Danh sách câu hỏi
Có 4,786 câu hỏi trên 96 trang
Xếp những từ lai tạo sau vào các nhóm nêu ở bên dưới:
am pe kế, áo bào, áo giáp, áo pull, áo trấn thủ, binh lính, lính thuỷ, nội thành, ngoại thành, quần jean, quần soóc, sân thượng, sổ hồng, tàu hoả, tiền chiến, xe buýt, xe gíp, vôn kế.
a) Từ gồm các yếu tố Hán Việt, ví dụ: nội thành,...
b) Từ gồm các yếu tố Việt kết hợp với yếu tố Hán Việt, ví dụ: lính thuỷ,…
c) Từ gồm các yếu tố Việt kết hợp với yếu tố Pháp (hoặc Anh), ví dụ: áo pull,..
d) Từ gồm các yếu tố Hán Việt kết hợp với yếu tố Pháp (hoặc Anh), ví dụ: am pe kế,...
(Bài tập 2, SGK) Tìm ví dụ minh hoạ cho mỗi thành phân câu, kiểu câu, cách biến đổi và mở rộng cấu trúc câu, nghĩa của câu, kiểu cấu tạo đoạn văn (nêu ở các mục 3, 4, 5, 6, 7, 8 trong bảng tổng kết)
Sắp xếp các văn bản sau theo phân loại: văn học Việt Nam và văn học nước ngoài.
Dế Mèn phiêu lưu kí, Cô bé bán diêm, Sự tích Hồ Gươm, Ông lão đánh cá và con cả vàng, Người đàn ông cô độc giữa rừng, Vụ cải trang bất thành, Dọc đường xứ Nghệ, Ông đồ, Dể chọi, Làng, Ông lão bên chiếc cầu, Tiếng gà trưa, Cái kính, Những cánh buồm, , Ông Giuốc-đanh mặc lễ phục, Đẽo cày giữa đường, Bạch tuộc Tôi đi học, Nắng mới, Chất làm gỉ, Người mẹ vườn cau, Đổi tên cho xã, Buổi học cuối cùng, Chiếu dời đô, Thời thơ ấu của Hon-đa, Treo biển, Chuyện người con gái Nam Xương, Gói thuốc lá, Người thứ bảy.
Sắp xếp các văn bản sau theo hai bộ phận: văn học dân gian và văn học viết.
Thánh Gióng, Dế Mèn phiêu lưu kí, Sự tích Hồ Gươm, À ơi tay mẹ, Về thăm mẹ, Trong lòng mẹ, Ca dao Việt Nam, Người đàn ông cô độc giữa rừng, Dọc đường xứ Nghệ, Ông đồ, Tiếng gà trưa, Ếch ngồi đáy giếng, Những cánh buồm, Mẹ và quả, Đẽo cày giữa đường, Cây tre Việt Nam, Trưa tha hương, Tôi đi học, Nắng mới, Người mẹ vườn cau, Đổi tên cho xã, Hịch tướng sĩ, Nam quốc sơn hà, Thi nói khoác, Chiếu dời đô, Treo biển, Chuyện người con gái Nam Xương, Gói thuốc lá, Quê hương.
Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới:
“Đây là bài thơ khóc bạn rất tha thiết cảm động của Nguyễn Khuyến, cũng là bài thơ khóc bạn rất nổi tiếng trong nền thơ ca dân tộc. Dương Khuê là bạn đồng khoa với Nguyễn Khuyến tại khoa thi Hương năm 1864. Dương Khuê đỗ tiến sĩ, làm quan to, để lại nhiều bài thơ hát nói tuyệt bút. Từ bạn đồng khoa đã phát triển thành bạn tri âm tri kỉ nên Nguyễn Khuyến mới có thơ khóc bạn cảm động và tha thiết như vậy. Có thể xem đây cũng là một bài văn tế được viết bằng thể thơ song thất lục bát, giọng thơ réo rắt thấm đầy lệ, gồm 38 dòng thơ.
Mở đầu bài thơ là một tiếng than, tiếng nấc đau đớn:
Bác Dương thôi đã thôi rồi,
Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta.
Một sự thảng thốt xót thương cất lên, tưởng như bất ngờ bị đánh rơi mất một cái gì vô cùng quý báu. Nhóm từ “thôi đã thôi rồi” thay cho khái niệm “đã mất”, “đã chết”, “đã qua đời”,... – một lối nói bình dị, làm giảm bớt đi nỗi đau đớn ghê gớm đối với tuổi già. Theo cách tính tuổi của các cụ ngày trước thì Dương Khuê mật lúc 63 tuổi, khi đó Nguyễn Khuyến đã 68 tuổi rồi. Đúng là tiếng khóc bạn của những bậc cao niên. Hai chữ “nước mây” chỉ hai sự vật cách xa. Nước chảy, mây trôi, Xã nhau vời vợi, nghìn trùng cách trở, có mấy khi gặp nhau. Song, lòng nước chảy, dù đi đâu về đâu vẫn ôm ấp bóng mây trôi. Hình ảnh “nước mây” được liên kết với từ láy “man mác”, “ngậm ngùi” diễn tả một trời thương xót, một không gian cách trở bao la, âm dương đôi đường, buồn đau, nặng trĩu.
Chữ “bác” trong thơ Nguyễn Khuyến mang tính biểu cảm sâu sắc. Nhà thơ luôn luôn gọi bạn bằng bác, thể hiện một tấm lòng kính trọng và thân mật. Chữ “kính và chữ “lễ” in đậm trong phong cách ứng xử của Tam nguyên Yên Đỗ: “Bác Dương thôi đã thôi rồi.. Kể tuổi tôi còn hơn tuổi bác ... Bác chẳng ở, dẫu van chẳng ở ...”.
Phần thứ hai gồm 24 dòng thơ, tác giả nhắc lại, nhớ lại những kỉ niệm sâu sắc với người đã quá cố. Với nhà nho thì bạn đồng khoa là bạn đẹp nhất, tự hào nhất Nguyễn Khuyến và Dương Khuê cùng đỗ đạt, cùng làm quan, tình bạn ấy là “duyên trời” tác hợp nên:
Nhớ từ thuở đăng khoa ngày trước,
Vẫn sớm hôm tôi bác cùng nhau.
Kinh yêu từ trước đến sau,
Trong khi gặp gỡ khác đâu duyên trời.
Các từ ngữ “sớm hôm”, “cùng nhau”, “từ trước đến sau” thể hiện một tình bạn vô cùng thân thiết, chung thuỷ. Mỗi một kỉ niệm là một mảnh tâm hồn của nhà thơ được nhắc lại với bao nhiêu giọt lệ. Nguyễn Khuyến như vẫn thấy Dương Khuê đang cùng mình hiển hiện. Phải là bạn tâm đầu ý hợp, phải là những tạo nhân mặc khách mới có những kỉ niệm cầm ca, thi tửu đẹp và đáng nhớ như vậy.”
(Theo thivien.net)
a) Cách phân tích bài thơ Khóc Dương Khuê ở trên có gì giống cách phân tích bài thơ này của tác giả Hoàng Hữu Yên trong văn bản Phân tích bài “Khóc Dương Khuê” ở Bài 10?
b) Trong đoạn trích trên, người viết tập trung phân tích yếu tố hình thức nào của bài thơ?
c) Dẫn ra một số câu văn trong đoạn trích thể hiện tính biểu cảm của văn nghị luận.
Chỉ ra những câu nêu lí lẽ và những câu nêu bằng chứng của tác giả Nguyễn Văn Long trong đoạn trích sau (trích Về truyện “Làng” của Kim Lân):
“Ngay từ những dòng đầu, truyện đã mở ra với tâm trạng của ông Hai ở nơi tản cư: Tối nào cũng vậy, cứ đến lúc nhà lên đèn và bà Hai ngồi lầm rầm tính toán những tiền cua, tiền bún, tiền kẹo,... thì một tâm trạng buồn bực lại dậy lên trong lòng ông Hai khiến ông phải vùng dậy sang bên bác Thứ nói chuyện. Cái việc ông Hai cứ tối tối lại tìm sang bác hàng tản cu cũng là người tản cư để nói chuyện chính là một cách để giải toả những nỗi buồn bực, nghĩ ngợi vẩn vơ và nhất là để thổ lộ nỗi nhớ da diết cái làng của ông. Bởi vậy, trong cuộc trò chuyện, chỉ có ông Hai nói và bác Thứ ngồi nghe. Mà thực ra thì ông Hai cũng chẳng để ý lắm đến việc người cùng trò chuyện có nghe ông nói hay không, ông chỉ cốt nói để trút vợi tâm trạng và nhất là cho đỡ nhớ cái làng của mình. “Ông nói chuyện về cái làng ấy một cách say mê và náo nức lạ thường. Hai con mắt ông sáng hẳn lên, cái mặt biến chuyển, hoạt động.”.
Ngòi bút miêu tả tâm lí của Kim Lân càng tỏ ra sâu sắc khi đặt nhân vật ông Hai vào một tình huống thử thách để làm bộc lộ chiều sâu tâm trạng của nhân vật, đó là tình huống ông Hai đột ngột nghe tin dữ: Làng Chợ Dầu của ông theo giặc lập tề.”