Câu hỏi:
24/11/2024 64Thực hiện đề bài sau:
Em được phân công thuyết minh về một danh lam thắng cảnh hay một di tích lịch sử nơi em sống để trình bày trong buổi sinh hoạt ngoại khoá của học sinh khối 9 với chủ đề Vẻ đẹp quê hương. Hãy chuẩn bị bài nói để trình bày trong buổi sinh hoạt.
Sách mới 2k7: Tổng ôn Toán, Lí, Hóa, Văn, Sử, Địa…. kỳ thi tốt nghiệp THPT Quốc gia 2025, đánh giá năng lực (chỉ từ 110k).
Quảng cáo
Trả lời:
Tham khảo
Giả sử em chọn thuyết minh về Di tích lịch sử Bến Nhà Rồng, em cần tiến hành lần lượt các bước sau:
Bước 1: Chuẩn bị bài nói
Em tiến hành tìm hiểu các thông tin cho bài nói của mình.
- Đối tượng người nghe: các bạn học sinh khối 9, thầy cô, khách mời,
- Địa điểm trình bày: Sân trườn
- Thời lượng trình bày: khoảng 10 – 15 phút
- Thông tin về Di tích lịch sử Bến Nhà Rồng: tìm hiểu bằng cách tham quan và ghi chép thông tin vào phiếu thu thập thông tin danh lam thắng cảnh hay di tích lịch sử (tham khảo phần Viết, Bài 3, Ngữ văn 9, tập một). Ngoài ra, có thể tìm tư liệu về Bến Nhà Rồng trong sách baosm trên Internet, sách chuyên khảo, tạp chí,…
Bước 2: Tìm ý, lập dàn ý
- Đọc, phân loại, sắp xếp các thông tin; đánh dấu các thông tin quan trọng; ghi chú nguồn trích dẫn và thư mục tham khảo mà em sử dụng cho bài nói.
- Từ thông tin thu thập, lập dàn ý cho bài nói (tham khảo dàn ý sau):
+ Mở đầu: Nêu tên và giới thiệu khái quát về Bến Nhà Rồng (Di tích lịch sử nổi tiếng gắn liền với hành trình tìm đường cứu nước vĩ đại của chủ tịch Hồ Chí Minh. Trở thành một biểu tượng của thành phố mang tên Bác)
+ Nội dung chính:
* Vị trí tọa lạc: Nằm ở số 1 Nguyễn Tất Thành, phường 12, quận 4. Hiện nay, Bến Nhà Rồng có bốn khu vực chính là Bảo tàng Hồ Chí Minh, tượng đài Bác Hồ, khuôn viên bến cảng và đài phun nước. Các tín đồ du lịch vẫn thường hay gọi tòa nhà bảo tàng là Nhà Rồng và bến cảng ở ngay bên cạnh là Bến Nhà Rồng. Khu vực bảo tàng ở Bến Nhà Rồng hiện tại có tổng diện tích lên đến 1500 m2 với 1 tầng trệt, 2 tầng lầu và 9 phòng trưng bày đẹp mắt.
* Lịch sử hình thành: Bến Nhà Rồng nằm bên sông Sài Gòn, trước kia là trụ sở của hãng vận tải Messageries Maritimes (từ năm 1864-1955) được xây dựng từ giữa năm 1862, là một trong những công trình đầu tiên thực dân Pháp xây dựng sau khi chiếm được vùng đất này. Công trình có lối kiến trúc công sở phương Tây với hành lang bao quanh và những vòm cuốn, nhưng lại có mái mang nét kiến trúc phương Đông. Đặc biệt, trên đỉnh mái có trang trí đôi rồng kiểu lưỡng long chầu nguyệt - một lối trang trí phổ biến trên các kiến trúc truyền thống Việt Nam. Và kiến trúc ấy được gọi là Nhà Rồng hay Bến Nhà Rồng. Sau khi thực dân Pháp thất bại ở Đông Dương năm 1954, Bến Nhà Rồng được chính quyền miền Nam Việt Nam quản lý, sử dụng phục vụ cảng đường thủy của chính quyền Sài Gòn. Sau năm 1975, đất nước thống nhất, Bến Nhà Rồng được tu sửa, trang trí lại.
* Đặc điểm kiến trúc, cảnh quan:
Kiến trúc của Bến Nhà Rồng mang đậm hơi hướng Á Đông với phần đỉnh được tạo tác theo hướng “Lưỡng long chầu nguyệt”. Tính đến nay, công trình vẫn còn lưu giữ được nét đẹp vẹn nguyên như ngày đầu dù đã trải qua nhiều lần thay đổi chỉnh sửa.
Bảo tàng Hồ Chí Minh trong khuôn viên của Bến Nhà Rồng hiện có đến 9 phòng trưng bày, trong đó 6 phòng lưu trữ các hiện và tư liệu liên quan đến Bác.Hiện tại, các gian trưng bày của Bảo tàng Hồ Chí Minh được chia thành 5 chủ đề xoay quanh các giai đoạn trong cuộc đời của Bác.
* Giá trị lịch sử, văn hóa: Bến Nhà Rồng chứng kiến nhiều sự kiện trọng đại trong lịch sử dân tộc. Nơi này từng là trung tâm giao thương quan trọng của khu vực, nhiều thương thuyền quốc tế ghé thăm, trao đổi buôn bán. Từ Bến Nhà Rồng cũng mở ra con đường cách mạng cho nhân dân Việt Nam khi đây là nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh ra đi tìm đường cứu nước.
+ Kết thúc: Đánh giá khái quát về di tích lịch sử, bày tỏ suy nghĩ tình cảm về di tích, đưa ra một lời mời gọi tham quan (nếu cần)
- Chuẩn bị các phương tiện phi ngôn ngữ để tăng sự hấp dẫn cho bài nói (hình ảnh Bến Nhà Rồng qua các thời kì, sơ đồ tham quan, đoạn phim về Bến Nhà Rồng…)
Bước 3: Luyện tập, trình bày
- Luyện tập ở nhà bằng cách trình bày trước gương hoặc quay video để xem lại và chỉnh sửa.
- Trình bày các thông tin rõ ràng, chính xác.
- Kết hợp số liệu, phương tiện, phi ngôn ngữ.
- Những kiến, các câu hỏi của người nghe và câu trả lời.
- Có thể trình bày trước cho ba mẹ, bạn bè, thầy cô xem để nhận những đóng góp phản hồi, hoàn thiện bài trình bày.
Bước 4: Trao đổi, đánh giá
Sau khi trình bày học sinh sử dụng bảng kiểm đánh giá kỹ năng thuyết minh về một danh lam thắng cảnh hay di tích lịch sử (Ngữ văn 9, tập một) để tự đánh giá và góp ý cho bài nói của các bạn khác trong buổi sinh hoạt ngoại khóa.
CÂU HỎI HOT CÙNG CHỦ ĐỀ
Câu 1:
Đọc văn bản và thực hiện các yêu cầu bên dưới:
NÉT ĐẶC TRƯNG CỦA VƯỜN QUỐC GIA MŨI CÀ MAU
Theo Đào Thị Luyến, Hoàng Trà My, Hoàng Lan Anh
Đất Mũi Cà Mau – nơi cực Nam của đất nước được khai phá vào cuối thế kỉ XVII, đầu thế kỉ XVIII, gắn liền với sự quân tụ của ba dân tộc: Kinh, Hoa, Kh'mer. Do vậy, nơi đây có sự giao thoa những nét sinh hoạt văn hoá đa sắc tộc được thể hiện qua nhiều phong tục, tập quán phong phú và đặc sắc.
Xưa có người kể rằng, những cư dân nơi Mũi Cà Mau là những người hùng ở phía Bắc vì không chịu được sự bóc lột của đế quốc phong kiến đã bỏ làng, bỏ đất mà đi về phương Nam. Họ cứ đi, đi mãi tới Mũi Cà Mau, mảnh đất cuối cùng của đất nước vốn được thiên nhiên đặc biệt ưu đãi và dùng lại để sinh cơ, lập nghiệp. Càng gắn bó với đất, với rừng, họ càng thấu hiểu câu nói: “Đất lành chim đậu”, “Rừng là vàng, biển là bạc”,...
Lịch sử hình thành, vị trí toạ lạc, diện tích
Vườn Quốc gia Mũi Cà Mau được thành lập năm 2002, năm trên địa bàn huyện Năm Căn và Ngọc Hiển, tỉnh Cà Mau, cách Thành phố Hồ Chí Minh gần 400km, nơi có cột mốc cuối cùng của Việt Nam trên đất liền, với tổng diện tích: 41862 ha, trong đó diện tích trên đất liền là 15 262 ha, diện tích ven biển là 26 600 ha – một vùng đất ngập mặn với quần thể thực vật chiếm ưu thế là cây đước, cây mắm. Đây là một hệ sinh thái rừng ngập mặn tự nhiên có giá trị rất cao về đa dạng sinh học, cảnh quan thiên nhiên, môi trường, văn hoá và lịch sử.
Đến với Vườn Quốc gia Mũi Cà Mau, nơi nghiên cứu về các loài chim nước ven biển của Việt Nam và vùng châu Á – Thái Bình Dương, du khách có thể thoả sức khám phá, tìm hiểu những nét đặc trưng độc đáo về địa lí tự nhiên và địa mạo tạo nên vùng sinh thái cửa sông, ven biển có một không hai ở Việt Nam.
Sẽ thật là thú vị khi bạn được lênh đênh băng xuống máy trên các sông, rạch, với những buổi đi xuyên rừng đước, thoả thích chụp ảnh các loài chim, thú, hít thở bầu không khí trong lành và lắng nghe những âm thanh vọng về từ cây lá, chim muông,... Du khách cũng sẽ rất ngạc nhiên và thích thú khi được biết Vườn Quốc gia Mũi Cà Mau chính là nơi bảo tồn “nguồn gen đặc hữu quý hiếm” với 22 loài thực vật ngập mặn đã được phát hiện. Nơi đây hiện có hơn 100 loài động vật quý hiếm đang sinh sống.
Quần thể động thực vật phong phú
Do điều kiện thiên nhiên đặc trưng nên hệ động vật của Vườn Quốc gia Mũi Cà Mau rất phong phú, đa dạng với lớp thú có 13 loài thuộc 9 họ, trong đó có hai loài trong Sách đỏ thế giới IUCN' là khỉ đuôi dài và con cà khu. Một số loài phổ biến thường gặp là rái cá, sóc, chồn, khỉ,... Hằng năm, vào tháng Tám, những đàn chim di cư về rừng được làm tổ, sớm chiều theo con nước kiếm ăn, bầu trời rừng đước lại rộn rã như ngày hội. Lớp chim ở Vườn Quốc gia Mũi Cà Mau có hơn 74 loài thuộc 23 họ, trong đó có 5 loài có trong Sách đỏ của IUCN gồm cò Trung Quốc, bồ nông chân xám, giang sen, rẽ mỏ cong hông nâu và quắn trắng.
Theo thống kê của các nhà khoa học ở Đất Mũi, mỗi năm đất nơi đây lấn biển khoảng 100 mét, đi theo quá trình bồi tụ là sự sống của cây cỏ và các loài sinh vật. Vì vậy, không có gì ngạc nhiên khi nơi đây bạt ngàn rừng ngập mặn, tiếng lá cây và tiếng gió biển hoà quyện vào nhau trong một không gian thanh bình, yên ả.
Phải đến với Vườn Quốc gia Mũi Cà Mau mới thấy hết vẻ đẹp của những dãy rừng ngập mặn trù phú dọc theo bờ biển và bờ sông như những bức tường phòng hộ, chống gió, chống xói lở. Những loài cây ngập mặn tiên phong có tác dụng thúc đẩy quá trình lắng đọng phù sa, tích tụ mới ở biển. Điều kiện tự nhiên nơi đây cũng đã ngẫu nhiên tạo ra một môi trường sinh trưởng, phát triển lí tưởng cho các loài tôm cá và nhuyễn thể.
Mũi đất hướng ra biển
Nhìn trên bản đồ Việt Nam, mũi đất chỉ là một doi đất hơi nhọn hướng ra biển về phía tây, nhưng thực tế tại đây lại là một khoảng không gian rộng lớn, nơi đất mới bồi là một bãi sình lầy bằng phẳng, sâu trong đất liền là rừng được xanh ngút ngàn. Phải phóng tầm mắt thật xa mới thấy thấp thoáng xóm Đất Mũi nằm lẫn với rừng cây. Còn khi nhìn về phía biển trong cái nắng chói chang có thể thấy mờ mờ hình dáng Hòn Khoai ngoài khơi xa. Không những thế, từ vọng hải đài, phóng tầm mắt ra khoi quay mặt hứng luồng gió biển lồng lộng, hít thật sâu vào hai lá phổi, du khách tưởng chừng như ngửi được mùi cá, mùi muối đặc trưng của vùng nước mặn mà từ đó cảm thấy Tổ quốc mình thật gần gũi, mến yêu.
Đất Mũi được nhắc đến như một vùng đất thiêng liêng trong tâm thức người Việt Nam và trong đời, ai cũng ước một lần được đến. Nơi đây có hệ sinh thái rừng ngập mặn rất đa dạng và phong phú. Đến với Mũi Cà Mau, du khách được thăm cột mốc toạ độ quốc gia, ngắm rừng, ngắm biển, tham quan khu mô phỏng làng rừng kháng chiến; chụp hình dưới chân biểu tượng Mũi Cà Mau và được chiêm ngưỡng nhiều điều kì thú khi hoàng hôn buông xuống, ráng chiều ẩn hiện trên vùng trời biển bao la. Bên trái là biển Đông, bên phải là biển Tây, đứng ở Mũi Cà Mau, du khách như đang đứng trên mũi tàu khổng lồ của Tổ quốc rẽ sóng ra khơi.
(Theo Hỏi – đáp về những cánh rừng và vườn quốc gia Việt Nam, Đào Thị Luyến, Hoàng Trà My, Hoàng Lan Anh, NXB Quân đội nhân dân, 2009, tr. 178 – 181)
a. Mục đích viết của văn bản Nét đặc trưng của Vườn Quốc gia Mũi Cà Mau là gì? Những đặc điểm nào của văn bản đã giúp em nhận ra mục đích ấy?
b. Văn bản đã trình bày những thông tin cơ bản nào? Nhan đề của văn bản có mối quan hệ như thế nào với những thông tin cơ bản ấy?
c. Xác định cách trình bày thông tin của phần văn bản: “Quần thể động thực vật phong phú. phát triển lí tưởng cho các loài tôm cá và nhuyễn thể”. Tác dụng của cách trình bày thông tin ấy trong văn bản là gì?
d. Tìm ít nhất một chi tiết quan trọng mà tác giả đã sử dụng để làm rõ nét đặc trưng của Vườn Quốc gia Mũi Cà Mau. Em đánh giá như thế nào về vai trò của chi tiết ấy trong toàn văn bản?
đ. Xác định loại phương tiện phi ngôn ngữ được sử dụng trong văn bản và vai trò của chúng trong việc biểu đạt thông tin của văn bản.
e. Qua thông tin “Vườn Quốc gia Mũi Cà Mau chính là nơi bảo tồn “nguồn gen đặc hữu quý hiếm” với 22 loài thực vật ngập mặn đã được phát hiện”, em có suy nghĩ gì về trách nhiệm và vai trò của cá nhân trong việc bảo tồn các giá trị nổi bật của những khu vườn quốc gia?
Câu 2:
Theo em, khi viết văn thuyết minh về một danh lam thắng cảnh hay di tích lịch sử, người viết nên chọn trình bày thông tin theo (những) kiểu cấu trúc nào? Vì sao?
Câu 3:
Đọc văn bản và thực hiện các yêu cầu bên dưới:
CHUYỆN TRÒ VỀ THƠ VỚI HUY CẬN
Theo Phan Hoàng
Huy Cận là một trong những cây đại thụ hiếm hoi còn sót lại của phong trào Thơ mới. Vừa đặt chân đến Hà Nội, chúng tôi (sáu người trong đoàn nhà văn Thành phố Hồ Chí Minh) tham dự hội nghị công tác Nhà văn trẻ toàn quốc lần thứ IV, rời nhà khách Chính phủ để đến thắp hương cho nhà thơ Xuân Diệu và thăm nhà thơ Huy Cận. Buồn thay, nhà thơ Huy Cận vắng nhà. Nhưng rồi chúng tôi cũng đã được gặp ông trong hội nghị. Và ông đã dành riêng cho chúng tôi một cuộc chuyện trò thú vị về thơ.
[...]
– Cái tên Huy Cận không xa lạ gì đối với nền thi ca Việt Nam hiện đại. Nhưng để đi đến đỉnh cao vinh quang ấy, chàng Huy Cận bắt đầu từ đâu, thưa ông?
– Hồi nhỏ tôi rất thích thơ. Quê hương tôi lại là vùng có truyền thống văn nghệ. Tôi sinh năm 1919, tại làng An Phú thuộc huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh. Bố tôi là một ông đồ Nho đậu Tam trường, có biết tiếng Tây. Ông đi làm hương sư, sau chán, trở về quê cày ruộng và mở lớp dạy chữ Hán. Bố tôi rất mê văn chương, thuộc Truyện Kiều kinh khủng và hay bình Kiều. Mẹ tôi cũng mê Kiều và nể phục tài của chồng.
Còn cái làng tôi thì yêu văn nghệ vô cùng. Vào những đêm trăng thanh gió mát, nhất là vào mùa hè, thường là cả xóm kéo nhau ra bãi cát, gọi là bãi Giang, để hát dặm hát ví với nhau. Nam nữ thanh niên ứng khẩu những câu ví dặm rất hay, rất tình. Không khí thơ mộng chưa thấy ở bất cứ đâu. Và nhiều cuộc tình duyên cũng đã nảy nở, hình thành trong
hoàn cảnh ấy.
Nhà nghèo, nên tôi phải sớm vào Huế nhờ ông cậu nuôi ăn học. Lúc bấy giờ mới bảy tuổi, tôi chưa biết Kiều là gì. Nhưng đêm đêm, có ông quản gia nhà bà con với tôi nằm đọc Kiều sang sảng: “Đề huề lưng túi gió trăng/ Sau lưng theo một vài thằng con con...”. Tôi không biết “đề huề” là gì, “lưng túi” là gì, nhưng vẫn thấy rất hay.
Tất cả những cái đó làm cho mình đâm ra thích thơ, mặc dù tôi là thằng học sinh giỏi cả khoa học nhân văn lẫn khoa học tự nhiên, nhưng rất mê thơ.
– Ông bắt đầu làm thơ từ khi nào?
– Lúc học ở Huế, năm lớp nhất thành chung, mười ba tuổi, tôi làm những bài thơ đầu tiên. Năm đệ tam, mười sáu tuổi, tôi mới có thơ đăng báo ở Huế như Tràng An, Sông Hương,... Đến năm mười tám tuổi, thơ tôi đăng liên tiếp ở báo Ngày nay. Và tôi bắt đầu nổi tiếng từ đó.
– Là nhà thơ rất thành công về thể thơ lục bát, ông nghĩ gì về thể thơ này?
– Lục bát là thể thơ rất Việt Nam, như là hơi thở của giống nòi. Theo nhận định của một số nhà nghiên cứu, phê bình văn học thì thơ Việt Nam có ba giai đoạn lục bát: lục bát của ca dao, lục bát của Nguyễn Du và lục bát của Huy Cận. Còn lục bát khác cũng có nhiều cái hay, nhưng nó không hẳn thành ra một giai đoạn lục bát.
Tại sao tôi viết được lục bát như vậy? Trước tiên là mê Kiều. Nhưng mê Kiều thì cũng có nhiều người mê kia mà? Điều quan trọng là lục bát thấm vào tôi từ nhỏ với những bài ví dặm câu năm chữ xen những câu lục bát. Như bài Mẹ goá con côi cực hay:
Cực lòng mẹ quá con ôi
Đi thời thương tiếc phải ngồi nuôi con
Ru duyên hời, phận hỡi
Ru duyên hời, phận hỡi
Ru duyên hời, phận hỡi
Ru con ăn con nhởi
Ru non nước tình chung
Ru xuân hạ thu đông
Ru bốn mùa ơ tình cảnh
Bóng trăng lên xấp xách...
– Theo ông, lục bát Huy Cận khác gì lục bát Nguyễn Bính?
– Có loại lục bát vè. Có loại lục bát thơ. Lục bát của Nguyễn Bính và lục bát Huy Cận đều là lục bát thơ. Thơ lục bát của tôi cô đọng, đông đặc, nhưng không bí hiểm. So với Nguyễn Bính thì lục bát Huy Cận có phần cô đúc, sâu lắng hơn. Lục bát Nguyễn Bính gần với ca dao, có chất thơ.
– Ông nghĩ gì về lục bát của các nhà thơ hôm nay?
– Có nhiều bài lục bát tài tình đấy. Như Cây tre của Nguyễn Duy chẳng hạn. Kĩ thuật lục bát bây giờ của nhiều anh cũng tài cũng nhuyễn. Thế nhưng, để có cái hồn riêng của từng người thì thật khó.
– Nhà thơ bây giờ như “lá rụng mùa thu”, nhưng ít người có cái “riêng” chứ chưa nói là hay. Vậy theo ông, một nhà thơ trước hết cần tố chất gì?
– Tài năng. Anh bỏ hàng năm để làm một bài thơ, nhưng không có tài thì cũng hỏng. Nhưng tài năng thể hiện ở chỗ nào? Ở cảm xúc tổng thể, cảm xúc của trái tim, cảm xúc của cơ thể, cảm xúc của cả trí tuệ nữa, tức sự rung động về trí tuệ, vì nếu không thì anh làm xã luận, chứ không làm thơ được.
– Xin cảm ơn ông!
(In trong Phỏng vấn người Hà Nội, Phan Hoàng, NXB Trẻ, 2000)
a. Văn bản trên có phải là một bài phỏng vấn không? Dựa vào đâu em xác định như vậy?
b. Mục đích của văn bản này là gì? Hệ thống câu hỏi trong văn bản có giúp người phỏng vấn đạt được mục đích hay không? Vì sao?
c. Xác định những thông tin cơ bản của văn bản. Nhan đề Chuyện trò về thơ với Huy Cận đã khái quát được nội dung của toàn văn bản chưa? Giải thích suy nghĩ của em.
d. Có ý kiến cho rằng một người phỏng vấn giỏi phải biết ẩn mình khơi gợi, tạo cảm hứng cho nhân vật và người đọc. Theo em, người phỏng vấn trong văn bản trên đã đáp ứng được yêu cầu đó chưa? Phân tích một ví dụ để làm rõ ý kiến của em.
Câu 4:
Đọc văn bản sau và thực hiện yêu cầu bên dưới:
TĂNG CÔNG SUẤT NĂNG LƯỢNG SẠCH
ĐỂ “NÍU GIỮ” MỤC TIÊU KHÍ HẬU ĐẾN NĂM 2023
a. Phân tích tác dụng của việc sử dụng phối hợp giữa phương tiện ngôn ngữ và phi ngôn ngữ trong văn bản trên.
b. TTXVN là tên viết tắt của tổ chức nào?
Câu 5:
Có thể sử dụng những loại phương tiện phi ngôn ngữ nào để bài thuyết minh về một danh lam thắng cảnh hay một di tích lịch sử thêm phần hấp dẫn, thú vị?
Câu 6:
về câu hỏi!