian xảy ra sự kiện được thuật lại trong đoạn trích?
Đọc từ câu “Hôm sau đem dâng tri huyện, quan thấy dế nhỏ quát Thành, Thành kể lại chuyện lạ, quan không tin, cho chọi thử với dế của người khác đều thắng, lại đem gà ra thử thì quả như lời Thành nói” đến câu “Quan tỉnh lại trọng thưởng, không quá vài năm nhà Thành ruộng vườn trăm khoảnh, lầu gác nguy nga, trâu dê cả ngàn con, ra khỏi nhà thì mặc áo cừu cưỡi ngựa tốt, giàu sang hơn cả các nhà thế gia.” trong văn bản Dế chọi của Bồ Tùng Linh (SGK, tr. 21) và chọn phương án trả lời đúng cho các câu hỏi:
Câu nào sau đây dùng từ bình phục KHÔNG hợp lí?
A. Bệnh tình của cô ấy rất nặng, nhưng do được điều trị đúng phương pháp nên đã dần dần bình phục.
B. Hơn năm sau con Thành bình phục, kể rằng mình hóa thành dế, khoẻ mạnh chọi giỏi, nay mới sống lại.
C. Hôm nay làm việc nhiều, tôi rất mệt, nhưng sau khi được nghỉ ngơi, tôi nhanh chóng bình phục.
D. Bác sĩ quả quyết rằng, sau khi mổ ruột thừa khoảng một tuần, bệnh nhân này sẽ bình phục.
Đọc từ câu “Hôm sau đem dâng tri huyện, quan thấy dế nhỏ quát Thành, Thành kể lại chuyện lạ, quan không tin, cho chọi thử với dế của người khác đều thắng, lại đem gà ra thử thì quả như lời Thành nói” đến câu “Quan tỉnh lại trọng thưởng, không quá vài năm nhà Thành ruộng vườn trăm khoảnh, lầu gác nguy nga, trâu dê cả ngàn con, ra khỏi nhà thì mặc áo cừu cưỡi ngựa tốt, giàu sang hơn cả các nhà thế gia.” trong văn bản Dế chọi của Bồ Tùng Linh (SGK, tr. 21) và chọn phương án trả lời đúng cho các câu hỏi:
Qua nội dung của đoạn trích, tác giả thể hiện thái độ gì?
A. Châm biếm kín đáo mà sâu sắc xã hội phong kiến đương thời
B. Đồng tình với cách ứng xử của tri huyện và tuần phủ đối với Thành
C. Vui mừng với kết cục tốt đẹp của số phận nhân vật Thành
D. Ngạc nhiên vì những sự việc lạ lùng xảy ra dẫn đến kết thúc có hậu
Đọc từ câu “Hôm sau đem dâng tri huyện, quan thấy dế nhỏ quát Thành, Thành kể lại chuyện lạ, quan không tin, cho chọi thử với dế của người khác đều thắng, lại đem gà ra thử thì quả như lời Thành nói” đến câu “Quan tỉnh lại trọng thưởng, không quá vài năm nhà Thành ruộng vườn trăm khoảnh, lầu gác nguy nga, trâu dê cả ngàn con, ra khỏi nhà thì mặc áo cừu cưỡi ngựa tốt, giàu sang hơn cả các nhà thế gia.” trong văn bản Dế chọi của Bồ Tùng Linh (SGK, tr. 21) và chọn phương án trả lời đúng cho các câu hỏi:
Yếu tố kì ảo của truyện được thể hiện rõ nhất ở câu văn nào sau đây?
A. Vào tới cung cho chọi thử với đủ thứ dế kì lạ của các nơi dâng lên như hồ điệp (dế bướm), đường lang (dế bọ ngựa), du lợi đạt (dế đánh dầu), thanh ti đầu (dế trán tơ xanh) thì con nào cũng thua.
B. Mỗi khi nghe tiếng đàn sáo thì nó lại nhảy nhót theo điệu nhạc, mọi người càng lấy làm lạ.
C. Tuần phủ cả mừng liền cho dế vào lồng vàng hiến vua, dâng sớ tâu rõ cái hay của nó.
D. Hơn năm sau con Thành bình phục, kể rằng mình hóa thành dế, khoẻ mạnh chọi giỏi, nay mới sống lại.
Đọc từ câu “Hôm sau đem dâng tri huyện, quan thấy dế nhỏ quát Thành, Thành kể lại chuyện lạ, quan không tin, cho chọi thử với dế của người khác đều thắng, lại đem gà ra thử thì quả như lời Thành nói” đến câu “Quan tỉnh lại trọng thưởng, không quá vài năm nhà Thành ruộng vườn trăm khoảnh, lầu gác nguy nga, trâu dê cả ngàn con, ra khỏi nhà thì mặc áo cừu cưỡi ngựa tốt, giàu sang hơn cả các nhà thế gia.” trong văn bản Dế chọi của Bồ Tùng Linh (SGK, tr. 21) và chọn phương án trả lời đúng cho các câu hỏi:
So sánh tình cảnh nhân vật Thành ở đoạn trích của bài tập 4 và ở đoạn trích này, phương án nào sau đây nói đúng kết quả so sánh?
A. Hoàn toàn tương đồng
B. Hoàn toàn tương phản
C. Có một số điểm giống nhau
D. Có một số điểm khác nhau
Đọc từ câu “Hôm sau đem dâng tri huyện, quan thấy dế nhỏ quát Thành, Thành kể lại chuyện lạ, quan không tin, cho chọi thử với dế của người khác đều thắng, lại đem gà ra thử thì quả như lời Thành nói” đến câu “Quan tỉnh lại trọng thưởng, không quá vài năm nhà Thành ruộng vườn trăm khoảnh, lầu gác nguy nga, trâu dê cả ngàn con, ra khỏi nhà thì mặc áo cừu cưỡi ngựa tốt, giàu sang hơn cả các nhà thế gia.” trong văn bản Dế chọi của Bồ Tùng Linh (SGK, tr. 21) và chọn phương án trả lời đúng cho các câu hỏi:
Đoạn văn thuộc phần kết của truyện. Dấu hiệu nào sau đây cho thấy điều đó?
A. Đoạn văn có độ dài vừa phải, số nhân vật không nhiều.
B. Đoạn văn có những chi tiết mang tính chất kì ảo.
C. Đoạn văn cho thấy kết cục của nhân vật chính.
D. Đoạn văn tuy ngắn nhưng có nhiều sự việc được kể.
Đọc từ câu “Đời Tuyên Đức nhà Minh, trong cung rất chuộng trò chọi dế, hàng năm bắt dân gian dâng nộp” đến câu “Quan trên theo hạn trách phạt, qua hơn mười ngày Thành đã bị đánh trăm trượng, hai mông máu me bê bết, ngay cả sâu con cũng không sao đi mà bắt nữa, trăn trở trên giường chỉ nghĩ tới việc tự tử” trong văn bản Dế chọi của Bồ Tùng Linh
Yếu tố gian trong từ gian giảo có nghĩa là gì? Yếu tố đó đồng nghĩa với yếu tố gian trong từ nào sau đây: gian tham, gian nan, gian truân, gian ngoan, gian khổ, gian phi? Đặt câu có sử dụng một từ có yếu tố gian đồng nghĩa với gian trong gian giảo.