Danh sách câu hỏi
Có 4,970 câu hỏi trên 100 trang
Đọc đoạn trích sau trong vở bi kịch Yêu Ly của Lưu Quang Thuận và trả lời các câu hỏi:
HỒI THỨ BA
(Giữa dòng Câu Giang sóng gợn, Khánh Kỵ đứng trên mũi thuyền với Yêu Ly, sau lưng có ngọn cờ thêu chữ Suý. Quân chèo ở lái và mũi. Tả hữu hai bên.)
LỚP II
Khánh Kỵ, Yêu Ly, Tham mưu, tả hữu, quân chèo
(Lược dẫn: Yêu Ly cầm giáo đứng sau Khánh Kỵ. Khi thuyền tập trận đang băng băng lướt theo hướng gió, Yêu Ly cũng lợi dụng sức gió, cầm giáo đâm Khánh Kỵ từ sau lưng. Quách tham mưu toan chém Yêu Ly nhưng Khánh Kỵ can.)
Khánh Kỵ: – Người đứng đấy phải Yêu Ly?
(Yêu Ly bước tới trước mặt, Khánh Kỵ đặt tay lên vai Yêu Ly, nhìn im lặng)
Vừa đâm ta. trời ơi Yêu Ly, Yêu Ly!
Ta vũ dũng hãy còn thua sức đó.
Tay một cánh giỏi nương nhờ sức gió.
Ta mang danh dũng sĩ ở trên đời,
Giữa hôm nay không ngờ có một người
Đàm ngọn giáo ngập từ sau tới trước,
Xuyên Khánh Kỵ suốt từ lưng tới ngực,
Cánh tay này còn vũ dũng hơn ta.
Quách tham mưu: – Sao Khánh công lại có thể ôn hoà
Với một kẻ nấp sau lưng hành thích?
(Đưa kiếm chém Yêu Ly, Khánh Kỵ can)
Khánh Kỵ: – Không, không nên. Giờ đây ta sắp chết,
Dũng sĩ trên đời thiệt hết một tay.
Mạng Yêu Ly các người giết hôm nay
Là thiệt mất một ngày hai dũng sĩ.
Lời ta trối xin Tham mưu nhớ kĩ
Thả Ly về Ngô quốc tỏ lòng trung;
Ta thác đi chưa thỏa chí anh hùng
Nhưng chết dưới một bàn tay vũ dũng...
Đời ta hết giữa một ngày gió sóng
Thôi Tham mưu, ngài ở lại từ đây;
Mai sau ai còn nhắc Khánh Kỵ này
Sẽ không trách kẻ râu mày thấp kém.
(Quay mặt sang phía Yêu Ly)
Từ giã Yêu Ly, anh hùng khó kiếm,
Yêu Ly về bên ấy giúp Ngô gia,
Và chuyển giùm lời từ biệt của ta.
(Thò tay ra sau rút mũi giáo, gục xuống chết. Tham mưu bỏ kiếm, quỳ ôm xác Khánh Kỵ trong tay.)
Quách tham mưu: – Khánh chủ thở xong rồi hơi thở cuối,
Khắp chiến thuyền hãy kéo cờ tang
(Tiếng loa truyền to hai câu ấy)
Rạng ngày mai ta sẽ ngược Câu Giang
Về Kinh Bắc báo tin buồn lê thứ
Quân, lấy chăn gấm đắp lên mình Khánh chủ.
(Quân hầu làm theo lời)
Yêu tiên sinh, sẵn thuyền nhỏ đem theo
Và sẵn quân ngài đã tập chống chèo,
Ngài cho phép đưa ngài sang nước cũ,
Cho tỏ rạng lượng hải hà Khánh chủ.
(Mỉa mai)
Về bên Ngô thôi rực rỡ kì công...
(Nhìn lại thi hài)
Ôi cơ đồ công tử chửa làm xong!
(Quỳ ôm mặt bên thi hài)
Yêu Ly: (Bước ra mũi thuyền)
– Tròn nghĩa lớn đã trừ xong Khánh Kỵ,
Nhưng nam tử thân này ôi xét kĩ
Người đang tâm đem giết cả thê nhi
Tiếng bất nhân không còn giấu che gì,
Mưu việc lớn thân mình đem huỷ phá
Điều bất trí muôn đời không thể xoá
Mưu trả hàng dưới trướng xin câu dung,
Dịp tốt ra tay giết kẻ anh hùng
Điều bất tín sẽ truyền lưu miệng thế.
Trong kiếp sống thử còn chi đáng kể?
Ba điều kia xin trút bỏ cho ai?
Ngũ Viên ơi ta giờ đã lạc loài
Cùng quý hữu không còn mong tái ngộ...
Điều uỷ thác làm xong: nương sức gió
Ta vừa đâm Khánh Kỵ giữa phong ba,
Giữ vẹn lời cam kết lúc chia xa,
Nhưng khốn nỗi, lòng ta muốn cắn rứt!
Mơ bóng thê nhi nỗi niềm day dứt,
Bất tín trên đời, thêm bất trí, bất nhân.
Sống chi thêm cho sỉ nhục trăm phần?
Hỡi gươm báu giùm ta xong một kiếp!
(Nhật gươm đâm cổ chết)
Hạ màn
(Tổng tập văn học Việt Nam, tập 24, Hà Minh Đức sưu tầm, biên soạn,
NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 2000, tr. 1099 – 1101)
Lời độc thoại của Yêu Ly trong phần cuối vở kịch cho thấy sự giằng xé nội tâm ở nhân vật diễn ra như thế nào? Theo em, tại sao sau khi mưu sự đã thành, nhân vật lại cảm thấy “lạc loài”?
Đọc đoạn trích sau trong vở bi kịch Yêu Ly của Lưu Quang Thuận và trả lời các câu hỏi:
HỒI THỨ BA
(Giữa dòng Câu Giang sóng gợn, Khánh Kỵ đứng trên mũi thuyền với Yêu Ly, sau lưng có ngọn cờ thêu chữ Suý. Quân chèo ở lái và mũi. Tả hữu hai bên.)
LỚP II
Khánh Kỵ, Yêu Ly, Tham mưu, tả hữu, quân chèo
(Lược dẫn: Yêu Ly cầm giáo đứng sau Khánh Kỵ. Khi thuyền tập trận đang băng băng lướt theo hướng gió, Yêu Ly cũng lợi dụng sức gió, cầm giáo đâm Khánh Kỵ từ sau lưng. Quách tham mưu toan chém Yêu Ly nhưng Khánh Kỵ can.)
Khánh Kỵ: – Người đứng đấy phải Yêu Ly?
(Yêu Ly bước tới trước mặt, Khánh Kỵ đặt tay lên vai Yêu Ly, nhìn im lặng)
Vừa đâm ta. trời ơi Yêu Ly, Yêu Ly!
Ta vũ dũng hãy còn thua sức đó.
Tay một cánh giỏi nương nhờ sức gió.
Ta mang danh dũng sĩ ở trên đời,
Giữa hôm nay không ngờ có một người
Đàm ngọn giáo ngập từ sau tới trước,
Xuyên Khánh Kỵ suốt từ lưng tới ngực,
Cánh tay này còn vũ dũng hơn ta.
Quách tham mưu: – Sao Khánh công lại có thể ôn hoà
Với một kẻ nấp sau lưng hành thích?
(Đưa kiếm chém Yêu Ly, Khánh Kỵ can)
Khánh Kỵ: – Không, không nên. Giờ đây ta sắp chết,
Dũng sĩ trên đời thiệt hết một tay.
Mạng Yêu Ly các người giết hôm nay
Là thiệt mất một ngày hai dũng sĩ.
Lời ta trối xin Tham mưu nhớ kĩ
Thả Ly về Ngô quốc tỏ lòng trung;
Ta thác đi chưa thỏa chí anh hùng
Nhưng chết dưới một bàn tay vũ dũng...
Đời ta hết giữa một ngày gió sóng
Thôi Tham mưu, ngài ở lại từ đây;
Mai sau ai còn nhắc Khánh Kỵ này
Sẽ không trách kẻ râu mày thấp kém.
(Quay mặt sang phía Yêu Ly)
Từ giã Yêu Ly, anh hùng khó kiếm,
Yêu Ly về bên ấy giúp Ngô gia,
Và chuyển giùm lời từ biệt của ta.
(Thò tay ra sau rút mũi giáo, gục xuống chết. Tham mưu bỏ kiếm, quỳ ôm xác Khánh Kỵ trong tay.)
Quách tham mưu: – Khánh chủ thở xong rồi hơi thở cuối,
Khắp chiến thuyền hãy kéo cờ tang
(Tiếng loa truyền to hai câu ấy)
Rạng ngày mai ta sẽ ngược Câu Giang
Về Kinh Bắc báo tin buồn lê thứ
Quân, lấy chăn gấm đắp lên mình Khánh chủ.
(Quân hầu làm theo lời)
Yêu tiên sinh, sẵn thuyền nhỏ đem theo
Và sẵn quân ngài đã tập chống chèo,
Ngài cho phép đưa ngài sang nước cũ,
Cho tỏ rạng lượng hải hà Khánh chủ.
(Mỉa mai)
Về bên Ngô thôi rực rỡ kì công...
(Nhìn lại thi hài)
Ôi cơ đồ công tử chửa làm xong!
(Quỳ ôm mặt bên thi hài)
Yêu Ly: (Bước ra mũi thuyền)
– Tròn nghĩa lớn đã trừ xong Khánh Kỵ,
Nhưng nam tử thân này ôi xét kĩ
Người đang tâm đem giết cả thê nhi
Tiếng bất nhân không còn giấu che gì,
Mưu việc lớn thân mình đem huỷ phá
Điều bất trí muôn đời không thể xoá
Mưu trả hàng dưới trướng xin câu dung,
Dịp tốt ra tay giết kẻ anh hùng
Điều bất tín sẽ truyền lưu miệng thế.
Trong kiếp sống thử còn chi đáng kể?
Ba điều kia xin trút bỏ cho ai?
Ngũ Viên ơi ta giờ đã lạc loài
Cùng quý hữu không còn mong tái ngộ...
Điều uỷ thác làm xong: nương sức gió
Ta vừa đâm Khánh Kỵ giữa phong ba,
Giữ vẹn lời cam kết lúc chia xa,
Nhưng khốn nỗi, lòng ta muốn cắn rứt!
Mơ bóng thê nhi nỗi niềm day dứt,
Bất tín trên đời, thêm bất trí, bất nhân.
Sống chi thêm cho sỉ nhục trăm phần?
Hỡi gươm báu giùm ta xong một kiếp!
(Nhật gươm đâm cổ chết)
Hạ màn
(Tổng tập văn học Việt Nam, tập 24, Hà Minh Đức sưu tầm, biên soạn,
NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 2000, tr. 1099 – 1101)
Hành động của Khánh Kỵ sau khi bị Yêu Ly hành thích cho biết điều gì về con người Khánh Kỵ? Qua lời Khánh Kỵ, nhân vật Yêu Ly được đánh giá như thế nào?
Đọc đoạn trích sau trong vở bi kịch Yêu Ly của Lưu Quang Thuận và trả lời các câu hỏi:
HỒI THỨ BA
(Giữa dòng Câu Giang sóng gợn, Khánh Kỵ đứng trên mũi thuyền với Yêu Ly, sau lưng có ngọn cờ thêu chữ Suý. Quân chèo ở lái và mũi. Tả hữu hai bên.)
LỚP II
Khánh Kỵ, Yêu Ly, Tham mưu, tả hữu, quân chèo
(Lược dẫn: Yêu Ly cầm giáo đứng sau Khánh Kỵ. Khi thuyền tập trận đang băng băng lướt theo hướng gió, Yêu Ly cũng lợi dụng sức gió, cầm giáo đâm Khánh Kỵ từ sau lưng. Quách tham mưu toan chém Yêu Ly nhưng Khánh Kỵ can.)
Khánh Kỵ: – Người đứng đấy phải Yêu Ly?
(Yêu Ly bước tới trước mặt, Khánh Kỵ đặt tay lên vai Yêu Ly, nhìn im lặng)
Vừa đâm ta. trời ơi Yêu Ly, Yêu Ly!
Ta vũ dũng hãy còn thua sức đó.
Tay một cánh giỏi nương nhờ sức gió.
Ta mang danh dũng sĩ ở trên đời,
Giữa hôm nay không ngờ có một người
Đàm ngọn giáo ngập từ sau tới trước,
Xuyên Khánh Kỵ suốt từ lưng tới ngực,
Cánh tay này còn vũ dũng hơn ta.
Quách tham mưu: – Sao Khánh công lại có thể ôn hoà
Với một kẻ nấp sau lưng hành thích?
(Đưa kiếm chém Yêu Ly, Khánh Kỵ can)
Khánh Kỵ: – Không, không nên. Giờ đây ta sắp chết,
Dũng sĩ trên đời thiệt hết một tay.
Mạng Yêu Ly các người giết hôm nay
Là thiệt mất một ngày hai dũng sĩ.
Lời ta trối xin Tham mưu nhớ kĩ
Thả Ly về Ngô quốc tỏ lòng trung;
Ta thác đi chưa thỏa chí anh hùng
Nhưng chết dưới một bàn tay vũ dũng...
Đời ta hết giữa một ngày gió sóng
Thôi Tham mưu, ngài ở lại từ đây;
Mai sau ai còn nhắc Khánh Kỵ này
Sẽ không trách kẻ râu mày thấp kém.
(Quay mặt sang phía Yêu Ly)
Từ giã Yêu Ly, anh hùng khó kiếm,
Yêu Ly về bên ấy giúp Ngô gia,
Và chuyển giùm lời từ biệt của ta.
(Thò tay ra sau rút mũi giáo, gục xuống chết. Tham mưu bỏ kiếm, quỳ ôm xác Khánh Kỵ trong tay.)
Quách tham mưu: – Khánh chủ thở xong rồi hơi thở cuối,
Khắp chiến thuyền hãy kéo cờ tang
(Tiếng loa truyền to hai câu ấy)
Rạng ngày mai ta sẽ ngược Câu Giang
Về Kinh Bắc báo tin buồn lê thứ
Quân, lấy chăn gấm đắp lên mình Khánh chủ.
(Quân hầu làm theo lời)
Yêu tiên sinh, sẵn thuyền nhỏ đem theo
Và sẵn quân ngài đã tập chống chèo,
Ngài cho phép đưa ngài sang nước cũ,
Cho tỏ rạng lượng hải hà Khánh chủ.
(Mỉa mai)
Về bên Ngô thôi rực rỡ kì công...
(Nhìn lại thi hài)
Ôi cơ đồ công tử chửa làm xong!
(Quỳ ôm mặt bên thi hài)
Yêu Ly: (Bước ra mũi thuyền)
– Tròn nghĩa lớn đã trừ xong Khánh Kỵ,
Nhưng nam tử thân này ôi xét kĩ
Người đang tâm đem giết cả thê nhi
Tiếng bất nhân không còn giấu che gì,
Mưu việc lớn thân mình đem huỷ phá
Điều bất trí muôn đời không thể xoá
Mưu trả hàng dưới trướng xin câu dung,
Dịp tốt ra tay giết kẻ anh hùng
Điều bất tín sẽ truyền lưu miệng thế.
Trong kiếp sống thử còn chi đáng kể?
Ba điều kia xin trút bỏ cho ai?
Ngũ Viên ơi ta giờ đã lạc loài
Cùng quý hữu không còn mong tái ngộ...
Điều uỷ thác làm xong: nương sức gió
Ta vừa đâm Khánh Kỵ giữa phong ba,
Giữ vẹn lời cam kết lúc chia xa,
Nhưng khốn nỗi, lòng ta muốn cắn rứt!
Mơ bóng thê nhi nỗi niềm day dứt,
Bất tín trên đời, thêm bất trí, bất nhân.
Sống chi thêm cho sỉ nhục trăm phần?
Hỡi gươm báu giùm ta xong một kiếp!
(Nhật gươm đâm cổ chết)
Hạ màn
(Tổng tập văn học Việt Nam, tập 24, Hà Minh Đức sưu tầm, biên soạn,
NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 2000, tr. 1099 – 1101)
Yêu Ly hành thích Khánh Kỵ xuất phát từ động cơ gì?
Đọc đoạn trích sau trong vở bi kịch Rô-mê-ô và Giu-li-ét và trả lời các câu hỏi:
HỒI BA
CẢNH V
RÔ-MÊ-Ô VÀ GIU-LI-ÉT ĐỨNG BÊN CỬA SỔ TRÔNG XUỐNG VƯỜN
Giu-li-ét: – Anh đi ư? Trời còn lâu mới sáng. Tiếng chim đã làm anh hoảng hốt là tiếng hoạ mi đấy, không phải tiếng sơn ca đâu. Đêm nào nó cũng hót trên cây lựu đằng kia. Anh ơi, cứ tin lời em nói, đúng là tiếng hoạ mi.
Rô-mê-ô: – Sơn ca, sứ giả của bình minh đấy! Không phải hoạ mi đâu. Em yêu quý, hãy nhìn kia, ảnh hồng ghen với chúng ta đã viên sáng những đám mây đang phải rời nhau ngoài phương đông. Những ngọn bạch lạp trên trời đêm đã tắt, và bình minh tươi vui đang kiễng chân rón rén trên đỉnh núi xa mờ. Anh phải ra đi để sống hoặc ở lại mà chết.
Giu-li-ét: – Vệt sáng kia không phải ánh bình minh, em biết! Đó là một ngôi sao băng mặt trời vừa phun ra để làm ngọn đuốc đưa anh tới Man-tua. Anh hãy ở lại chưa đến lúc anh phải ra đi.
Rô-mê-ô: – Được, cứ để họ bắt, cứ để họ giết! Anh sẽ vui lòng, vì đó là ý muốn của em. Vệt sáng mờ kia đâu phải ánh mắt của bình minh, đó chỉ là tia phản chiếu của vừng trán ả Hằng. Tiếng hót vang bầu trời trên đầu chúng ta cũng chẳng phải tiếng sơn ca. Anh thiết tha muốn ở lại nơi đây, chẳng còn lòng nào cất bước. Tử thần hỡi, cứ lại đây, ta vui lòng chờ mi, vì nàng Giu-li-ét muốn như vậy... Hỡi tâm hồn của anh, chúng ta đang nói gì nhỉ? Chúng ta hãy tiếp tục chuyện trò đi, trời đã sáng đâu.
Giu-li-ét: – Trời sáng rồi, trời sáng rồi! Anh ơi, đi đi, đi ngay đi. Đúng là con sơn ca đang cất tiếng hót lạc điệu; giọng nó mới chối tai làm sao! Người ta bảo tiếng sơn ca êm ái, thánh thót, bởi nó khéo phân chia cung bậc, nhưng chẳng phải vậy đâu, bởi nó chỉ chia lìa anh và em thôi. Người ta bảo sơn ca xưa đã đổi mắt với giống cóc nhái; sao chúng chẳng đổi cả giọng cho nhau, vì tiếng hót hôm nay chỉ bắt chúng ta phải kinh hoảng rời nhau; nó như tiếng kèn phường săn đuổi bắt anh rời khỏi nơi đây. Anh ơi, anh đi đi. Trời mỗi lúc một sáng.
Rô-mê-ô: – Mỗi lúc một sáng ư? Nỗi đau thương của chúng ta mỗi lúc một chìm thêm vào tăm tối.
(Uy-li-am Sếch-xpia, Rô-mê-ô và Giu-li-ét, in trong William Shakespeare Những vở kịch nổi tiếng, Đặng Thế Bính dịch, NXB Kim Đồng, Hà Nội,
2017, tr. 115 - 116)
Tìm câu rút gọn trong đoạn trích và cho biết thành phần nào của câu bị tỉnh lược.
Đọc đoạn trích sau trong vở bi kịch Rô-mê-ô và Giu-li-ét và trả lời các câu hỏi:
HỒI BA
CẢNH V
RÔ-MÊ-Ô VÀ GIU-LI-ÉT ĐỨNG BÊN CỬA SỔ TRÔNG XUỐNG VƯỜN
Giu-li-ét: – Anh đi ư? Trời còn lâu mới sáng. Tiếng chim đã làm anh hoảng hốt là tiếng hoạ mi đấy, không phải tiếng sơn ca đâu. Đêm nào nó cũng hót trên cây lựu đằng kia. Anh ơi, cứ tin lời em nói, đúng là tiếng hoạ mi.
Rô-mê-ô: – Sơn ca, sứ giả của bình minh đấy! Không phải hoạ mi đâu. Em yêu quý, hãy nhìn kia, ảnh hồng ghen với chúng ta đã viên sáng những đám mây đang phải rời nhau ngoài phương đông. Những ngọn bạch lạp trên trời đêm đã tắt, và bình minh tươi vui đang kiễng chân rón rén trên đỉnh núi xa mờ. Anh phải ra đi để sống hoặc ở lại mà chết.
Giu-li-ét: – Vệt sáng kia không phải ánh bình minh, em biết! Đó là một ngôi sao băng mặt trời vừa phun ra để làm ngọn đuốc đưa anh tới Man-tua. Anh hãy ở lại chưa đến lúc anh phải ra đi.
Rô-mê-ô: – Được, cứ để họ bắt, cứ để họ giết! Anh sẽ vui lòng, vì đó là ý muốn của em. Vệt sáng mờ kia đâu phải ánh mắt của bình minh, đó chỉ là tia phản chiếu của vừng trán ả Hằng. Tiếng hót vang bầu trời trên đầu chúng ta cũng chẳng phải tiếng sơn ca. Anh thiết tha muốn ở lại nơi đây, chẳng còn lòng nào cất bước. Tử thần hỡi, cứ lại đây, ta vui lòng chờ mi, vì nàng Giu-li-ét muốn như vậy... Hỡi tâm hồn của anh, chúng ta đang nói gì nhỉ? Chúng ta hãy tiếp tục chuyện trò đi, trời đã sáng đâu.
Giu-li-ét: – Trời sáng rồi, trời sáng rồi! Anh ơi, đi đi, đi ngay đi. Đúng là con sơn ca đang cất tiếng hót lạc điệu; giọng nó mới chối tai làm sao! Người ta bảo tiếng sơn ca êm ái, thánh thót, bởi nó khéo phân chia cung bậc, nhưng chẳng phải vậy đâu, bởi nó chỉ chia lìa anh và em thôi. Người ta bảo sơn ca xưa đã đổi mắt với giống cóc nhái; sao chúng chẳng đổi cả giọng cho nhau, vì tiếng hót hôm nay chỉ bắt chúng ta phải kinh hoảng rời nhau; nó như tiếng kèn phường săn đuổi bắt anh rời khỏi nơi đây. Anh ơi, anh đi đi. Trời mỗi lúc một sáng.
Rô-mê-ô: – Mỗi lúc một sáng ư? Nỗi đau thương của chúng ta mỗi lúc một chìm thêm vào tăm tối.
(Uy-li-am Sếch-xpia, Rô-mê-ô và Giu-li-ét, in trong William Shakespeare Những vở kịch nổi tiếng, Đặng Thế Bính dịch, NXB Kim Đồng, Hà Nội,
2017, tr. 115 - 116)
Câu thoại nào cho thấy những dự cảm không lành của Rô-mê-ô về tương lai? Điều này hé lộ những sự việc nào tiếp theo sẽ xảy đến với đôi uyên ương?
Đọc đoạn trích sau trong vở bi kịch Rô-mê-ô và Giu-li-ét và trả lời các câu hỏi:
HỒI BA
CẢNH V
RÔ-MÊ-Ô VÀ GIU-LI-ÉT ĐỨNG BÊN CỬA SỔ TRÔNG XUỐNG VƯỜN
Giu-li-ét: – Anh đi ư? Trời còn lâu mới sáng. Tiếng chim đã làm anh hoảng hốt là tiếng hoạ mi đấy, không phải tiếng sơn ca đâu. Đêm nào nó cũng hót trên cây lựu đằng kia. Anh ơi, cứ tin lời em nói, đúng là tiếng hoạ mi.
Rô-mê-ô: – Sơn ca, sứ giả của bình minh đấy! Không phải hoạ mi đâu. Em yêu quý, hãy nhìn kia, ảnh hồng ghen với chúng ta đã viên sáng những đám mây đang phải rời nhau ngoài phương đông. Những ngọn bạch lạp trên trời đêm đã tắt, và bình minh tươi vui đang kiễng chân rón rén trên đỉnh núi xa mờ. Anh phải ra đi để sống hoặc ở lại mà chết.
Giu-li-ét: – Vệt sáng kia không phải ánh bình minh, em biết! Đó là một ngôi sao băng mặt trời vừa phun ra để làm ngọn đuốc đưa anh tới Man-tua. Anh hãy ở lại chưa đến lúc anh phải ra đi.
Rô-mê-ô: – Được, cứ để họ bắt, cứ để họ giết! Anh sẽ vui lòng, vì đó là ý muốn của em. Vệt sáng mờ kia đâu phải ánh mắt của bình minh, đó chỉ là tia phản chiếu của vừng trán ả Hằng. Tiếng hót vang bầu trời trên đầu chúng ta cũng chẳng phải tiếng sơn ca. Anh thiết tha muốn ở lại nơi đây, chẳng còn lòng nào cất bước. Tử thần hỡi, cứ lại đây, ta vui lòng chờ mi, vì nàng Giu-li-ét muốn như vậy... Hỡi tâm hồn của anh, chúng ta đang nói gì nhỉ? Chúng ta hãy tiếp tục chuyện trò đi, trời đã sáng đâu.
Giu-li-ét: – Trời sáng rồi, trời sáng rồi! Anh ơi, đi đi, đi ngay đi. Đúng là con sơn ca đang cất tiếng hót lạc điệu; giọng nó mới chối tai làm sao! Người ta bảo tiếng sơn ca êm ái, thánh thót, bởi nó khéo phân chia cung bậc, nhưng chẳng phải vậy đâu, bởi nó chỉ chia lìa anh và em thôi. Người ta bảo sơn ca xưa đã đổi mắt với giống cóc nhái; sao chúng chẳng đổi cả giọng cho nhau, vì tiếng hót hôm nay chỉ bắt chúng ta phải kinh hoảng rời nhau; nó như tiếng kèn phường săn đuổi bắt anh rời khỏi nơi đây. Anh ơi, anh đi đi. Trời mỗi lúc một sáng.
Rô-mê-ô: – Mỗi lúc một sáng ư? Nỗi đau thương của chúng ta mỗi lúc một chìm thêm vào tăm tối.
(Uy-li-am Sếch-xpia, Rô-mê-ô và Giu-li-ét, in trong William Shakespeare Những vở kịch nổi tiếng, Đặng Thế Bính dịch, NXB Kim Đồng, Hà Nội,
2017, tr. 115 - 116)
Phân tích tâm trạng của Rô-mê-ô trong giờ phút chia tay Giu-li-ét.
Đọc đoạn trích sau trong vở bi kịch Rô-mê-ô và Giu-li-ét và trả lời các câu hỏi:
HỒI BA
CẢNH V
RÔ-MÊ-Ô VÀ GIU-LI-ÉT ĐỨNG BÊN CỬA SỔ TRÔNG XUỐNG VƯỜN
Giu-li-ét: – Anh đi ư? Trời còn lâu mới sáng. Tiếng chim đã làm anh hoảng hốt là tiếng hoạ mi đấy, không phải tiếng sơn ca đâu. Đêm nào nó cũng hót trên cây lựu đằng kia. Anh ơi, cứ tin lời em nói, đúng là tiếng hoạ mi.
Rô-mê-ô: – Sơn ca, sứ giả của bình minh đấy! Không phải hoạ mi đâu. Em yêu quý, hãy nhìn kia, ảnh hồng ghen với chúng ta đã viên sáng những đám mây đang phải rời nhau ngoài phương đông. Những ngọn bạch lạp trên trời đêm đã tắt, và bình minh tươi vui đang kiễng chân rón rén trên đỉnh núi xa mờ. Anh phải ra đi để sống hoặc ở lại mà chết.
Giu-li-ét: – Vệt sáng kia không phải ánh bình minh, em biết! Đó là một ngôi sao băng mặt trời vừa phun ra để làm ngọn đuốc đưa anh tới Man-tua. Anh hãy ở lại chưa đến lúc anh phải ra đi.
Rô-mê-ô: – Được, cứ để họ bắt, cứ để họ giết! Anh sẽ vui lòng, vì đó là ý muốn của em. Vệt sáng mờ kia đâu phải ánh mắt của bình minh, đó chỉ là tia phản chiếu của vừng trán ả Hằng. Tiếng hót vang bầu trời trên đầu chúng ta cũng chẳng phải tiếng sơn ca. Anh thiết tha muốn ở lại nơi đây, chẳng còn lòng nào cất bước. Tử thần hỡi, cứ lại đây, ta vui lòng chờ mi, vì nàng Giu-li-ét muốn như vậy... Hỡi tâm hồn của anh, chúng ta đang nói gì nhỉ? Chúng ta hãy tiếp tục chuyện trò đi, trời đã sáng đâu.
Giu-li-ét: – Trời sáng rồi, trời sáng rồi! Anh ơi, đi đi, đi ngay đi. Đúng là con sơn ca đang cất tiếng hót lạc điệu; giọng nó mới chối tai làm sao! Người ta bảo tiếng sơn ca êm ái, thánh thót, bởi nó khéo phân chia cung bậc, nhưng chẳng phải vậy đâu, bởi nó chỉ chia lìa anh và em thôi. Người ta bảo sơn ca xưa đã đổi mắt với giống cóc nhái; sao chúng chẳng đổi cả giọng cho nhau, vì tiếng hót hôm nay chỉ bắt chúng ta phải kinh hoảng rời nhau; nó như tiếng kèn phường săn đuổi bắt anh rời khỏi nơi đây. Anh ơi, anh đi đi. Trời mỗi lúc một sáng.
Rô-mê-ô: – Mỗi lúc một sáng ư? Nỗi đau thương của chúng ta mỗi lúc một chìm thêm vào tăm tối.
(Uy-li-am Sếch-xpia, Rô-mê-ô và Giu-li-ét, in trong William Shakespeare Những vở kịch nổi tiếng, Đặng Thế Bính dịch, NXB Kim Đồng, Hà Nội,
2017, tr. 115 - 116)
Chỉ ra tính chất đối nghịch trong lời thoại kịch thể hiện qua đoạn trích.
Đọc đoạn trích sau trong vở bi kịch Rô-mê-ô và Giu-li-ét và trả lời các câu hỏi:
HỒI BA
CẢNH V
RÔ-MÊ-Ô VÀ GIU-LI-ÉT ĐỨNG BÊN CỬA SỔ TRÔNG XUỐNG VƯỜN
Giu-li-ét: – Anh đi ư? Trời còn lâu mới sáng. Tiếng chim đã làm anh hoảng hốt là tiếng hoạ mi đấy, không phải tiếng sơn ca đâu. Đêm nào nó cũng hót trên cây lựu đằng kia. Anh ơi, cứ tin lời em nói, đúng là tiếng hoạ mi.
Rô-mê-ô: – Sơn ca, sứ giả của bình minh đấy! Không phải hoạ mi đâu. Em yêu quý, hãy nhìn kia, ảnh hồng ghen với chúng ta đã viên sáng những đám mây đang phải rời nhau ngoài phương đông. Những ngọn bạch lạp trên trời đêm đã tắt, và bình minh tươi vui đang kiễng chân rón rén trên đỉnh núi xa mờ. Anh phải ra đi để sống hoặc ở lại mà chết.
Giu-li-ét: – Vệt sáng kia không phải ánh bình minh, em biết! Đó là một ngôi sao băng mặt trời vừa phun ra để làm ngọn đuốc đưa anh tới Man-tua. Anh hãy ở lại chưa đến lúc anh phải ra đi.
Rô-mê-ô: – Được, cứ để họ bắt, cứ để họ giết! Anh sẽ vui lòng, vì đó là ý muốn của em. Vệt sáng mờ kia đâu phải ánh mắt của bình minh, đó chỉ là tia phản chiếu của vừng trán ả Hằng. Tiếng hót vang bầu trời trên đầu chúng ta cũng chẳng phải tiếng sơn ca. Anh thiết tha muốn ở lại nơi đây, chẳng còn lòng nào cất bước. Tử thần hỡi, cứ lại đây, ta vui lòng chờ mi, vì nàng Giu-li-ét muốn như vậy... Hỡi tâm hồn của anh, chúng ta đang nói gì nhỉ? Chúng ta hãy tiếp tục chuyện trò đi, trời đã sáng đâu.
Giu-li-ét: – Trời sáng rồi, trời sáng rồi! Anh ơi, đi đi, đi ngay đi. Đúng là con sơn ca đang cất tiếng hót lạc điệu; giọng nó mới chối tai làm sao! Người ta bảo tiếng sơn ca êm ái, thánh thót, bởi nó khéo phân chia cung bậc, nhưng chẳng phải vậy đâu, bởi nó chỉ chia lìa anh và em thôi. Người ta bảo sơn ca xưa đã đổi mắt với giống cóc nhái; sao chúng chẳng đổi cả giọng cho nhau, vì tiếng hót hôm nay chỉ bắt chúng ta phải kinh hoảng rời nhau; nó như tiếng kèn phường săn đuổi bắt anh rời khỏi nơi đây. Anh ơi, anh đi đi. Trời mỗi lúc một sáng.
Rô-mê-ô: – Mỗi lúc một sáng ư? Nỗi đau thương của chúng ta mỗi lúc một chìm thêm vào tăm tối.
(Uy-li-am Sếch-xpia, Rô-mê-ô và Giu-li-ét, in trong William Shakespeare Những vở kịch nổi tiếng, Đặng Thế Bính dịch, NXB Kim Đồng, Hà Nội,
2017, tr. 115 - 116)
Tại sao Giu-li-ét cứ một mực khẳng định trời chưa sáng? Giải thích sự thay đổi đột ngột của nàng qua lời thoại “Trời sáng rồi... mỗi lúc một sáng”.
Đọc đoạn trích sau trong vở bi kịch Rô-mê-ô và Giu-li-ét và trả lời các câu hỏi:
HỒI BA
CẢNH V
RÔ-MÊ-Ô VÀ GIU-LI-ÉT ĐỨNG BÊN CỬA SỔ TRÔNG XUỐNG VƯỜN
Giu-li-ét: – Anh đi ư? Trời còn lâu mới sáng. Tiếng chim đã làm anh hoảng hốt là tiếng hoạ mi đấy, không phải tiếng sơn ca đâu. Đêm nào nó cũng hót trên cây lựu đằng kia. Anh ơi, cứ tin lời em nói, đúng là tiếng hoạ mi.
Rô-mê-ô: – Sơn ca, sứ giả của bình minh đấy! Không phải hoạ mi đâu. Em yêu quý, hãy nhìn kia, ảnh hồng ghen với chúng ta đã viên sáng những đám mây đang phải rời nhau ngoài phương đông. Những ngọn bạch lạp trên trời đêm đã tắt, và bình minh tươi vui đang kiễng chân rón rén trên đỉnh núi xa mờ. Anh phải ra đi để sống hoặc ở lại mà chết.
Giu-li-ét: – Vệt sáng kia không phải ánh bình minh, em biết! Đó là một ngôi sao băng mặt trời vừa phun ra để làm ngọn đuốc đưa anh tới Man-tua. Anh hãy ở lại chưa đến lúc anh phải ra đi.
Rô-mê-ô: – Được, cứ để họ bắt, cứ để họ giết! Anh sẽ vui lòng, vì đó là ý muốn của em. Vệt sáng mờ kia đâu phải ánh mắt của bình minh, đó chỉ là tia phản chiếu của vừng trán ả Hằng. Tiếng hót vang bầu trời trên đầu chúng ta cũng chẳng phải tiếng sơn ca. Anh thiết tha muốn ở lại nơi đây, chẳng còn lòng nào cất bước. Tử thần hỡi, cứ lại đây, ta vui lòng chờ mi, vì nàng Giu-li-ét muốn như vậy... Hỡi tâm hồn của anh, chúng ta đang nói gì nhỉ? Chúng ta hãy tiếp tục chuyện trò đi, trời đã sáng đâu.
Giu-li-ét: – Trời sáng rồi, trời sáng rồi! Anh ơi, đi đi, đi ngay đi. Đúng là con sơn ca đang cất tiếng hót lạc điệu; giọng nó mới chối tai làm sao! Người ta bảo tiếng sơn ca êm ái, thánh thót, bởi nó khéo phân chia cung bậc, nhưng chẳng phải vậy đâu, bởi nó chỉ chia lìa anh và em thôi. Người ta bảo sơn ca xưa đã đổi mắt với giống cóc nhái; sao chúng chẳng đổi cả giọng cho nhau, vì tiếng hót hôm nay chỉ bắt chúng ta phải kinh hoảng rời nhau; nó như tiếng kèn phường săn đuổi bắt anh rời khỏi nơi đây. Anh ơi, anh đi đi. Trời mỗi lúc một sáng.
Rô-mê-ô: – Mỗi lúc một sáng ư? Nỗi đau thương của chúng ta mỗi lúc một chìm thêm vào tăm tối.
(Uy-li-am Sếch-xpia, Rô-mê-ô và Giu-li-ét, in trong William Shakespeare Những vở kịch nổi tiếng, Đặng Thế Bính dịch, NXB Kim Đồng, Hà Nội,
2017, tr. 115 - 116)
Tính hoa mĩ trong lời thoại của nhân vật được thể hiện như thế nào ở đoạn trích này?
Đọc đoạn trích sau và trả lời các câu hỏi:
Nam Cao thường hướng ngòi bút của mình vào việc miêu tả cuộc sống hằng ngày, những cuộc đời quen thuộc ở quanh ta. Đặc điểm của hoàn cảnh được miêu tả như thế có ảnh hưởng đến đặc trưng nghệ thuật của sáng tác Nam Cao. Trong những tác phẩm của mình, Nam Cao đã phản ánh sâu sắc những mâu thuẫn, xung đột, sự bất mãn sâu sắc của những con người của thời đại ông với hoàn cảnh xã hội và chế độ chính trị đương thời. Ông mong muốn hiểu thấu những vấn đề, những hiện tượng của con người và xã hội, đồng thời ráo riết truy tìm nguyên nhân của những hiện tượng đó. Đọc Nam Cao, có thể thấy ám ảnh trong cái nhìn của ông là tình trạng “sống mòn” của con người và day dứt trong tâm trí ông câu hỏi: Liệu có thể biến đổi thói quen của con người, liệu nhân loại có khả năng thoát ra khỏi tình trạng “chết mòn” hay không?
Những nhân vật của Nam Cao là những “con người nhỏ bé”, những con người bình thường trong cuộc sống hằng ngày. Nhà văn, với một sự cảm thông lớn lao, đã chăm chú quan sát cuộc sống hằng ngày của nhân vật. Cái đói, sự nghèo khổ, bệnh tật, tất cả những cái đó cứ đeo đuổi, cứ bám riết trên con đường đời của họ. Trong hoàn cảnh như vậy, với một sức mạnh nghệ thuật đặc biệt, Nam Cao đã làm sống dậy thật cụ thể, sinh động, đầy ám ảnh những cuộc đời và số phận, những nét tâm lí và tính cách của nhân vật. Cái nhìn hướng nội, hướng đến đời sống tinh thần đã chi phối mạnh mẽ và sâu sắc đến toàn bộ tổ chức của tác phẩm, từ cốt truyện, kết cấu xung đột đến không gian và thời gian nghệ thuật.
(Theo Trần Đăng Suyền, Chủ nghĩa hiện thực Nam Cao, NXB Giáo dục,
2004, tr. 31)
Qua phân tích của tác giả, em nhận ra thái độ, tình cảm gì của Nam Cao với con người và cuộc sống?
Đọc đoạn trích sau và trả lời các câu hỏi:
Nam Cao thường hướng ngòi bút của mình vào việc miêu tả cuộc sống hằng ngày, những cuộc đời quen thuộc ở quanh ta. Đặc điểm của hoàn cảnh được miêu tả như thế có ảnh hưởng đến đặc trưng nghệ thuật của sáng tác Nam Cao. Trong những tác phẩm của mình, Nam Cao đã phản ánh sâu sắc những mâu thuẫn, xung đột, sự bất mãn sâu sắc của những con người của thời đại ông với hoàn cảnh xã hội và chế độ chính trị đương thời. Ông mong muốn hiểu thấu những vấn đề, những hiện tượng của con người và xã hội, đồng thời ráo riết truy tìm nguyên nhân của những hiện tượng đó. Đọc Nam Cao, có thể thấy ám ảnh trong cái nhìn của ông là tình trạng “sống mòn” của con người và day dứt trong tâm trí ông câu hỏi: Liệu có thể biến đổi thói quen của con người, liệu nhân loại có khả năng thoát ra khỏi tình trạng “chết mòn” hay không?
Những nhân vật của Nam Cao là những “con người nhỏ bé”, những con người bình thường trong cuộc sống hằng ngày. Nhà văn, với một sự cảm thông lớn lao, đã chăm chú quan sát cuộc sống hằng ngày của nhân vật. Cái đói, sự nghèo khổ, bệnh tật, tất cả những cái đó cứ đeo đuổi, cứ bám riết trên con đường đời của họ. Trong hoàn cảnh như vậy, với một sức mạnh nghệ thuật đặc biệt, Nam Cao đã làm sống dậy thật cụ thể, sinh động, đầy ám ảnh những cuộc đời và số phận, những nét tâm lí và tính cách của nhân vật. Cái nhìn hướng nội, hướng đến đời sống tinh thần đã chi phối mạnh mẽ và sâu sắc đến toàn bộ tổ chức của tác phẩm, từ cốt truyện, kết cấu xung đột đến không gian và thời gian nghệ thuật.
(Theo Trần Đăng Suyền, Chủ nghĩa hiện thực Nam Cao, NXB Giáo dục,
2004, tr. 31)
Tìm một câu trong đoạn trích thể hiện ý kiến đánh giá của tác giả về đặc điểm hình thức của tác phẩm Nam Cao.
Đọc đoạn trích sau và trả lời các câu hỏi:
Nam Cao thường hướng ngòi bút của mình vào việc miêu tả cuộc sống hằng ngày, những cuộc đời quen thuộc ở quanh ta. Đặc điểm của hoàn cảnh được miêu tả như thế có ảnh hưởng đến đặc trưng nghệ thuật của sáng tác Nam Cao. Trong những tác phẩm của mình, Nam Cao đã phản ánh sâu sắc những mâu thuẫn, xung đột, sự bất mãn sâu sắc của những con người của thời đại ông với hoàn cảnh xã hội và chế độ chính trị đương thời. Ông mong muốn hiểu thấu những vấn đề, những hiện tượng của con người và xã hội, đồng thời ráo riết truy tìm nguyên nhân của những hiện tượng đó. Đọc Nam Cao, có thể thấy ám ảnh trong cái nhìn của ông là tình trạng “sống mòn” của con người và day dứt trong tâm trí ông câu hỏi: Liệu có thể biến đổi thói quen của con người, liệu nhân loại có khả năng thoát ra khỏi tình trạng “chết mòn” hay không?
Những nhân vật của Nam Cao là những “con người nhỏ bé”, những con người bình thường trong cuộc sống hằng ngày. Nhà văn, với một sự cảm thông lớn lao, đã chăm chú quan sát cuộc sống hằng ngày của nhân vật. Cái đói, sự nghèo khổ, bệnh tật, tất cả những cái đó cứ đeo đuổi, cứ bám riết trên con đường đời của họ. Trong hoàn cảnh như vậy, với một sức mạnh nghệ thuật đặc biệt, Nam Cao đã làm sống dậy thật cụ thể, sinh động, đầy ám ảnh những cuộc đời và số phận, những nét tâm lí và tính cách của nhân vật. Cái nhìn hướng nội, hướng đến đời sống tinh thần đã chi phối mạnh mẽ và sâu sắc đến toàn bộ tổ chức của tác phẩm, từ cốt truyện, kết cấu xung đột đến không gian và thời gian nghệ thuật.
(Theo Trần Đăng Suyền, Chủ nghĩa hiện thực Nam Cao, NXB Giáo dục,
2004, tr. 31)
Theo tác giả, Nam Cao có cái nhìn như thế nào về con người?
Đọc đoạn trích sau và trả lời các câu hỏi:
Nam Cao thường hướng ngòi bút của mình vào việc miêu tả cuộc sống hằng ngày, những cuộc đời quen thuộc ở quanh ta. Đặc điểm của hoàn cảnh được miêu tả như thế có ảnh hưởng đến đặc trưng nghệ thuật của sáng tác Nam Cao. Trong những tác phẩm của mình, Nam Cao đã phản ánh sâu sắc những mâu thuẫn, xung đột, sự bất mãn sâu sắc của những con người của thời đại ông với hoàn cảnh xã hội và chế độ chính trị đương thời. Ông mong muốn hiểu thấu những vấn đề, những hiện tượng của con người và xã hội, đồng thời ráo riết truy tìm nguyên nhân của những hiện tượng đó. Đọc Nam Cao, có thể thấy ám ảnh trong cái nhìn của ông là tình trạng “sống mòn” của con người và day dứt trong tâm trí ông câu hỏi: Liệu có thể biến đổi thói quen của con người, liệu nhân loại có khả năng thoát ra khỏi tình trạng “chết mòn” hay không?
Những nhân vật của Nam Cao là những “con người nhỏ bé”, những con người bình thường trong cuộc sống hằng ngày. Nhà văn, với một sự cảm thông lớn lao, đã chăm chú quan sát cuộc sống hằng ngày của nhân vật. Cái đói, sự nghèo khổ, bệnh tật, tất cả những cái đó cứ đeo đuổi, cứ bám riết trên con đường đời của họ. Trong hoàn cảnh như vậy, với một sức mạnh nghệ thuật đặc biệt, Nam Cao đã làm sống dậy thật cụ thể, sinh động, đầy ám ảnh những cuộc đời và số phận, những nét tâm lí và tính cách của nhân vật. Cái nhìn hướng nội, hướng đến đời sống tinh thần đã chi phối mạnh mẽ và sâu sắc đến toàn bộ tổ chức của tác phẩm, từ cốt truyện, kết cấu xung đột đến không gian và thời gian nghệ thuật.
(Theo Trần Đăng Suyền, Chủ nghĩa hiện thực Nam Cao, NXB Giáo dục,
2004, tr. 31)
Đoạn trích giúp em hiểu điều gì về cuộc sống và con người được miêu tả trong sáng tác của nhà văn Nam Cao?
Đọc đoạn trích sau và trả lời các câu hỏi:
Nam Cao thường hướng ngòi bút của mình vào việc miêu tả cuộc sống hằng ngày, những cuộc đời quen thuộc ở quanh ta. Đặc điểm của hoàn cảnh được miêu tả như thế có ảnh hưởng đến đặc trưng nghệ thuật của sáng tác Nam Cao. Trong những tác phẩm của mình, Nam Cao đã phản ánh sâu sắc những mâu thuẫn, xung đột, sự bất mãn sâu sắc của những con người của thời đại ông với hoàn cảnh xã hội và chế độ chính trị đương thời. Ông mong muốn hiểu thấu những vấn đề, những hiện tượng của con người và xã hội, đồng thời ráo riết truy tìm nguyên nhân của những hiện tượng đó. Đọc Nam Cao, có thể thấy ám ảnh trong cái nhìn của ông là tình trạng “sống mòn” của con người và day dứt trong tâm trí ông câu hỏi: Liệu có thể biến đổi thói quen của con người, liệu nhân loại có khả năng thoát ra khỏi tình trạng “chết mòn” hay không?
Những nhân vật của Nam Cao là những “con người nhỏ bé”, những con người bình thường trong cuộc sống hằng ngày. Nhà văn, với một sự cảm thông lớn lao, đã chăm chú quan sát cuộc sống hằng ngày của nhân vật. Cái đói, sự nghèo khổ, bệnh tật, tất cả những cái đó cứ đeo đuổi, cứ bám riết trên con đường đời của họ. Trong hoàn cảnh như vậy, với một sức mạnh nghệ thuật đặc biệt, Nam Cao đã làm sống dậy thật cụ thể, sinh động, đầy ám ảnh những cuộc đời và số phận, những nét tâm lí và tính cách của nhân vật. Cái nhìn hướng nội, hướng đến đời sống tinh thần đã chi phối mạnh mẽ và sâu sắc đến toàn bộ tổ chức của tác phẩm, từ cốt truyện, kết cấu xung đột đến không gian và thời gian nghệ thuật.
(Theo Trần Đăng Suyền, Chủ nghĩa hiện thực Nam Cao, NXB Giáo dục,
2004, tr. 31)
Đối tượng nghị luận của đoạn trích này có gì khác biệt so với đối tượng nghị luận của đoạn trích trong bài tập 5? Đối tượng nghị luận chi phối như thế nào đến cách phân tích của tác giả?
Đọc đoạn trích viết về tám câu thơ cuối đoạn Kiều ở lầu Ngưng Bích trong Truyện Kiều dưới đây và trả lời các câu hỏi:
Tám câu thơ cuối cùng của toàn đoạn thơ được xây dựng bởi điệp ngữ “buồn trông” ở các câu sáu nhằm diễn tả nét chủ đạo chi phối tâm trạng Thuý Kiều. Dường như ở đây không có con người, chỉ có cảnh vật hay đúng hơn, chỉ còn tâm trạng. Đây là một trong những đoạn tả cảnh ngụ tình thành công nhất trong “Truyện Kiều”. Với quan niệm thẩm mĩ truyền thống, Nguyễn Du luôn luôn lấy khung cảnh thiên nhiên làm nền cho hoạt động nội tâm của nhân vật. Tính chất truyền thống ấy biểu hiện qua sự chi phối của lô-gíc nội tâm đối với lô-gíc cảnh vật khách quan, qua bút pháp phác hoạ và khái quát, qua hình tượng và ngôn ngữ ước lệ công thức.
Nhưng ở đoạn thơ này, cảnh vật thiên nhiên lại được miêu tả hết sức chân thực như cửa biển, cánh buồm, nội cỏ, chân mây với một số đường nét, màu sắc, âm thanh sinh động như “ngọn nước mới sa”, “một màu xanh xanh”, “ầm ầm tiếng sóng Tất cả hình bóng thiên nhiên chân thực, sinh động nói trên cùng với cảnh vật trong nhiều đoạn thơ khác như “Lối mòn cỏ nhợt màu sương”, “Vầng trăng ai xẻ làm đôi “Cỏ lan mặt đất”, “gai góc mọc đầy”,... trước hết nảy nở trên rung cảm và quan sát của một tâm hồn nghệ sĩ vốn gắn bó với cảnh vật thiên nhiên, với quê hương xứ sở,... Cuộc sống tiếp xúc với nhiều xứ sở, nhiều cảnh vật là một đặc điểm trong cuộc đời Nguyễn Du. Điều ấy đã để lại ảnh hưởng không nhỏ khi nhà thơ khắc hoạ lại cảnh sắc thiên nhiên trên những trang “Truyện Kiều” của mình.
Bút lực của một thi tài đã phát huy cao độ tính đa nghĩa của ngôn ngữ, tính đa dạng của hình tượng, từ đó tạo nên nhiều tầng ý nghĩa của một từ ngữ, một hình tượng, mở ra trường liên tưởng phong phủ rộng mở. Cánh “hoa trôi man mác” giữa dòng nước mênh mông cũng là tâm trạng và số phận vô định của Thuý Kiều.“Nội cỏ dầu dầu”, giữa “chân mây mặt đất” vô cùng rộng lớn xa xăm hay chính là tâm trạng bị thương, tương lai mờ mịt của nàng? Và thiên nhiên dữ dội, “gió cuốn mặt duềnh” “ầm ầm tiếng sóng” như nói lên tâm trạng hãi hùng và cuộc sống đầy đe doạ đang bao quanh nàng... Mỗi từ ngữ, mỗi hình ảnh miêu tả thiên nhiên đồng thời là một ẩn dụ về tâm trạng, và cả về số phận con người...
(Theo Đặng Thanh Lê, Giảng văn Truyện Kiều, NXB Giáo dục, 2003, tr. 69 – 70)
Sau khi đọc văn bản này, em rút được kinh nghiệm gì để viết được một bài văn nghị luận sinh động?
Đọc đoạn trích viết về tám câu thơ cuối đoạn Kiều ở lầu Ngưng Bích trong Truyện Kiều dưới đây và trả lời các câu hỏi:
Tám câu thơ cuối cùng của toàn đoạn thơ được xây dựng bởi điệp ngữ “buồn trông” ở các câu sáu nhằm diễn tả nét chủ đạo chi phối tâm trạng Thuý Kiều. Dường như ở đây không có con người, chỉ có cảnh vật hay đúng hơn, chỉ còn tâm trạng. Đây là một trong những đoạn tả cảnh ngụ tình thành công nhất trong “Truyện Kiều”. Với quan niệm thẩm mĩ truyền thống, Nguyễn Du luôn luôn lấy khung cảnh thiên nhiên làm nền cho hoạt động nội tâm của nhân vật. Tính chất truyền thống ấy biểu hiện qua sự chi phối của lô-gíc nội tâm đối với lô-gíc cảnh vật khách quan, qua bút pháp phác hoạ và khái quát, qua hình tượng và ngôn ngữ ước lệ công thức.
Nhưng ở đoạn thơ này, cảnh vật thiên nhiên lại được miêu tả hết sức chân thực như cửa biển, cánh buồm, nội cỏ, chân mây với một số đường nét, màu sắc, âm thanh sinh động như “ngọn nước mới sa”, “một màu xanh xanh”, “ầm ầm tiếng sóng Tất cả hình bóng thiên nhiên chân thực, sinh động nói trên cùng với cảnh vật trong nhiều đoạn thơ khác như “Lối mòn cỏ nhợt màu sương”, “Vầng trăng ai xẻ làm đôi “Cỏ lan mặt đất”, “gai góc mọc đầy”,... trước hết nảy nở trên rung cảm và quan sát của một tâm hồn nghệ sĩ vốn gắn bó với cảnh vật thiên nhiên, với quê hương xứ sở,... Cuộc sống tiếp xúc với nhiều xứ sở, nhiều cảnh vật là một đặc điểm trong cuộc đời Nguyễn Du. Điều ấy đã để lại ảnh hưởng không nhỏ khi nhà thơ khắc hoạ lại cảnh sắc thiên nhiên trên những trang “Truyện Kiều” của mình.
Bút lực của một thi tài đã phát huy cao độ tính đa nghĩa của ngôn ngữ, tính đa dạng của hình tượng, từ đó tạo nên nhiều tầng ý nghĩa của một từ ngữ, một hình tượng, mở ra trường liên tưởng phong phủ rộng mở. Cánh “hoa trôi man mác” giữa dòng nước mênh mông cũng là tâm trạng và số phận vô định của Thuý Kiều.“Nội cỏ dầu dầu”, giữa “chân mây mặt đất” vô cùng rộng lớn xa xăm hay chính là tâm trạng bị thương, tương lai mờ mịt của nàng? Và thiên nhiên dữ dội, “gió cuốn mặt duềnh” “ầm ầm tiếng sóng” như nói lên tâm trạng hãi hùng và cuộc sống đầy đe doạ đang bao quanh nàng... Mỗi từ ngữ, mỗi hình ảnh miêu tả thiên nhiên đồng thời là một ẩn dụ về tâm trạng, và cả về số phận con người...
(Theo Đặng Thanh Lê, Giảng văn Truyện Kiều, NXB Giáo dục, 2003, tr. 69 – 70)
Việc so sánh, mở rộng, liên hệ được vận dụng như thế nào trong đoạn trích trên? Trong văn bản nghị luận văn học nói chung, việc so sánh, mở rộng, liên hệ có tác dụng gì?
Đọc đoạn trích viết về tám câu thơ cuối đoạn Kiều ở lầu Ngưng Bích trong Truyện Kiều dưới đây và trả lời các câu hỏi:
Tám câu thơ cuối cùng của toàn đoạn thơ được xây dựng bởi điệp ngữ “buồn trông” ở các câu sáu nhằm diễn tả nét chủ đạo chi phối tâm trạng Thuý Kiều. Dường như ở đây không có con người, chỉ có cảnh vật hay đúng hơn, chỉ còn tâm trạng. Đây là một trong những đoạn tả cảnh ngụ tình thành công nhất trong “Truyện Kiều”. Với quan niệm thẩm mĩ truyền thống, Nguyễn Du luôn luôn lấy khung cảnh thiên nhiên làm nền cho hoạt động nội tâm của nhân vật. Tính chất truyền thống ấy biểu hiện qua sự chi phối của lô-gíc nội tâm đối với lô-gíc cảnh vật khách quan, qua bút pháp phác hoạ và khái quát, qua hình tượng và ngôn ngữ ước lệ công thức.
Nhưng ở đoạn thơ này, cảnh vật thiên nhiên lại được miêu tả hết sức chân thực như cửa biển, cánh buồm, nội cỏ, chân mây với một số đường nét, màu sắc, âm thanh sinh động như “ngọn nước mới sa”, “một màu xanh xanh”, “ầm ầm tiếng sóng Tất cả hình bóng thiên nhiên chân thực, sinh động nói trên cùng với cảnh vật trong nhiều đoạn thơ khác như “Lối mòn cỏ nhợt màu sương”, “Vầng trăng ai xẻ làm đôi “Cỏ lan mặt đất”, “gai góc mọc đầy”,... trước hết nảy nở trên rung cảm và quan sát của một tâm hồn nghệ sĩ vốn gắn bó với cảnh vật thiên nhiên, với quê hương xứ sở,... Cuộc sống tiếp xúc với nhiều xứ sở, nhiều cảnh vật là một đặc điểm trong cuộc đời Nguyễn Du. Điều ấy đã để lại ảnh hưởng không nhỏ khi nhà thơ khắc hoạ lại cảnh sắc thiên nhiên trên những trang “Truyện Kiều” của mình.
Bút lực của một thi tài đã phát huy cao độ tính đa nghĩa của ngôn ngữ, tính đa dạng của hình tượng, từ đó tạo nên nhiều tầng ý nghĩa của một từ ngữ, một hình tượng, mở ra trường liên tưởng phong phủ rộng mở. Cánh “hoa trôi man mác” giữa dòng nước mênh mông cũng là tâm trạng và số phận vô định của Thuý Kiều.“Nội cỏ dầu dầu”, giữa “chân mây mặt đất” vô cùng rộng lớn xa xăm hay chính là tâm trạng bị thương, tương lai mờ mịt của nàng? Và thiên nhiên dữ dội, “gió cuốn mặt duềnh” “ầm ầm tiếng sóng” như nói lên tâm trạng hãi hùng và cuộc sống đầy đe doạ đang bao quanh nàng... Mỗi từ ngữ, mỗi hình ảnh miêu tả thiên nhiên đồng thời là một ẩn dụ về tâm trạng, và cả về số phận con người...
(Theo Đặng Thanh Lê, Giảng văn Truyện Kiều, NXB Giáo dục, 2003, tr. 69 – 70)
Hãy dẫn ra một câu văn cho thấy khi phân tích đoạn thơ, tác giả đã bám sát ngôn ngữ, hình ảnh thơ.
Đọc đoạn trích viết về tám câu thơ cuối đoạn Kiều ở lầu Ngưng Bích trong Truyện Kiều dưới đây và trả lời các câu hỏi:
Tám câu thơ cuối cùng của toàn đoạn thơ được xây dựng bởi điệp ngữ “buồn trông” ở các câu sáu nhằm diễn tả nét chủ đạo chi phối tâm trạng Thuý Kiều. Dường như ở đây không có con người, chỉ có cảnh vật hay đúng hơn, chỉ còn tâm trạng. Đây là một trong những đoạn tả cảnh ngụ tình thành công nhất trong “Truyện Kiều”. Với quan niệm thẩm mĩ truyền thống, Nguyễn Du luôn luôn lấy khung cảnh thiên nhiên làm nền cho hoạt động nội tâm của nhân vật. Tính chất truyền thống ấy biểu hiện qua sự chi phối của lô-gíc nội tâm đối với lô-gíc cảnh vật khách quan, qua bút pháp phác hoạ và khái quát, qua hình tượng và ngôn ngữ ước lệ công thức.
Nhưng ở đoạn thơ này, cảnh vật thiên nhiên lại được miêu tả hết sức chân thực như cửa biển, cánh buồm, nội cỏ, chân mây với một số đường nét, màu sắc, âm thanh sinh động như “ngọn nước mới sa”, “một màu xanh xanh”, “ầm ầm tiếng sóng Tất cả hình bóng thiên nhiên chân thực, sinh động nói trên cùng với cảnh vật trong nhiều đoạn thơ khác như “Lối mòn cỏ nhợt màu sương”, “Vầng trăng ai xẻ làm đôi “Cỏ lan mặt đất”, “gai góc mọc đầy”,... trước hết nảy nở trên rung cảm và quan sát của một tâm hồn nghệ sĩ vốn gắn bó với cảnh vật thiên nhiên, với quê hương xứ sở,... Cuộc sống tiếp xúc với nhiều xứ sở, nhiều cảnh vật là một đặc điểm trong cuộc đời Nguyễn Du. Điều ấy đã để lại ảnh hưởng không nhỏ khi nhà thơ khắc hoạ lại cảnh sắc thiên nhiên trên những trang “Truyện Kiều” của mình.
Bút lực của một thi tài đã phát huy cao độ tính đa nghĩa của ngôn ngữ, tính đa dạng của hình tượng, từ đó tạo nên nhiều tầng ý nghĩa của một từ ngữ, một hình tượng, mở ra trường liên tưởng phong phủ rộng mở. Cánh “hoa trôi man mác” giữa dòng nước mênh mông cũng là tâm trạng và số phận vô định của Thuý Kiều.“Nội cỏ dầu dầu”, giữa “chân mây mặt đất” vô cùng rộng lớn xa xăm hay chính là tâm trạng bị thương, tương lai mờ mịt của nàng? Và thiên nhiên dữ dội, “gió cuốn mặt duềnh” “ầm ầm tiếng sóng” như nói lên tâm trạng hãi hùng và cuộc sống đầy đe doạ đang bao quanh nàng... Mỗi từ ngữ, mỗi hình ảnh miêu tả thiên nhiên đồng thời là một ẩn dụ về tâm trạng, và cả về số phận con người...
(Theo Đặng Thanh Lê, Giảng văn Truyện Kiều, NXB Giáo dục, 2003, tr. 69 – 70)
Tác giả đã chứng minh như thế nào về “tính đa nghĩa của ngôn ngữ trong đoạn văn thứ 3?
Đọc đoạn trích viết về tám câu thơ cuối đoạn Kiều ở lầu Ngưng Bích trong Truyện Kiều dưới đây và trả lời các câu hỏi:
Tám câu thơ cuối cùng của toàn đoạn thơ được xây dựng bởi điệp ngữ “buồn trông” ở các câu sáu nhằm diễn tả nét chủ đạo chi phối tâm trạng Thuý Kiều. Dường như ở đây không có con người, chỉ có cảnh vật hay đúng hơn, chỉ còn tâm trạng. Đây là một trong những đoạn tả cảnh ngụ tình thành công nhất trong “Truyện Kiều”. Với quan niệm thẩm mĩ truyền thống, Nguyễn Du luôn luôn lấy khung cảnh thiên nhiên làm nền cho hoạt động nội tâm của nhân vật. Tính chất truyền thống ấy biểu hiện qua sự chi phối của lô-gíc nội tâm đối với lô-gíc cảnh vật khách quan, qua bút pháp phác hoạ và khái quát, qua hình tượng và ngôn ngữ ước lệ công thức.
Nhưng ở đoạn thơ này, cảnh vật thiên nhiên lại được miêu tả hết sức chân thực như cửa biển, cánh buồm, nội cỏ, chân mây với một số đường nét, màu sắc, âm thanh sinh động như “ngọn nước mới sa”, “một màu xanh xanh”, “ầm ầm tiếng sóng Tất cả hình bóng thiên nhiên chân thực, sinh động nói trên cùng với cảnh vật trong nhiều đoạn thơ khác như “Lối mòn cỏ nhợt màu sương”, “Vầng trăng ai xẻ làm đôi “Cỏ lan mặt đất”, “gai góc mọc đầy”,... trước hết nảy nở trên rung cảm và quan sát của một tâm hồn nghệ sĩ vốn gắn bó với cảnh vật thiên nhiên, với quê hương xứ sở,... Cuộc sống tiếp xúc với nhiều xứ sở, nhiều cảnh vật là một đặc điểm trong cuộc đời Nguyễn Du. Điều ấy đã để lại ảnh hưởng không nhỏ khi nhà thơ khắc hoạ lại cảnh sắc thiên nhiên trên những trang “Truyện Kiều” của mình.
Bút lực của một thi tài đã phát huy cao độ tính đa nghĩa của ngôn ngữ, tính đa dạng của hình tượng, từ đó tạo nên nhiều tầng ý nghĩa của một từ ngữ, một hình tượng, mở ra trường liên tưởng phong phủ rộng mở. Cánh “hoa trôi man mác” giữa dòng nước mênh mông cũng là tâm trạng và số phận vô định của Thuý Kiều.“Nội cỏ dầu dầu”, giữa “chân mây mặt đất” vô cùng rộng lớn xa xăm hay chính là tâm trạng bị thương, tương lai mờ mịt của nàng? Và thiên nhiên dữ dội, “gió cuốn mặt duềnh” “ầm ầm tiếng sóng” như nói lên tâm trạng hãi hùng và cuộc sống đầy đe doạ đang bao quanh nàng... Mỗi từ ngữ, mỗi hình ảnh miêu tả thiên nhiên đồng thời là một ẩn dụ về tâm trạng, và cả về số phận con người...
(Theo Đặng Thanh Lê, Giảng văn Truyện Kiều, NXB Giáo dục, 2003, tr. 69 – 70)
Theo tác giả, thiên nhiên trong đoạn thơ có gì đặc biệt? Điều gì đã tạo nên sự đặc biệt ấy?
Đọc đoạn trích viết về tám câu thơ cuối đoạn Kiều ở lầu Ngưng Bích trong Truyện Kiều dưới đây và trả lời các câu hỏi:
Tám câu thơ cuối cùng của toàn đoạn thơ được xây dựng bởi điệp ngữ “buồn trông” ở các câu sáu nhằm diễn tả nét chủ đạo chi phối tâm trạng Thuý Kiều. Dường như ở đây không có con người, chỉ có cảnh vật hay đúng hơn, chỉ còn tâm trạng. Đây là một trong những đoạn tả cảnh ngụ tình thành công nhất trong “Truyện Kiều”. Với quan niệm thẩm mĩ truyền thống, Nguyễn Du luôn luôn lấy khung cảnh thiên nhiên làm nền cho hoạt động nội tâm của nhân vật. Tính chất truyền thống ấy biểu hiện qua sự chi phối của lô-gíc nội tâm đối với lô-gíc cảnh vật khách quan, qua bút pháp phác hoạ và khái quát, qua hình tượng và ngôn ngữ ước lệ công thức.
Nhưng ở đoạn thơ này, cảnh vật thiên nhiên lại được miêu tả hết sức chân thực như cửa biển, cánh buồm, nội cỏ, chân mây với một số đường nét, màu sắc, âm thanh sinh động như “ngọn nước mới sa”, “một màu xanh xanh”, “ầm ầm tiếng sóng Tất cả hình bóng thiên nhiên chân thực, sinh động nói trên cùng với cảnh vật trong nhiều đoạn thơ khác như “Lối mòn cỏ nhợt màu sương”, “Vầng trăng ai xẻ làm đôi “Cỏ lan mặt đất”, “gai góc mọc đầy”,... trước hết nảy nở trên rung cảm và quan sát của một tâm hồn nghệ sĩ vốn gắn bó với cảnh vật thiên nhiên, với quê hương xứ sở,... Cuộc sống tiếp xúc với nhiều xứ sở, nhiều cảnh vật là một đặc điểm trong cuộc đời Nguyễn Du. Điều ấy đã để lại ảnh hưởng không nhỏ khi nhà thơ khắc hoạ lại cảnh sắc thiên nhiên trên những trang “Truyện Kiều” của mình.
Bút lực của một thi tài đã phát huy cao độ tính đa nghĩa của ngôn ngữ, tính đa dạng của hình tượng, từ đó tạo nên nhiều tầng ý nghĩa của một từ ngữ, một hình tượng, mở ra trường liên tưởng phong phủ rộng mở. Cánh “hoa trôi man mác” giữa dòng nước mênh mông cũng là tâm trạng và số phận vô định của Thuý Kiều.“Nội cỏ dầu dầu”, giữa “chân mây mặt đất” vô cùng rộng lớn xa xăm hay chính là tâm trạng bị thương, tương lai mờ mịt của nàng? Và thiên nhiên dữ dội, “gió cuốn mặt duềnh” “ầm ầm tiếng sóng” như nói lên tâm trạng hãi hùng và cuộc sống đầy đe doạ đang bao quanh nàng... Mỗi từ ngữ, mỗi hình ảnh miêu tả thiên nhiên đồng thời là một ẩn dụ về tâm trạng, và cả về số phận con người...
(Theo Đặng Thanh Lê, Giảng văn Truyện Kiều, NXB Giáo dục, 2003, tr. 69 – 70)
Em hãy chỉ ra mối quan hệ giữa các đoạn văn trong phần trích.
Đọc đoạn trích viết về tám câu thơ cuối đoạn Kiều ở lầu Ngưng Bích trong Truyện Kiều dưới đây và trả lời các câu hỏi:
Tám câu thơ cuối cùng của toàn đoạn thơ được xây dựng bởi điệp ngữ “buồn trông” ở các câu sáu nhằm diễn tả nét chủ đạo chi phối tâm trạng Thuý Kiều. Dường như ở đây không có con người, chỉ có cảnh vật hay đúng hơn, chỉ còn tâm trạng. Đây là một trong những đoạn tả cảnh ngụ tình thành công nhất trong “Truyện Kiều”. Với quan niệm thẩm mĩ truyền thống, Nguyễn Du luôn luôn lấy khung cảnh thiên nhiên làm nền cho hoạt động nội tâm của nhân vật. Tính chất truyền thống ấy biểu hiện qua sự chi phối của lô-gíc nội tâm đối với lô-gíc cảnh vật khách quan, qua bút pháp phác hoạ và khái quát, qua hình tượng và ngôn ngữ ước lệ công thức.
Nhưng ở đoạn thơ này, cảnh vật thiên nhiên lại được miêu tả hết sức chân thực như cửa biển, cánh buồm, nội cỏ, chân mây với một số đường nét, màu sắc, âm thanh sinh động như “ngọn nước mới sa”, “một màu xanh xanh”, “ầm ầm tiếng sóng Tất cả hình bóng thiên nhiên chân thực, sinh động nói trên cùng với cảnh vật trong nhiều đoạn thơ khác như “Lối mòn cỏ nhợt màu sương”, “Vầng trăng ai xẻ làm đôi “Cỏ lan mặt đất”, “gai góc mọc đầy”,... trước hết nảy nở trên rung cảm và quan sát của một tâm hồn nghệ sĩ vốn gắn bó với cảnh vật thiên nhiên, với quê hương xứ sở,... Cuộc sống tiếp xúc với nhiều xứ sở, nhiều cảnh vật là một đặc điểm trong cuộc đời Nguyễn Du. Điều ấy đã để lại ảnh hưởng không nhỏ khi nhà thơ khắc hoạ lại cảnh sắc thiên nhiên trên những trang “Truyện Kiều” của mình.
Bút lực của một thi tài đã phát huy cao độ tính đa nghĩa của ngôn ngữ, tính đa dạng của hình tượng, từ đó tạo nên nhiều tầng ý nghĩa của một từ ngữ, một hình tượng, mở ra trường liên tưởng phong phủ rộng mở. Cánh “hoa trôi man mác” giữa dòng nước mênh mông cũng là tâm trạng và số phận vô định của Thuý Kiều.“Nội cỏ dầu dầu”, giữa “chân mây mặt đất” vô cùng rộng lớn xa xăm hay chính là tâm trạng bị thương, tương lai mờ mịt của nàng? Và thiên nhiên dữ dội, “gió cuốn mặt duềnh” “ầm ầm tiếng sóng” như nói lên tâm trạng hãi hùng và cuộc sống đầy đe doạ đang bao quanh nàng... Mỗi từ ngữ, mỗi hình ảnh miêu tả thiên nhiên đồng thời là một ẩn dụ về tâm trạng, và cả về số phận con người...
(Theo Đặng Thanh Lê, Giảng văn Truyện Kiều, NXB Giáo dục, 2003, tr. 69 – 70)
Nội dung chính của đoạn trích là gì? Câu văn nào mang ý khái quát của cả đoạn?