Câu hỏi:
25/11/2024 126Luyện tập các bước thực hiện bài nói theo đề bài sau:
Kể lại một truyện kể sáng tạo phỏng theo một trong những truyện truyền kì hay truyện có yếu tố kì ảo mà em đã đọc.
Quảng cáo
Trả lời:
Tham khảo:
Xin chào thầy cô và các bạn.
Ngày xưa, trong dân gian đã lưu truyền một câu chuyện cảm động kể về một người phụ nữ nhan sắc, đức hạnh nhưng lại phải chịu một nỗi oan ức lớn đến mức phải gieo mình tự vẫn nơi bến sông chỉ vì người chồng mang tính đa nghi, nhỏ nhen của mình. Câu chuyện mà người ta vẫn thường kể nhau nghe ấy mang tên “Vợ chàng Trương”, nhưng kết cục của câu chuyện dân gian này lại vô cùng bi thảm.
Vì tiếc thương cho nàng người phụ nữ nết na nhưng lại bạc mệnh, Nguyễn Dữ đã mượn cốt truyện trên để viết nên “Chuyện người con gái Nam Xương”. Những chi tiết trong truyện hầu như vẫn được giữ nguyên về cơ bản, nhưng ông đã thể hiện tinh thần nhân đạo của mình bằng cách tạo nên một cái kết đẹp hơn cho người phụ nữ cao đẹp ấy.
Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ xoay quanh cuộc đời và số phận của một người con gái đức hạnh nhưng cảnh đời lại đẩy vào nơi tối tăm của bi kịch - Vũ Thị Thiết. Vũ Thị Thiết quê ở Nam Xương, là con của một gia đình làm nông nghèo. Mẹ nàng mất từ sớm, trong nhà chỉ có hai cha con cùng nương tựa lẫn nhau và trải qua những tháng ngày bình lặng, hạnh phúc.
Khi nàng đến tuổi lập gia đình, đã được một chàng Trương vì thấy nàng đẹp người lại đẹp nết nên đã qua hỏi cưới. Nàng không yên tâm để cha già sống cảnh một mình, nhưng vẫn phải đồng ý lấy Trương Sinh trước những lời khuyên của cha. Trước khi nàng được gả đi, cha đã dặn dò nàng sang nhà chồng phải biết hiếu kính với nhà chồng, phải đảm đang việc nhà, làm tròn đạo dâu, đạo vợ. Nếu không, nàng sẽ chịu những điều tiếng không hay.
Một tuần sau, Vũ Thị Thiết đã chính thức trở thành vợ của Trương Sinh. Từ khi bước vào nhà họ Trương, nàng đã coi Trương Sinh là người chồng mà suốt đời mình sẽ yêu thương, gắn bó. Mẹ của chàng cũng chính là mẹ của nàng, nên nàng sẽ chăm sóc và phụng dưỡng như chính người thân máu mủ của mình.
Cuộc sống thời gian đầu hôn nhân cũng được coi là êm ấm. Nhưng rồi, biến cố đã xảy ra và chia cắt nàng với chồng. Cũng chính đây là nguồn cơn dẫn đến nỗi oan sâu nặng của nàng sau này.
Năm ấy, giặc Chiêm xâm lược nước ta, triều đình phải kêu gọi binh lính đi chiến đấu, mà Trương Sinh vì không học nên đã bị bắt đi lính. Buổi chia ly giữa Vũ Thị Thiết với Trương Sinh diễn ra một cách đầy nước mắt bởi sự lưu luyến, không muốn rời xa. Trương Sinh đã dặn dò nàng ở nhà phải chăm sóc, phụng dưỡng mẹ chồng chu đáo, đảm đương việc nhà chu toàn đợi chàng trở về.
Khi ấy, cả hai sẽ lại được đoàn tụ và cùng xây dựng một mái ấm hạnh phúc cho riêng mình. Dẫu rất buồn rầu, hơn ai hết nàng hiểu rõ sự nguy hiểm của chuyến đi này, và sự ác liệt của chiến tranh nào có buông tha ai bao giờ.
Nàng bày tỏ nguyện vọng của mình trong nước mắt, nàng chẳng cầu chồng mang áo gấm phong hầu trở về, chỉ mong rằng chồng nàng có thể bình an, mạnh khỏe mà quay về đoàn tụ với gia đình: “Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày trở về mang theo được hai chữ bình yên là đủ rồi…”
Thế rồi, Trương Sinh lên đường ra trận. Trong nhà, Vũ Thị Thiết vừa chăm lo cho mẹ già, lại nuôi nấng cho đứa con nhỏ vừa mới sinh sau khi chồng đi. Nhưng nàng chẳng hề than thở hay trách cứ, nàng chỉ yên lặng chăm lo ruộng vườn, chăm lo người thân. Chuyện gì nàng cũng hoàn thành một cách chu toàn, không cầu được công nhận, chỉ mong ngày chồng trở về.
Mẹ chồng nàng bị ốm nặng, nàng cũng không kêu than mà rời mẹ nửa bước. Nàng cố gắng chăm lo mẹ, động viên mẹ vượt qua bạo bệnh, đợi này chồng trở về. Biết mình không thể qua khỏi cơn bệnh này, mẹ chồng nàng đã nói nàng không cần lãng phí tiền bạc nữa, nhưng nàng vẫn một mực chăm sóc đủ đầy, đến mức mẹ chồng nàng phải hết lời khen ngợi nàng là một người tốt và sau này nàng sẽ được hạnh phúc vì những đức tính tốt đẹp của mình.
Một thời gian sau, mẹ chồng Vũ Thị Thiết mất. Nàng đã lo cho việc hậu sự một cách chu đáo thay cho chồng. Ngôi nhà nhỏ giờ chỉ còn có hai mẹ con. Vì thấm thía nỗi đau không có được sự che chở trọn vẹn của cha và mẹ, nên nàng luôn mong muốn con được hạnh phúc, lại càng không muốn con phải ghen tị với bạn vì có cả cha lẫn mẹ.
Vì thế, nàng đã nghĩ ra một cách, đó là chỉ vào bóng của mình trên tường và dối con rằng đó là ba của Đản. Nhưng nàng cũng chẳng thể ngờ được, lời nói dối để con vơi đi nỗi nhớ cha, cũng giúp mình nguôi ngoai nỗi nhớ chồng lại đẩy nàng vào bi kịch với oan khuất nhất đời.
Trương Sinh trở về, nhưng bé Đản lại không nhận ông là cha. Chàng ta liền nói với Đản rằng mình là cha của bé, nhưng Đản lại kể với Trương Sinh về một người cha tối nào cũng đến thăm mẹ con bé. Vốn tính đa nghi, cộng thêm lời trẻ thơ dại, Trương Sinh liền nổi giận đùng đùng nghi ngờ vợ hư hỏng. Trong cơn giận dữ, Trương Sinh đã lớn tiếng chửi mắng, kết tội và đánh đuổi Vũ Nương ra khỏi nhà mặc cho nàng cố gắng giải thích và sự bao che của bà con làng xóm.
Vì quá đau khổ, nàng lại chẳng có cơ hội nào để giải thích, nên nàng đã đi ra sông Hoàng Giang trẫm mình tự vẫn để giải oan cho chính mình. Khi đó, nàng đã gặp được Linh Phi là vợ của đức Long Quân cứu giúp. Cuộc sống nàng lại bắt đầu với những ngày tháng sống cùng Linh Phi. Tưởng như nỗi đau năm nào đã nguôi ngoai, nào ngờ chỉ cần chạm nhẹ lại vào vết sẹo năm xưa, mọi ký ức lại hiện về
Nàng tình cờ gặp được một người bà con của mình ở đây. Nhớ lại nỗi oan chưa được giải của mình, nàng liền nhờ người đó chuyển lời đến Trương Sinh. Về phần Trương Sinh, sau khi biết được nỗi oan của vợ, Trương Sinh liền lập đàn trên sông Hoàng Giang để giải oan cho sợ. Vũ Thị Thiết hiện về giữa sông. Cảm thấy nỗi oan đã được giải trừ, nàng cũng chẳng hề oán trách chồng mình, nhưng cũng chẳng thiết tha trở về với cuộc sống cũ nữa. Vì thế, nàng đã nói lời cuối với Trương Sinh rồi biến mất trong lòng sông.
Cái kết của câu chuyện này có lẽ không quá có hậu, nhưng nó lại là cách hợp lý nhất giúp cho câu chuyện thêm phần đáng tin và không mất đi kết quả hiện thực. Nhưng dẫu sao, Vũ Nương trong chuyện cũng đã được giải oan. Đó chính là niềm an ủi lớn nhất, mang tính nhân văn sâu sắc nhất. Đồng thời, câu chuyện cũng chính là lời cáo buộc tội ác của xã hội phong kiến bất công, trọng nam khinh nữ đã cướp đi quyền được hạnh phúc của những người phụ nữ đẹp người đẹp nết.
Hot: 500+ Đề thi vào 10 file word các Sở Hà Nội, TP Hồ Chí Minh có đáp án 2025 (chỉ từ 100k). Tải ngay
CÂU HỎI HOT CÙNG CHỦ ĐỀ
Lời giải
Bước 1: Chuẩn bị viết
Em tìm đọc một truyện truyền kì hay truyện có yếu tố kì ảo, sau đó, đọc lại yêu cầu về kiểu bài kể chuyện sáng tạo phỏng theo một truyện đã đọc trong sách giáo khoa, sau đó thực hiện theo bốn bước của tiến trình viết.
Bước 2: Tìm ý, lập dàn ý
Tìm ý: Chọn đề tài, câu chuyện đã đọc phù hợp để phỏng theo; tóm tắt cốt truyện, liệt kê nhân vật, chọn nhân vật chính,... dự kiến vị trí cài đặt yếu tố miêu tả, biểu cảm,...
Lập dàn ý: Dựa theo bố cục ba phần đã tóm lược ở Bài tập 3.
Bước 3: Viết bài
Dựa trên dàn ý, em viết bài văn ở nhà. Trên lớp, theo hướng dẫn của thầy/cô, em thực hành viết một đoạn văn kể chuyện và sử dụng bảng kiểm dưới đây để tự đánh giá về đoạn văn.
Bài văn mẫu tham khảo:
Có nhiều truyền thuyết về các vị anh hùng trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc, nhưng người ta vẫn mãi khắc ghi một truyền kỳ về người anh hùng ở làng Gióng, được truy phong là Phù Đổng Thiên Vương, mà nhân dân Việt Nam ta đời đời nhớ ơn.
Truyền thuyết kể rằng vào đời vua Hùng Vương thứ 6, ở một ngôi làng nhỏ có hai vợ chồng nghèo, sống rất tình nghĩa, phúc đức, cuộc sống khó khăn không khiến họ mệt mỏi hay nản chí thế nhưng tuổi cả hai ngày một lớn mà mong mỏi mãi cũng không có lấy một mụn con cho vui cửa vui nhà. Hai vợ chồng lấy làm buồn lòng lắm, hàng xóm cũng cảm thấy xót xa cho họ. Một hôm trời nắng to, bà lão theo lệ thường ra ruộng làm cỏ, trong lúc đang cặm cụi nhổ cỏ thì bà vợ bỗng nhìn thấy một dấu chân người đặc biệt to lớn. Không biết trời xui đất khiến thế nào bà lại đưa chân mình vào ướm thử, sau chuyện ấy bà cũng quên khuấy đi, ba tháng sau bà bỗng cảm thấy người mệt mỏi, chán ăn, đến thầy lang khám bệnh thì hay tin mình có thai. Khi nghe tin cả hai vợ chồng đều rất đỗi vui mừng mà sung sướng, bởi ước nguyện bấy lâu đã trở thành hiện thực, gia đình nhỏ của hai vợ chồng dần trở nên ấm áp hơn cả, ngày ngày chờ đợi đứa con bé bỏng ra đời trong hạnh phúc. Nhưng lạ thay, đã qua chín tháng mười ngày tròn mà người vợ vẫn chưa trở dạ, hai vợ chồng lấy làm lo lắng, đợi mãi đến khi cái thai được tròn mười hai tháng, thì đứa trẻ mới chịu chui từ bụng mẹ ra. Vừa ra đời người ta đã nhận xét rằng đây là một đứa bé có tư chất hơn người, bởi vẻ thông minh sáng sủa, khôi ngô tuấn tú, vợ chồng ông lão nghe thứ thì lại càng vui mừng hơn cả, đặt cho con cái tên là Gióng, cho dễ nuôi. Cuộc sống một gia đình ba người cứ thế êm đềm trôi đi, nhưng lạ thay mãi đến ba tuổi Gióng vẫn chẳng biết đi biết đứng, cha mẹ đặt đâu thì em ngồi đấy, em cũng chưa hề mở miệng nói một câu nào, điều ấy làm cho hai vợ chồng sốt ruột, bồn chồn không yên vì sợ con mình có bệnh lạ.
Năm ấy, giặc ở phương Bắc tràn vào nước ta xâm lược, giày xéo mảnh đất Lạc Việt, thế giặc mạnh, vua Hùng cùng với các Lạc Hầu, Lạc Tướng rất lấy làm lo lắng. Trước tình hình ấy vua bèn nảy ra một ý, cho sứ giả truyền tin tuyển mộ người tài, đức ra giúp nước. Khi sứ giả vừa loan tin đến đầu làng, thì Gióng bỗng cất tiếng nói: “Mẹ ra mời sứ giả vào đây giúp con”, người mẹ tuy sửng sốt nhưng vẫn chạy ra mời sứ giả vào. Vào đến nơi, sứ giả chỉ thấy một cậu bé ba tuổi và hai vợ chồng đã tuổi xế chiều, thì lấy làm tức giận, tưởng mình bị đùa giỡn, thế nhưng Gióng đã kịp lên tiếng: “Giặc đã hoành hành khá lâu, ta xin nguyện vì bệ hạ, vì non sông xung phong đánh giặc, khẩn cầu ngài về tâu với nhà vua chế tạo cho ta một chiếc roi sắt từ loại sắt tốt nhất, đảm bảo đánh trăm trận mà không gãy, ban cho ta một con chiến mã bằng sắt nặng ngàn cân và một bộ giáp sắt nặng trăm cân, giáo mác xuyên không thủng. Như thế ta có thể yên tâm diệt giặc”. Sứ giả nghe thế thì lấy làm mừng rỡ vì đích thị đây là nhân trung long phượng, là bậc kỳ tài hiếm có nên mới có thể có khẩu khí hiên ngang, oai hùng của võ tướng như thế. Kể từ ngày gặp sứ giả, Gióng lớn nhanh như thổi, bao nhiêu cơm gạo ăn cũng không đủ, dân làng người nhà nhà chung tay góp cơm, góp gạo cho Gióng ăn, thầm mong chàng sớm ngày đánh tan lũ giặc xâm phạm bờ cõi.
Mười ngày sau, mọi thứ mà Gióng yêu cầu đều được mang tới cả, lúc này đây từ một đứa bé ba tuổi, Gióng đã trở thành chàng trai cao lớn vượt trội, tầm vóc phi phàm, thân hình cao lớn, cơ bắp cuồn cuộn. Chàng mặc áo giáp sắt, cưỡi ngựa sắt, cầm roi sắt, từ biệt quê hương và lên đường diệt giặc, trước khi đi Gióng quay lại nhìn cha mẹ “Kiếp này đa tạ phụ mẫu đã sinh dưỡng!”, rồi hướng thẳng phía trước mà đi, con ngựa sắt vốn tưởng là khối sắt không có linh tính, thế nhưng lúc này đây nó lại phát ra tiếng hí vang trời, rồi phóng vụt đi, chốc lát chỉ còn lại cái bóng mờ mờ của người anh hùng, lẫn trong đám bụi thổi tung. Ngựa chạy một đường đến nơi đóng quân của giặc, ngựa đi đến đâu phun lửa đến đấy, thiêu trụi hết lương thực và lều trại của quân địch, chúng hoảng hồn bỏ cả vũ khí mà chạy thoát thân, kẻ giẫm đạp lên nhau, người thì chết dưới vó ngựa. Tráng sĩ vung roi sắt quất liên hồi vào lũ giặc cướp nước, khiến chúng chết như ngả rạ dưới vó ngựa, thế nhưng giặc quá đông, sau ba ngày chinh chiến thì không may roi sắt gãy làm đôi. Lúc này đây tráng sĩ vừa đuổi giặc đến khu vực có những lũy tre già hàng mấy chục tuổi, ngựa sắt phun lửa làm loài tre ấy trở nên vàng bóng. Nhanh trí, tráng sĩ đã dùng sức mạnh nhổ hẳn cây tre to nhất bên đường làm vũ khí thay roi sắt, kỳ diệu thay vốn chỉ là cây cỏ thế nhưng trên tay tráng sĩ, cay tre bỗng trở nên mạnh mẽ không kém gì so với những thứ vũ khí sắc bén khác. Sau bảy ngày chiến đấu, cuối cùng đất nước ta cũng sạch bóng quân thù, chỉ còn lại hàng vạn xác chết chốn sa trường, khung cảnh tiêu điều tan hoang.
Tráng sĩ sau khi diệt giặc thì thúc ngựa chạy vào rừng sâu, tìm nơi có dòng suối nguồn trong trẻo chưa ai biết đến, tắm rửa sạch sẽ, cởi bỏ lại bộ giáp sắt, như một cách báo cáo hoàn thành sứ mệnh, rồi cưỡi ngựa sắt bay về trời. Vua Hùng để tưởng nhớ công ơn đã phong cho tráng sĩ là Phù Đổng Thiên Vương và cho xây lập đền thờ ngay tại quê nhà, để đời đời được hưởng nhang khói của nhân dân.
Bảng kiểm kĩ năng viết đoạn văn kể chuyện sáng tạo có kết hợp sử dụng yếu tố miêu tả, biểu cảm.
Tiêu chí |
Đạt |
Chưa đạt |
|
Các câu tập trung vào chủ đề/ ý chính |
Đoạn văn gồm nhiều câu (ít nhất ba câu). |
|
|
Có chủ đề, ý chính (các câu trong đoạn xoay quanh một sự việc, tình tiết của câu chuyện tưởng tượng). |
|
|
|
Các câu được kết nối phù hợp thành đoạn văn. |
|
|
|
Có kết hợp kể chuyện với miêu tả, biểu cảm |
Có câu văn kể chuyện. |
|
|
Có câu văn miêu tả. |
|
|
|
Có câu văn biểu cảm. |
|
|
|
Có kĩ năng dựng đoạn và diễn đạt |
Viết câu đúng ngữ pháp và đúng yêu cầu kể chuyện, miêu tả biểu cảm. |
|
|
Sử dụng từ ngữ chọn lọc. |
|
|
|
Sử dụng ngữ điệu, dấu câu phù hợp. |
|
|
Bước 4: Xem lại, chỉnh sửa và rút kinh nghiệm
Em sử dụng bảng kiểm dưới đây để kiểm soát kĩ năng viết bài văn kể chuyện và kĩ năng viết đoạn văn kể chuyện:
Bảng kiểm kĩ năng viết một truyện kể sáng tạo mô phỏng truyện đã đọc
Tiêu chí |
Đạt |
Chưa đạt |
|
Mở đầu truyện
|
Giới thiệu nhân vật/ bối cảnh/ nội dung chính của câu chuyện. |
|
|
Có phần dẫn dắt lôi cuốn, thu hút sự chú ý của người đọc. |
|
|
|
Đảm bảo nội dung chính của truyện gốc. |
|
|
|
Diễn biến truyện |
Có nhân vật. |
|
|
Có cốt truyện. |
|
|
|
Sử dụng ngôi kể phù hợp. |
|
|
|
Câu chuyện được thuật lại với sự kiện, diễn biến hợp lí. |
|
|
|
Thể hiện sự sáng tạo của bản thân người viết (về nhân vật/ sự kiện/ tình huống, bối cảnh/ chi tiết,...). |
|
|
|
Kết hợp lời kể với lời miêu tả, biểu cảm. |
|
|
|
Làm nổi bật sự kiện, nhân vật chính. |
|
|
|
Nội dung truyện kể có ý nghĩa, có tính giáo dục. |
|
|
|
Kết thúc truyện |
Phù hợp với diễn biến câu chuyện. |
|
|
Gây ấn tượng hoặc gợi suy nghĩ đối với người đọc. |
|
|
|
Kĩ năng sử dụng lời văn kể chuyện |
Câu văn giàu hình ảnh. |
|
|
Lời kể linh hoạt, tự nhiên. |
|
|
|
Đảm bảo dung lượng khoảng 1.000 chữ. |
|
|
Lời giải
a.
- Các sự việc chính được kể trong văn bản:
+ Tình trạng ma, quỷ, hưng yêu tác quái, trộm cắp, nhũng nhiễu ở Đông Triều khiến viên quan Tư Lập phải tìm cách trừ khử.
+ Theo lời của Vương tiên sinh, Tư Lập mời người thần về trừ khử yêu quái, hậu đãi người thần, nhưng anh ta vốn chỉ là một người thợ săn.
+ Đêm đến, người thợ săn trốn đi, tình cờ phát hiện thủ phạm, bắn tên, hô hoán dân chúng vây bắt.
+ Thủ phạm bị phát giác hoá ra là tượng thuỷ thần và mấy pho tượng trong ngôi chùa hoang ở Đông Triều. Dân chúng đập đổ các pho tượng và từ đó cuộc sống của dân trong vùng trở lại yên bình.
+ Bối cảnh lịch sử xã hội của câu chuyện: bối cảnh của câu chuyện là vào cuối đời Trần, sau cuộc kháng chiến chống quân Minh, đạo Phật có những dấu hiệu suy thoái, niềm tin vào đạo Phật mai một; chùa chiền mất linh ứng.
b. Các nhân vật trong truyện và căn cứ xác định nhân vật kì ảo.
Nhân vật |
Nhóm nhân vật bình thường |
Nhân vật kì ảo |
|
Tư Lập (quan huyện mới nhậm chức). Người thợ săn. Dân chúng (nạn nhân ở vùng Đông Triều). |
– Các pho tượng đất sét đã biến thành “ma, quỷ” trong ngôi chùa hoang ở Đông Triều. – Vương tiên sinh với khả năng bói dịch. |
c.
– Thủ phạm của những vụ trộm cắp, quấy nhiễu thực sự đối với cuộc sống của người dân ở Đông Triều không ai khác là các pho tượng đã biến thành ma, quỷ trong ngôi chùa hoang này.
- Cách tác giả miêu tả các nhân vật này trong truyện:
+ Sử dụng yếu tố kì ảo, hoang đường: tượng đất sét biến thành ma quỷ háu đói, trộm cắp như những kẻ phàm phu tục tử;
+ Sử dụng khéo léo tình tiết trùng hợp ngẫu nhiên: người thần và người thợ săn.
+ Kết hợp sinh động các chi tiết tả hành vi và lời nói.
d.
Vai trò của Tư Lập |
Vai trò của Vương tiên sinh |
Vai trò của người thợ săn |
– Phát hiện thủ phạm là ma, quỷ, hưng yêu, không phải kẻ trộm thông thường. – Tìm mọi cách và mời bằng được những người có tài diệt trừ yêu ma. – Tập hợp dẫn chúng đập bỏ tượng thuỷ thần. |
Người tiên đoán sự xuất hiện của người thợ săn bằng lời bói dịch: Cưỡi trên ngựa tốt, Mặc áo vải săn. Túi da tên thiếc, Đích thị người thần. |
Tình cờ phát hiện thủ phạm, hô hào dân chúng truy bắt thủ phạm. |
đ.
- Chủ đề: Tinh trạng nhũng nhiễu của xã hội và suy thoái niềm tin tồn giáo nói chung, đạo Phật nói riêng.
- Thông điệp: Hãy cẩn thận với tình trạng hoang phế của những ngôi chùa.
Yếu tố kì ảo – các pho tượng đất sét trong chùa hoang biến thành ma đói – có tác dụng cảnh báo sâu sắc về tình trạng suy thoái của niềm tin tôn giáo, đồng thời làm cho câu chuyện, sự việc trở nên bất ngờ, hấp dẫn.
Lời giải
Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.
Lời giải
Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.
Lời giải
Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.
Lời giải
Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.
Lời giải
Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.
Đề thi giữa kì 2 Văn 9 Kết nối tri thức có đáp án- Đề 9
Bộ 10 đề thi cuối kì 1 Ngữ Văn lớp 9 Cánh diều có đáp án ( Đề 8)
Đề thi giữa kì 1 môn Ngữ Văn lớp 9 Kết nối tri thức có đáp án (Đề 2)
Đề thi giữa kì 2 Văn 9 Kết nối tri thức có đáp án- Đề 5
Bộ 10 đề thi cuối kì 1 Ngữ Văn lớp 9 Cánh diều có đáp án ( Đề 9)
Đề thi giữa kì 2 Văn 9 Kết nối tri thức có đáp án- Đề 6
Đề thi giữa kì 2 Văn 9 Cánh Diều có đáp án- Đề 4
Bộ 10 đề thi cuối kì 1 Ngữ Văn lớp 9 Cánh diều có đáp án ( Đề 10)