Câu hỏi:
24/11/2024 206Sách mới 2k7: Tổng ôn Toán, Lí, Hóa, Văn, Sử, Địa…. kỳ thi tốt nghiệp THPT Quốc gia 2025, đánh giá năng lực (chỉ từ 110k).
Quảng cáo
Trả lời:
* Vũ Thị Thiết, nhân vật chính trong truyện, là hiện thân cho người phụ nữ đẹp người, đẹp nết nhưng chịu oan khuất vô lí do thói ghen tuông mù quáng của người chồng trong xã hội cũ. Trương Sinh là hiện thân của người chồng trong xã hội nam quyền, hồ đồ, gây oan khiên, đau khổ cho người phụ nữ và tự mình làm tan vỡ hạnh phúc gia đình mình. Tính cách của nhân vật Trương Sinh góp phần làm nổi bật tính cách của nhân vật Vũ Thị Thiết.
Về các nét tính cách của nhân vật Vũ Thị Thiết và Trương Sinh, em có thể phân tích theo gợi ý từ hai bảng sau:
Nhân vật Vũ Thị Thiết
Các biểu hiện của đặc điểm, tính cách |
Chi tiết, hành động tiêu biểu |
Tính cách |
Qua lời giới thiệu: xinh đẹp, nết na. |
“Tính đã thuỳ mị, nết na” lại thêm “tư dung tốt đẹp”. |
Vũ Thị Thiết, nhân vật chính trong truyện, là hiện thân cho người phụ nữ đẹp người, đẹp nết nhưng chịu oan khuất vô lí do thói ghen tuông mù quáng của người chồng. |
Qua hành động, việc làm trong hoàn cảnh chồng đi chinh chiến: Đảm đang, tận tình, chu đáo. |
Phụng dưỡng mẹ chồng già yếu, bệnh tật; lo tang mẹ chu toàn khi về già; chăm nuôi con nhỏ khôn lớn,... |
|
Qua sự ghen tuông, cách đối xử của Trương Sinh: người chịu oan khổ, thiệt thòi, bị đối xử tàn nhẫn, phải tìm đến cái chết. |
– Chịu oan một bề, mọi lời phân trần (với Trương Sinh) đều vô hiệu. – Phải kêu oan cùng trời đất (lời độc thoại, mình nói với mình, với trời đất). – Phải tìm cái chết trên bến Hoàng Giang. – Khi sự thật sáng tỏ thì đã quá muộn màng. |
|
Qua lời mẹ chồng, hàng xóm và cuộc trở về trên dòng sông: độ lượng, nết na, được giải oan, nhưng vẫn phải sống ở thế giới khác. |
– Mẹ chồng cảm kích, thấy nàng xứng đáng có cuộc sống tương lai hạnh phúc: “Sau này, trời xét lòng lành, ban cho phúc đức, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con đã chẳng phụ mẹ”. – Hàng xóm bênh vực thanh minh giùm nàng; Linh Phi cứu nàng. – Cuộc trở về trang trọng như một sự tôn vinh (cảnh tượng Vũ Thị hiển linh giữa dòng sông...). |
|
Nhân vật Trương Sinh
Các biểu hiện của đặc điểm, tính cách |
Chi tiết, hành động tiêu biểu |
Tính cách |
Qua lời giới thiệu nhân vật: thói ghen tuông ngờ vực. |
Có tính đa nghi, đối với vợ phòng ngừa quá mức. |
Trương Sinh là hiện thân của người chồng trong xã hội nam quyền, ghen tuông mù quáng, hồ đồ, gây oan khiên, đau khổ cho người phụ nữ và tự mình làm tan vỡ hạnh phúc gia đình mình. |
Qua cách đối xử với vợ sau khi đi chinh chiến về. |
Chỉ nghe lời nói ngây thơ của đứa bé mà không tin lời giải thích của vợ, lời bênh vực vợ của hàng xóm. |
|
Qua việc nhận biết sự thật và gặp vợ lần cuối. |
Lập đàn giải oan cho vợ ở bến sông. |
* Tác phẩm văn học luôn có tính chỉnh thể nhằm tập trung thể hiện nội dung bao quát. Theo đó, các chi tiết, yếu tố, bộ phận, nhân vật trong tác phẩm luôn được đặt cạnh nhau nhằm tương tác, hỗ trợ nhau và khơi sâu chủ đề, tư tưởng, thông điệp của tác phẩm. Giữa nhân vật Vũ Thị Thiết và Trương Sinh cũng có sự tương tác, hỗ trợ như vậy. Tuy là nhân vật phụ nhưng tính cách của Trương Sinh đã góp phần làm nổi bật thêm cho tính cách, số phận của nàng Vũ Thị, theo quan hệ nhân (thói ghen tuông mù quáng, gia trưởng của Trương) – quả (nỗi oan khuất, số phận bất hạnh của Vũ Thị).
Ví dụ:
– Qua lời giới thiệu dự báo: “tính đa nghi, đối với vợ phòng ngừa quá sức” ở Trương Sinh trong sự tương phản với “tính đã thuỳ mị, nết na” lại thêm “tư dung tốt đẹp” sẽ mang lại sự oan khổ cho nàng và sự tan vỡ của hạnh phúc gia đình;
– Sự chu toàn, đảm đang, tấm lòng chung thuỷ của Vũ Thị Thiết được đổi lại bằng thái độ mù quáng hời hợt, ruồng bỏ tàn nhẫn của Trương Sinh; cho thấy Vũ Thị Thiết phải chịu đựng bất công, oan khổ vô lí đến mức nào.
CÂU HỎI HOT CÙNG CHỦ ĐỀ
Câu 1:
Câu 2:
Đọc văn bản dưới đây và trả lời các câu hỏi phía dưới văn bản:
CÁI CHÙA HOANG Ở ĐÔNG TRIỀU
(Trích Truyền kì mạn lục)
Nguyễn Dữ
Đời nhà Trần, tục tin thần quỷ, thần từ, phật tử chẳng đâu là không có. Các chùa như chùa Hoàng Giang, chùa Đồng Cổ, chùa An Sinh, chùa An Tử, chùa Phổ Minh, quán Ngọc Thanh dựng lên nhan nhản khắp nơi; những người cắt tóc làm tăng, làm ni, nhiều gần bằng nửa số dân thường. Nhất là vùng huyện Đông Triều, sự sùng thượng lại càng quá lắm. Chùa chiền dựng lên, làng lớn có đến hơn mười nơi, làng nhỏ cũng chừng năm, sáu. Bao ngoài bằng rào luỹ, tô trong bằng vàng son, phàm người đau ốm, chỉ tin theo ở sự hư vô; gặp các tuần tiết thì đàn tràng cúng vái rất là rộn rịp. Thần, Phật xem chừng cũng ứng giáng, nên cầu gì được nấy, linh ứng lạ thường.
Bởi vậy người dân càng kính tin, không dám ngạo mạn. Song đến đời vua Giản Định nhà Trần, binh lửa liên miên, nhiều nơi bị đốt; số chùa chiền còn lại mười không được một mà cái số còn lại ấy, cũng mưa bay gió chuyển, đổ ngã xiêu nghiêng, tiêu điều đúng rũ ở giữa áng cỏ hoang bụi rậm. Sau khi quân Ngô lui, dân trở về phục nghiệp, có viên quan là Văn Tư Lập đến trị huyện ấy, thấy những cảnh hoang tàn đổ nát bèn róng rả dân định các xã, đánh tranh ken nửa mà sửa chữa lại ít nhiều. Ngồi ở huyện ấy được một năm, thấy dân quanh huyện khổ về cái nạn trộm cắp, từ gà, lợn, ngỗng, ngan đến cá trong ao, quả trong vườn, phàm cái gì có thể ăn được đều bị mất hết, Tư Lập than rằng:
– Ta ở vào địa vị một viên ấp tể, không có cái minh để xét ra kẻ gian, cái cứng để chế phục kẻ ác, vì nhân nhu mà hỏng việc, chính là cái lỗi tự ta.
Song Tư Lập cho là những đám trộm cắp vặt ấy, cũng không đến nỗi đáng lo ngại lắm, nên chỉ sức các thôn dân, đêm đêm phải canh phòng cẩn mật. Trong khoảng một tuần, tuy canh phòng chẳng thấy gì cả, nhưng những việc trộm cắp vặt cũng vẫn như trước. Lâu dần càng không thấy chúng kiêng sợ gì, đến nỗi lại vào bếp để khoắng hũ rượu của người ta, vào buồng ghẹo vợ con người ta, khi mọi người đổ đến vây bắt, thì kẻ gian đã biến đi đằng nào mất, chẳng thấy gì cả. Tư Lập cười mà nói:
– Té ra lâu nay vẫn ngờ oan cho lũ kẻ trộm, kì thực đó là loài ma quỷ, hưng yêu tác quái đó mà thôi. Những sự quấy rối bấy nay, đều tự vật này cả.
Sau đấy đi mời khắp các thầy phù thuỷ cao tay, xin bùa yểm trấn, làm thuyền bè mã mà tống tiễn. Song càng bùa bèn trừ yểm, sự quấy nhiễu càng tệ hơn trước. Tư Lập cả sợ, họp người dân thôn lại bàn rằng:
– Các người khi trước vẫn thờ Phật rất kính cẩn, lâu nay vì việc binh hoả mà đèn hương lễ bái không chăm, cho nên yêu nghiệt hoành hành mà Phật không cứu giúp. Nay sao chẳng đến chùa kêu cầu với Phật, tưởng cũng là một cách quyền nghi may có thể giúp ích cho mình.
Mọi người bèn đi đốt hương lễ bái ở chùa chiền khấn rằng:
“Lũ chúng sinh này kính thờ Trời Phật, quy y đã lâu, hết lòng trông cậy ở Phật pháp. Nay ma quỷ nổi lên, quấy nhiễu dân chúng, hoạ hại cả đến loài lục súc, vậy mà Phật ngồi nhìn im lặng, chẳng cũng từ bi quá lắm ư? Cúi xin mở lượng thương xót, ra uy trừng phạt, khiến thần, người chẳng lẫn, dân vật đều yên, hết thảy chúng sinh, đều được đội ơn nhiều lắm. Song loạn lạc vừa yên, sinh kế chưa khôi phục được, tấc gỗ mảnh ngói khó lòng xoay xở vào đâu. Đợi khi làm ăn giàu có sẽ lại xin sửa lại chùa chiền đền công đúc ấy”.
Đêm hôm ấy, trộm cắp hoành hành lại dữ hơn trước. Tư Lập chẳng biết làm sao được; nghe Vương tiên sinh ở huyện Kim Thành là người giỏi bói dịch, bèn đến bói một quẻ xem sao. Vương tiên sinh bói rồi nói rằng:
Cưỡi trên ngựa tốt,
Mặc áo vải săn.
Túi da tên thiếc,
Đích thị người thần.
Lại dặn rằng:
– Ông muốn trừ được nạn ấy, sáng mai nên theo phía tả của huyện đi về phương Nam, hễ thấy người nào vận mặc như thế, mang xách như vậy, quyết là người ấy có thể trừ hại được, nên cố thỉnh mời, dù từ chối cũng đừng nghe.
Hôm sau, Tư Lập cùng các phụ lão đúng theo lời của Vương tiên sinh để trông ngóng xem, những kẻ đi, người lại đầy đường, chẳng thấy ai giống như thế cả. Trời đã xế chiều, ai nấy chán nản sắp muốn về, chợt có một người từ trong núi bước ra, mình mặc áo vải, đeo cung cưỡi ngựa. Mọi người cùng chạy ra phục lạy ở phía trước mặt. Người ấy ngạc nhiên hỏi, mọi người cũng kể rõ bản ý của mình. Người ấy cười mà nói rằng:
– Các ông sao mà quá tin bói toán thế. Tôi từ nhỏ làm nghề săn bắn, mình không rời yên ngựa, tay không rời cung tên. Hôm qua nghe nói ở núi An Phụ có nhiều giống nai, báo, thỏ tốt nên nay định đến để săn, nào có biết lập đàn thầy pháp, bắt ma vô hình là công việc thế nào.
Tư Lập nghĩ bụng người này tất là một vị pháp đàn cao tay vì không muốn nổi tiếng về thuật bùa, vì sợ mang luy vào thân, nên mới nhỏ nhơ trong chốn khe núi, giấu mình ở thú chơi cung mã, bèn nhất định cố mời kì được. Người kia xem chừng không thể từ chối, phải gượng nghe lời. Tư Lập mời người ấy về huyện để ở trong nhà quán xá, giường chiếu màn đệm rất sang trọng, săn sóc kính cẩn như một vị thần minh. Người ấy nghĩ riêng rằng:
– Họ tiếp đãi kính cẩn với ta như thế này, chỉ vì cho ta là có tài trừ quỷ. Nhưng thực thì ta chẳng có tài gì về việc đó, thế mà đi hưởng sự cung cấp của người, sao cho đành tâm. Nếu không sớm liệu trốn đi thì có ngày xấu hổ.
Hôm ấy ước chừng nửa đêm, thừa lúc mọi người đã ngủ say, người ấy bèn rón rén ra khỏi huyện lị. Khi đến phía Tây cái cầu ván bấy giờ trời tối lờ mờ, trăng khuya chưa mọc, thấy có người hình thể to lớn, hớn hở từ dưới đồng đi lên, người ấy bèn lẻn vào chỗ khuất, ngồi rình để xem họ làm trò gì. Một lát, thấy họ thò tay khoắng xuống một cái ao rồi bất cứ vớ được cá lớn cá nhỏ, đều bỏ vào mồm nhai nuốt hết, lại nhìn nhau mà cười mà nói:
– Những con cá con ăn ngon lắm nên ăn dè dặt mới thấy thú, há chăng hơn những thức hương hoa nhạt nhẽo họ thường dâng cúng chúng mình ư? Đáng tiếc là đến bây giờ, chúng mình mới được biết những vị ngon ấy.
Một người cười mà nói:
– Chúng mình thật to đầu mà dại, bấy nay bị người đời chúng nó lừa dối; ai lại đem cái oản, một vài lẻ gạo để lấp cái bụng nặng nghìn cân mà đi giữ của cho chúng nó bao giờ. Nếu không có những buổi như buổi hôm nay mà cứ trường chay mãi như trước thì thật là một đời sống uổng.
Một người nói:
– Tôi xưa nay vẫn ăn đồ mặn không phải ăn chay tịnh như các ông. Nhưng hiện giờ dân tình nghèo kiết, chúng nó chẳng có gì để cúng vái mình. Bụng đói miệng thèm, không biết mùi thịt là cái gì đã trải qua một thời gian lâu lắm, chẳng khác chi Đức Khổng Tử ở nước Tề ba tháng không được đụng đến miếng thịt. Song đêm nay, trời rét, nước lạnh, khó lòng ở lâu chỗ này được, chi bằng lên quách vườn mía mà bắt chước Hổ đầu tướng quân ngày xưa.
Đoạn rồi họ dắt nhau đi lên, vào vườn mía, nhổ trộm mà tước, mà hít. Người kia đang ngồi núp một chỗ, liền dương cung lắp tên, thình lình bắn ra, tin luôn ngay được hai người. Bọn gian kêu ấm ở mấy tiếng rồi ồ chạy cả, chừng độ mấy chục bước đều mờ khuất hết. Song lúc đó còn thấy có tiếng mắng nhau:
– Đã bảo ngày giờ không tốt thì đừng nên đi, không nghe lời ta, bây giờ mới biết.
Người kia kêu réo ầm ĩ lên, dân làng quanh đấy giật mình tỉnh dậy, cùng đốt đèn thắp đuốc chia nhau mỗi người đi đuổi một ngả. Họ soi thấy dấu máu vấy trên mặt đất, bèn theo dấu máu ấy đi về phía Tây. Chừng hơn nửa dặm đến một cái chùa hoang, vào thấy hai pho tượng Hộ pháp xiêu vẹo trong chùa, trên lưng mỗi tượng đều có một phát tên cắm vào sâu lắm. Mọi người đều lắc đầu lè lưỡi, cho là một sự lạ xưa nay chưa có bao giờ. Họ liền hay đổ hai pho tượng. Trong lúc ấy còn nghe có tiếng nói rằng:
– Vẫn tưởng kiếm cho no bụng, ai ngờ phải đến nát thân. Nhưng bầy ra mưu mẹo là tự lão thuỷ thần kia. Hắn là chủ mưu mà được thoát nạn còn chúng ta theo hắn mà phải chịu vạ, thật cũng đáng phàn nàn lắm. Đó rồi họ sai người đến miếu Thuỷ thần, thấy pho tượng thần đắp bằng đất, bỗng biến sắc, mặt tái đi như chàm đổ, mấy cái vẩy cá còn dính lèm nhèm trên mép, lại phá huỷ luôn cả pho tượng ấy.
Quan huyện Văn Tư Lập dốc hết hòm rương để trả ơn, người kia chở nặng mà về. Từ đấy, yêu tà tuyệt tịch không còn thấy bóng tăm đâu nữa.
(In trong Truyền kì mạn lục, Nguyễn Dữ,
Trúc Khê Ngô Văn Triện dịch, NXB Văn hoá, 1962)
a. Tóm tắt các sự việc chính được kể trong văn bản và xác định bối cảnh lịch sử xã hội của câu chuyện.
b. Liệt kê các nhân vật xuất hiện trong truyện và cho biết (các) nhân vật nào là nhân vật được xây dựng bằng yếu tố kì ảo? Căn cứ vào đâu để em khẳng định như vậy?
c. Những kẻ trộm cắp, quấy nhiễu cuộc sống của người dân ở Đông Triều thực chất là ai? Nhận xét về cách tác giả miêu tả các nhân vật này trong truyện.
d. Phân tích vai trò của nhân vật Tư Lập, Vương tiên sinh, người thợ săn có công trong việc phát giác, trừ khử thủ phạm trộm cắp quấy nhiễu để mang lại cuộc sống yên bình cho người dân ở Đông Triều.
đ. Nêu chủ đề và thông điệp mà văn bản muốn gửi đến người đọc. Theo em, yếu tố kì ảo có vai trò thế nào trong việc thể hiện chủ đề, thông điệp đó?
Câu 3:
Xác định lời dẫn và cách dẫn trong trường hợp sau:
Thành nghĩ: “Nuôi vật hèn kém cuối cùng cũng vô dụng, chi bằng đem chọi lấy một tiếng cười”. (Bồ Tùng Linh, Dế chọi)
Câu 4:
Nêu đặc điểm của không gian, thời gian, nhân vật, cốt truyện trong truyện truyền kì và đánh dấu vào ô có sử dụng yếu tố kì ảo để hoàn thành bảng sau.
Các yếu tố của truyện truyền kì |
Đặc điểm |
Có sử dụng yếu tố kì ảo |
Không gian |
|
|
Thời gian |
|
|
Nhân vật |
|
|
Cốt truyện |
|
|
Câu 5:
Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu:
Tư Lập cười mà nói:
– Té ra lâu nay vẫn ngờ oan cho lũ kẻ trộm, kì thực đó là loài ma quỷ, hưng yêu tác quái đó mà thôi. Những sự quấy rối bấy nay, đều tự vật này cả.
Sau đấy đi mời khắp các thầy phù thuỷ cao tay, xin bùa yểm trấn, làm thuyền bè mã mà tống tiễn. Song càng bùa bèn trừ yểm, sự quấy nhiễu càng tệ hơn trước. Tư Lập cả sợ, họp người dân thôn lại bàn rằng:
Các người khi trước vẫn thờ Phật rất kính cẩn, lâu nay vì việc binh hoả mà đèn hương lễ bái không chăm, cho nên yêu nghiệt hoành hành mà Phật không cứu giúp. Nay sao chẳng đến chùa kêu cầu với Phật, tưởng cũng là một cách quyền nghi may có thể giúp ích cho mình.
(Nguyễn Dữ, Cái chùa hoang ở Đông Triều)
a. Xác định lời nói của nhân vật Tư Lập trong đoạn trích trên. Chỉ ra cách Nguyễn Dữ đã sử dụng để dẫn lời nói của nhân vật và nêu tác dụng của lời dẫn trong đoạn trích.
b. Thuật lại lời nói của nhân vật Tư Lập theo cách dẫn gián tiếp.
c. Chỉ ra điểm khác biệt giữa lời nói của nhân vật Tư Lập trong đoạn trích trên và phần thuật lại của em.
Câu 6:
Liệt kê một số chi tiết kì ảo được sử dụng trong tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương và nêu rõ tác dụng của chúng trong việc thể hiện tính cách nhân vật hoặc chủ đề, tư tưởng của tác phẩm.
Đề thi giữa kì 1 môn Ngữ Văn lớp 9 Kết nối tri thức có đáp án (Đề 2)
Đề thi giữa kì 1 môn Ngữ Văn lớp 9 Cánh diều có đáp án (Đề 1)
Đề minh họa thi vào lớp 10 môn Ngữ văn năm 2025 - Sở GD Hải Dương
Đề thi giữa kì 1 môn Ngữ Văn lớp 9 Kết nối tri thức có đáp án (Đề 1)
Đề thi giữa kì 1 môn Ngữ Văn lớp 9 Kết nối tri thức có đáp án (Đề 9)
Bộ 10 đề thi cuối kì 1 Ngữ Văn lớp 9 Cánh diều có đáp án ( Đề 8)
Bộ 10 đề thi cuối kì 1 Ngữ Văn lớp 9 Kết nối tri thức có đáp án ( Đề 1 )
Đề thi giữa kì 1 môn Ngữ Văn lớp 9 Kết nối tri thức có đáp án (Đề 8)
về câu hỏi!