Câu hỏi:
25/11/2024 56Luyện tập các bước thực hiện bài nói theo đề bài sau:
Kể lại một truyện kể sáng tạo phỏng theo một trong những truyện truyền kì hay truyện có yếu tố kì ảo mà em đã đọc.
Sách mới 2k7: Tổng ôn Toán, Lí, Hóa, Văn, Sử, Địa…. kỳ thi tốt nghiệp THPT Quốc gia 2025, đánh giá năng lực (chỉ từ 110k).
Quảng cáo
Trả lời:
Tham khảo:
Xin chào thầy cô và các bạn.
Ngày xưa, trong dân gian đã lưu truyền một câu chuyện cảm động kể về một người phụ nữ nhan sắc, đức hạnh nhưng lại phải chịu một nỗi oan ức lớn đến mức phải gieo mình tự vẫn nơi bến sông chỉ vì người chồng mang tính đa nghi, nhỏ nhen của mình. Câu chuyện mà người ta vẫn thường kể nhau nghe ấy mang tên “Vợ chàng Trương”, nhưng kết cục của câu chuyện dân gian này lại vô cùng bi thảm.
Vì tiếc thương cho nàng người phụ nữ nết na nhưng lại bạc mệnh, Nguyễn Dữ đã mượn cốt truyện trên để viết nên “Chuyện người con gái Nam Xương”. Những chi tiết trong truyện hầu như vẫn được giữ nguyên về cơ bản, nhưng ông đã thể hiện tinh thần nhân đạo của mình bằng cách tạo nên một cái kết đẹp hơn cho người phụ nữ cao đẹp ấy.
Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ xoay quanh cuộc đời và số phận của một người con gái đức hạnh nhưng cảnh đời lại đẩy vào nơi tối tăm của bi kịch - Vũ Thị Thiết. Vũ Thị Thiết quê ở Nam Xương, là con của một gia đình làm nông nghèo. Mẹ nàng mất từ sớm, trong nhà chỉ có hai cha con cùng nương tựa lẫn nhau và trải qua những tháng ngày bình lặng, hạnh phúc.
Khi nàng đến tuổi lập gia đình, đã được một chàng Trương vì thấy nàng đẹp người lại đẹp nết nên đã qua hỏi cưới. Nàng không yên tâm để cha già sống cảnh một mình, nhưng vẫn phải đồng ý lấy Trương Sinh trước những lời khuyên của cha. Trước khi nàng được gả đi, cha đã dặn dò nàng sang nhà chồng phải biết hiếu kính với nhà chồng, phải đảm đang việc nhà, làm tròn đạo dâu, đạo vợ. Nếu không, nàng sẽ chịu những điều tiếng không hay.
Một tuần sau, Vũ Thị Thiết đã chính thức trở thành vợ của Trương Sinh. Từ khi bước vào nhà họ Trương, nàng đã coi Trương Sinh là người chồng mà suốt đời mình sẽ yêu thương, gắn bó. Mẹ của chàng cũng chính là mẹ của nàng, nên nàng sẽ chăm sóc và phụng dưỡng như chính người thân máu mủ của mình.
Cuộc sống thời gian đầu hôn nhân cũng được coi là êm ấm. Nhưng rồi, biến cố đã xảy ra và chia cắt nàng với chồng. Cũng chính đây là nguồn cơn dẫn đến nỗi oan sâu nặng của nàng sau này.
Năm ấy, giặc Chiêm xâm lược nước ta, triều đình phải kêu gọi binh lính đi chiến đấu, mà Trương Sinh vì không học nên đã bị bắt đi lính. Buổi chia ly giữa Vũ Thị Thiết với Trương Sinh diễn ra một cách đầy nước mắt bởi sự lưu luyến, không muốn rời xa. Trương Sinh đã dặn dò nàng ở nhà phải chăm sóc, phụng dưỡng mẹ chồng chu đáo, đảm đương việc nhà chu toàn đợi chàng trở về.
Khi ấy, cả hai sẽ lại được đoàn tụ và cùng xây dựng một mái ấm hạnh phúc cho riêng mình. Dẫu rất buồn rầu, hơn ai hết nàng hiểu rõ sự nguy hiểm của chuyến đi này, và sự ác liệt của chiến tranh nào có buông tha ai bao giờ.
Nàng bày tỏ nguyện vọng của mình trong nước mắt, nàng chẳng cầu chồng mang áo gấm phong hầu trở về, chỉ mong rằng chồng nàng có thể bình an, mạnh khỏe mà quay về đoàn tụ với gia đình: “Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày trở về mang theo được hai chữ bình yên là đủ rồi…”
Thế rồi, Trương Sinh lên đường ra trận. Trong nhà, Vũ Thị Thiết vừa chăm lo cho mẹ già, lại nuôi nấng cho đứa con nhỏ vừa mới sinh sau khi chồng đi. Nhưng nàng chẳng hề than thở hay trách cứ, nàng chỉ yên lặng chăm lo ruộng vườn, chăm lo người thân. Chuyện gì nàng cũng hoàn thành một cách chu toàn, không cầu được công nhận, chỉ mong ngày chồng trở về.
Mẹ chồng nàng bị ốm nặng, nàng cũng không kêu than mà rời mẹ nửa bước. Nàng cố gắng chăm lo mẹ, động viên mẹ vượt qua bạo bệnh, đợi này chồng trở về. Biết mình không thể qua khỏi cơn bệnh này, mẹ chồng nàng đã nói nàng không cần lãng phí tiền bạc nữa, nhưng nàng vẫn một mực chăm sóc đủ đầy, đến mức mẹ chồng nàng phải hết lời khen ngợi nàng là một người tốt và sau này nàng sẽ được hạnh phúc vì những đức tính tốt đẹp của mình.
Một thời gian sau, mẹ chồng Vũ Thị Thiết mất. Nàng đã lo cho việc hậu sự một cách chu đáo thay cho chồng. Ngôi nhà nhỏ giờ chỉ còn có hai mẹ con. Vì thấm thía nỗi đau không có được sự che chở trọn vẹn của cha và mẹ, nên nàng luôn mong muốn con được hạnh phúc, lại càng không muốn con phải ghen tị với bạn vì có cả cha lẫn mẹ.
Vì thế, nàng đã nghĩ ra một cách, đó là chỉ vào bóng của mình trên tường và dối con rằng đó là ba của Đản. Nhưng nàng cũng chẳng thể ngờ được, lời nói dối để con vơi đi nỗi nhớ cha, cũng giúp mình nguôi ngoai nỗi nhớ chồng lại đẩy nàng vào bi kịch với oan khuất nhất đời.
Trương Sinh trở về, nhưng bé Đản lại không nhận ông là cha. Chàng ta liền nói với Đản rằng mình là cha của bé, nhưng Đản lại kể với Trương Sinh về một người cha tối nào cũng đến thăm mẹ con bé. Vốn tính đa nghi, cộng thêm lời trẻ thơ dại, Trương Sinh liền nổi giận đùng đùng nghi ngờ vợ hư hỏng. Trong cơn giận dữ, Trương Sinh đã lớn tiếng chửi mắng, kết tội và đánh đuổi Vũ Nương ra khỏi nhà mặc cho nàng cố gắng giải thích và sự bao che của bà con làng xóm.
Vì quá đau khổ, nàng lại chẳng có cơ hội nào để giải thích, nên nàng đã đi ra sông Hoàng Giang trẫm mình tự vẫn để giải oan cho chính mình. Khi đó, nàng đã gặp được Linh Phi là vợ của đức Long Quân cứu giúp. Cuộc sống nàng lại bắt đầu với những ngày tháng sống cùng Linh Phi. Tưởng như nỗi đau năm nào đã nguôi ngoai, nào ngờ chỉ cần chạm nhẹ lại vào vết sẹo năm xưa, mọi ký ức lại hiện về
Nàng tình cờ gặp được một người bà con của mình ở đây. Nhớ lại nỗi oan chưa được giải của mình, nàng liền nhờ người đó chuyển lời đến Trương Sinh. Về phần Trương Sinh, sau khi biết được nỗi oan của vợ, Trương Sinh liền lập đàn trên sông Hoàng Giang để giải oan cho sợ. Vũ Thị Thiết hiện về giữa sông. Cảm thấy nỗi oan đã được giải trừ, nàng cũng chẳng hề oán trách chồng mình, nhưng cũng chẳng thiết tha trở về với cuộc sống cũ nữa. Vì thế, nàng đã nói lời cuối với Trương Sinh rồi biến mất trong lòng sông.
Cái kết của câu chuyện này có lẽ không quá có hậu, nhưng nó lại là cách hợp lý nhất giúp cho câu chuyện thêm phần đáng tin và không mất đi kết quả hiện thực. Nhưng dẫu sao, Vũ Nương trong chuyện cũng đã được giải oan. Đó chính là niềm an ủi lớn nhất, mang tính nhân văn sâu sắc nhất. Đồng thời, câu chuyện cũng chính là lời cáo buộc tội ác của xã hội phong kiến bất công, trọng nam khinh nữ đã cướp đi quyền được hạnh phúc của những người phụ nữ đẹp người đẹp nết.
CÂU HỎI HOT CÙNG CHỦ ĐỀ
Câu 1:
Câu 2:
Đọc văn bản dưới đây và trả lời các câu hỏi phía dưới văn bản:
CÁI CHÙA HOANG Ở ĐÔNG TRIỀU
(Trích Truyền kì mạn lục)
Nguyễn Dữ
Đời nhà Trần, tục tin thần quỷ, thần từ, phật tử chẳng đâu là không có. Các chùa như chùa Hoàng Giang, chùa Đồng Cổ, chùa An Sinh, chùa An Tử, chùa Phổ Minh, quán Ngọc Thanh dựng lên nhan nhản khắp nơi; những người cắt tóc làm tăng, làm ni, nhiều gần bằng nửa số dân thường. Nhất là vùng huyện Đông Triều, sự sùng thượng lại càng quá lắm. Chùa chiền dựng lên, làng lớn có đến hơn mười nơi, làng nhỏ cũng chừng năm, sáu. Bao ngoài bằng rào luỹ, tô trong bằng vàng son, phàm người đau ốm, chỉ tin theo ở sự hư vô; gặp các tuần tiết thì đàn tràng cúng vái rất là rộn rịp. Thần, Phật xem chừng cũng ứng giáng, nên cầu gì được nấy, linh ứng lạ thường.
Bởi vậy người dân càng kính tin, không dám ngạo mạn. Song đến đời vua Giản Định nhà Trần, binh lửa liên miên, nhiều nơi bị đốt; số chùa chiền còn lại mười không được một mà cái số còn lại ấy, cũng mưa bay gió chuyển, đổ ngã xiêu nghiêng, tiêu điều đúng rũ ở giữa áng cỏ hoang bụi rậm. Sau khi quân Ngô lui, dân trở về phục nghiệp, có viên quan là Văn Tư Lập đến trị huyện ấy, thấy những cảnh hoang tàn đổ nát bèn róng rả dân định các xã, đánh tranh ken nửa mà sửa chữa lại ít nhiều. Ngồi ở huyện ấy được một năm, thấy dân quanh huyện khổ về cái nạn trộm cắp, từ gà, lợn, ngỗng, ngan đến cá trong ao, quả trong vườn, phàm cái gì có thể ăn được đều bị mất hết, Tư Lập than rằng:
– Ta ở vào địa vị một viên ấp tể, không có cái minh để xét ra kẻ gian, cái cứng để chế phục kẻ ác, vì nhân nhu mà hỏng việc, chính là cái lỗi tự ta.
Song Tư Lập cho là những đám trộm cắp vặt ấy, cũng không đến nỗi đáng lo ngại lắm, nên chỉ sức các thôn dân, đêm đêm phải canh phòng cẩn mật. Trong khoảng một tuần, tuy canh phòng chẳng thấy gì cả, nhưng những việc trộm cắp vặt cũng vẫn như trước. Lâu dần càng không thấy chúng kiêng sợ gì, đến nỗi lại vào bếp để khoắng hũ rượu của người ta, vào buồng ghẹo vợ con người ta, khi mọi người đổ đến vây bắt, thì kẻ gian đã biến đi đằng nào mất, chẳng thấy gì cả. Tư Lập cười mà nói:
– Té ra lâu nay vẫn ngờ oan cho lũ kẻ trộm, kì thực đó là loài ma quỷ, hưng yêu tác quái đó mà thôi. Những sự quấy rối bấy nay, đều tự vật này cả.
Sau đấy đi mời khắp các thầy phù thuỷ cao tay, xin bùa yểm trấn, làm thuyền bè mã mà tống tiễn. Song càng bùa bèn trừ yểm, sự quấy nhiễu càng tệ hơn trước. Tư Lập cả sợ, họp người dân thôn lại bàn rằng:
– Các người khi trước vẫn thờ Phật rất kính cẩn, lâu nay vì việc binh hoả mà đèn hương lễ bái không chăm, cho nên yêu nghiệt hoành hành mà Phật không cứu giúp. Nay sao chẳng đến chùa kêu cầu với Phật, tưởng cũng là một cách quyền nghi may có thể giúp ích cho mình.
Mọi người bèn đi đốt hương lễ bái ở chùa chiền khấn rằng:
“Lũ chúng sinh này kính thờ Trời Phật, quy y đã lâu, hết lòng trông cậy ở Phật pháp. Nay ma quỷ nổi lên, quấy nhiễu dân chúng, hoạ hại cả đến loài lục súc, vậy mà Phật ngồi nhìn im lặng, chẳng cũng từ bi quá lắm ư? Cúi xin mở lượng thương xót, ra uy trừng phạt, khiến thần, người chẳng lẫn, dân vật đều yên, hết thảy chúng sinh, đều được đội ơn nhiều lắm. Song loạn lạc vừa yên, sinh kế chưa khôi phục được, tấc gỗ mảnh ngói khó lòng xoay xở vào đâu. Đợi khi làm ăn giàu có sẽ lại xin sửa lại chùa chiền đền công đúc ấy”.
Đêm hôm ấy, trộm cắp hoành hành lại dữ hơn trước. Tư Lập chẳng biết làm sao được; nghe Vương tiên sinh ở huyện Kim Thành là người giỏi bói dịch, bèn đến bói một quẻ xem sao. Vương tiên sinh bói rồi nói rằng:
Cưỡi trên ngựa tốt,
Mặc áo vải săn.
Túi da tên thiếc,
Đích thị người thần.
Lại dặn rằng:
– Ông muốn trừ được nạn ấy, sáng mai nên theo phía tả của huyện đi về phương Nam, hễ thấy người nào vận mặc như thế, mang xách như vậy, quyết là người ấy có thể trừ hại được, nên cố thỉnh mời, dù từ chối cũng đừng nghe.
Hôm sau, Tư Lập cùng các phụ lão đúng theo lời của Vương tiên sinh để trông ngóng xem, những kẻ đi, người lại đầy đường, chẳng thấy ai giống như thế cả. Trời đã xế chiều, ai nấy chán nản sắp muốn về, chợt có một người từ trong núi bước ra, mình mặc áo vải, đeo cung cưỡi ngựa. Mọi người cùng chạy ra phục lạy ở phía trước mặt. Người ấy ngạc nhiên hỏi, mọi người cũng kể rõ bản ý của mình. Người ấy cười mà nói rằng:
– Các ông sao mà quá tin bói toán thế. Tôi từ nhỏ làm nghề săn bắn, mình không rời yên ngựa, tay không rời cung tên. Hôm qua nghe nói ở núi An Phụ có nhiều giống nai, báo, thỏ tốt nên nay định đến để săn, nào có biết lập đàn thầy pháp, bắt ma vô hình là công việc thế nào.
Tư Lập nghĩ bụng người này tất là một vị pháp đàn cao tay vì không muốn nổi tiếng về thuật bùa, vì sợ mang luy vào thân, nên mới nhỏ nhơ trong chốn khe núi, giấu mình ở thú chơi cung mã, bèn nhất định cố mời kì được. Người kia xem chừng không thể từ chối, phải gượng nghe lời. Tư Lập mời người ấy về huyện để ở trong nhà quán xá, giường chiếu màn đệm rất sang trọng, săn sóc kính cẩn như một vị thần minh. Người ấy nghĩ riêng rằng:
– Họ tiếp đãi kính cẩn với ta như thế này, chỉ vì cho ta là có tài trừ quỷ. Nhưng thực thì ta chẳng có tài gì về việc đó, thế mà đi hưởng sự cung cấp của người, sao cho đành tâm. Nếu không sớm liệu trốn đi thì có ngày xấu hổ.
Hôm ấy ước chừng nửa đêm, thừa lúc mọi người đã ngủ say, người ấy bèn rón rén ra khỏi huyện lị. Khi đến phía Tây cái cầu ván bấy giờ trời tối lờ mờ, trăng khuya chưa mọc, thấy có người hình thể to lớn, hớn hở từ dưới đồng đi lên, người ấy bèn lẻn vào chỗ khuất, ngồi rình để xem họ làm trò gì. Một lát, thấy họ thò tay khoắng xuống một cái ao rồi bất cứ vớ được cá lớn cá nhỏ, đều bỏ vào mồm nhai nuốt hết, lại nhìn nhau mà cười mà nói:
– Những con cá con ăn ngon lắm nên ăn dè dặt mới thấy thú, há chăng hơn những thức hương hoa nhạt nhẽo họ thường dâng cúng chúng mình ư? Đáng tiếc là đến bây giờ, chúng mình mới được biết những vị ngon ấy.
Một người cười mà nói:
– Chúng mình thật to đầu mà dại, bấy nay bị người đời chúng nó lừa dối; ai lại đem cái oản, một vài lẻ gạo để lấp cái bụng nặng nghìn cân mà đi giữ của cho chúng nó bao giờ. Nếu không có những buổi như buổi hôm nay mà cứ trường chay mãi như trước thì thật là một đời sống uổng.
Một người nói:
– Tôi xưa nay vẫn ăn đồ mặn không phải ăn chay tịnh như các ông. Nhưng hiện giờ dân tình nghèo kiết, chúng nó chẳng có gì để cúng vái mình. Bụng đói miệng thèm, không biết mùi thịt là cái gì đã trải qua một thời gian lâu lắm, chẳng khác chi Đức Khổng Tử ở nước Tề ba tháng không được đụng đến miếng thịt. Song đêm nay, trời rét, nước lạnh, khó lòng ở lâu chỗ này được, chi bằng lên quách vườn mía mà bắt chước Hổ đầu tướng quân ngày xưa.
Đoạn rồi họ dắt nhau đi lên, vào vườn mía, nhổ trộm mà tước, mà hít. Người kia đang ngồi núp một chỗ, liền dương cung lắp tên, thình lình bắn ra, tin luôn ngay được hai người. Bọn gian kêu ấm ở mấy tiếng rồi ồ chạy cả, chừng độ mấy chục bước đều mờ khuất hết. Song lúc đó còn thấy có tiếng mắng nhau:
– Đã bảo ngày giờ không tốt thì đừng nên đi, không nghe lời ta, bây giờ mới biết.
Người kia kêu réo ầm ĩ lên, dân làng quanh đấy giật mình tỉnh dậy, cùng đốt đèn thắp đuốc chia nhau mỗi người đi đuổi một ngả. Họ soi thấy dấu máu vấy trên mặt đất, bèn theo dấu máu ấy đi về phía Tây. Chừng hơn nửa dặm đến một cái chùa hoang, vào thấy hai pho tượng Hộ pháp xiêu vẹo trong chùa, trên lưng mỗi tượng đều có một phát tên cắm vào sâu lắm. Mọi người đều lắc đầu lè lưỡi, cho là một sự lạ xưa nay chưa có bao giờ. Họ liền hay đổ hai pho tượng. Trong lúc ấy còn nghe có tiếng nói rằng:
– Vẫn tưởng kiếm cho no bụng, ai ngờ phải đến nát thân. Nhưng bầy ra mưu mẹo là tự lão thuỷ thần kia. Hắn là chủ mưu mà được thoát nạn còn chúng ta theo hắn mà phải chịu vạ, thật cũng đáng phàn nàn lắm. Đó rồi họ sai người đến miếu Thuỷ thần, thấy pho tượng thần đắp bằng đất, bỗng biến sắc, mặt tái đi như chàm đổ, mấy cái vẩy cá còn dính lèm nhèm trên mép, lại phá huỷ luôn cả pho tượng ấy.
Quan huyện Văn Tư Lập dốc hết hòm rương để trả ơn, người kia chở nặng mà về. Từ đấy, yêu tà tuyệt tịch không còn thấy bóng tăm đâu nữa.
(In trong Truyền kì mạn lục, Nguyễn Dữ,
Trúc Khê Ngô Văn Triện dịch, NXB Văn hoá, 1962)
a. Tóm tắt các sự việc chính được kể trong văn bản và xác định bối cảnh lịch sử xã hội của câu chuyện.
b. Liệt kê các nhân vật xuất hiện trong truyện và cho biết (các) nhân vật nào là nhân vật được xây dựng bằng yếu tố kì ảo? Căn cứ vào đâu để em khẳng định như vậy?
c. Những kẻ trộm cắp, quấy nhiễu cuộc sống của người dân ở Đông Triều thực chất là ai? Nhận xét về cách tác giả miêu tả các nhân vật này trong truyện.
d. Phân tích vai trò của nhân vật Tư Lập, Vương tiên sinh, người thợ săn có công trong việc phát giác, trừ khử thủ phạm trộm cắp quấy nhiễu để mang lại cuộc sống yên bình cho người dân ở Đông Triều.
đ. Nêu chủ đề và thông điệp mà văn bản muốn gửi đến người đọc. Theo em, yếu tố kì ảo có vai trò thế nào trong việc thể hiện chủ đề, thông điệp đó?
Câu 3:
Xác định lời dẫn và cách dẫn trong trường hợp sau:
Thành nghĩ: “Nuôi vật hèn kém cuối cùng cũng vô dụng, chi bằng đem chọi lấy một tiếng cười”. (Bồ Tùng Linh, Dế chọi)
Câu 4:
Nêu đặc điểm của không gian, thời gian, nhân vật, cốt truyện trong truyện truyền kì và đánh dấu vào ô có sử dụng yếu tố kì ảo để hoàn thành bảng sau.
Các yếu tố của truyện truyền kì |
Đặc điểm |
Có sử dụng yếu tố kì ảo |
Không gian |
|
|
Thời gian |
|
|
Nhân vật |
|
|
Cốt truyện |
|
|
Câu 5:
Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu:
Tư Lập cười mà nói:
– Té ra lâu nay vẫn ngờ oan cho lũ kẻ trộm, kì thực đó là loài ma quỷ, hưng yêu tác quái đó mà thôi. Những sự quấy rối bấy nay, đều tự vật này cả.
Sau đấy đi mời khắp các thầy phù thuỷ cao tay, xin bùa yểm trấn, làm thuyền bè mã mà tống tiễn. Song càng bùa bèn trừ yểm, sự quấy nhiễu càng tệ hơn trước. Tư Lập cả sợ, họp người dân thôn lại bàn rằng:
Các người khi trước vẫn thờ Phật rất kính cẩn, lâu nay vì việc binh hoả mà đèn hương lễ bái không chăm, cho nên yêu nghiệt hoành hành mà Phật không cứu giúp. Nay sao chẳng đến chùa kêu cầu với Phật, tưởng cũng là một cách quyền nghi may có thể giúp ích cho mình.
(Nguyễn Dữ, Cái chùa hoang ở Đông Triều)
a. Xác định lời nói của nhân vật Tư Lập trong đoạn trích trên. Chỉ ra cách Nguyễn Dữ đã sử dụng để dẫn lời nói của nhân vật và nêu tác dụng của lời dẫn trong đoạn trích.
b. Thuật lại lời nói của nhân vật Tư Lập theo cách dẫn gián tiếp.
c. Chỉ ra điểm khác biệt giữa lời nói của nhân vật Tư Lập trong đoạn trích trên và phần thuật lại của em.
Câu 6:
Liệt kê một số chi tiết kì ảo được sử dụng trong tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương và nêu rõ tác dụng của chúng trong việc thể hiện tính cách nhân vật hoặc chủ đề, tư tưởng của tác phẩm.
Câu 7:
Đề thi giữa kì 1 môn Ngữ Văn lớp 9 Kết nối tri thức có đáp án (Đề 2)
Đề thi giữa kì 1 môn Ngữ Văn lớp 9 Cánh diều có đáp án (Đề 1)
Đề minh họa thi vào lớp 10 môn Ngữ văn năm 2025 - Sở GD Hải Dương
Đề thi giữa kì 1 môn Ngữ Văn lớp 9 Kết nối tri thức có đáp án (Đề 1)
Đề thi giữa kì 1 môn Ngữ Văn lớp 9 Kết nối tri thức có đáp án (Đề 9)
Bộ 10 đề thi cuối kì 1 Ngữ Văn lớp 9 Cánh diều có đáp án ( Đề 8)
Bộ 10 đề thi cuối kì 1 Ngữ Văn lớp 9 Kết nối tri thức có đáp án ( Đề 1 )
Đề thi giữa kì 1 môn Ngữ Văn lớp 9 Kết nối tri thức có đáp án (Đề 8)
về câu hỏi!