Danh sách câu hỏi
Có 4,848 câu hỏi trên 97 trang
Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu:
NGỌC HOA ĐỐI MẶT VỚI BẠO CHÚA
(Trích Phạm Tải – Ngọc Hoa, khuyết danh)
Vua truyền nàng Ngọc đến đây,
Tức thì chỉ phán ra ngay một nhời:
“Chồng nàng ta hỏi đầu đuôi,
Quyết về giới hạnh, còn ngươi thế nào?
Ta nay quyền cả, ngôi cao,
Vì nàng một chút, tổn hao muôn nhời
Nghe vua nói hết khúc nhôi,
Nàng liền quỳ xuống mọi nhời liền tâu:
“Chúng tôi duyên bén cùng nhau,
Đức vua phán thế lấy đâu công bằng?
Nữ nhi phận phải chữ tòng,
Mặt trời lặn quả bóng trăng khôn vì.
Ví dù tôi chửa vu quy,
Vua thương nạp dụng, thế thì ai đương?
Nay tôi duyên kiếp cùng chàng,
Nỡ nào phụ nghĩa tạo khang cho đành?
Vua nay pháp luật công bình,
Thiên hạ thuận tình, thần quỷ vâng uy.
Cung tần mĩ nữ thiếu chi
Mà vua phải ép nữ nhi có chồng?
Dù vua xử ức má hồng
Thời tôi tự vẫn, khỏi lòng bội phu”
Nhời sao thảm thiết cay chua,
Làm cho ảo não, xót xa muôn phần!
(Kho tàng truyện Nôm khuyết danh, tập 1, Bùi Văn Vượng Chủ biên, NXB Văn học, Thành phố Hồ Chí Minh, 2000, tr. 28 – 29)
Nhân vật Trang Vương hiện lên như thế nào qua lời đối thoại?
Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu:
NGỌC HOA ĐỐI MẶT VỚI BẠO CHÚA
(Trích Phạm Tải – Ngọc Hoa, khuyết danh)
Vua truyền nàng Ngọc đến đây,
Tức thì chỉ phán ra ngay một nhời:
“Chồng nàng ta hỏi đầu đuôi,
Quyết về giới hạnh, còn ngươi thế nào?
Ta nay quyền cả, ngôi cao,
Vì nàng một chút, tổn hao muôn nhời
Nghe vua nói hết khúc nhôi,
Nàng liền quỳ xuống mọi nhời liền tâu:
“Chúng tôi duyên bén cùng nhau,
Đức vua phán thế lấy đâu công bằng?
Nữ nhi phận phải chữ tòng,
Mặt trời lặn quả bóng trăng khôn vì.
Ví dù tôi chửa vu quy,
Vua thương nạp dụng, thế thì ai đương?
Nay tôi duyên kiếp cùng chàng,
Nỡ nào phụ nghĩa tạo khang cho đành?
Vua nay pháp luật công bình,
Thiên hạ thuận tình, thần quỷ vâng uy.
Cung tần mĩ nữ thiếu chi
Mà vua phải ép nữ nhi có chồng?
Dù vua xử ức má hồng
Thời tôi tự vẫn, khỏi lòng bội phu”
Nhời sao thảm thiết cay chua,
Làm cho ảo não, xót xa muôn phần!
(Kho tàng truyện Nôm khuyết danh, tập 1, Bùi Văn Vượng Chủ biên, NXB Văn học, Thành phố Hồ Chí Minh, 2000, tr. 28 – 29)
Xác định lời của người kể chuyện và lời nhân vật trong đoạn trích.
Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu:
NGỌC HOA ĐỐI MẶT VỚI BẠO CHÚA
(Trích Phạm Tải – Ngọc Hoa, khuyết danh)
Vua truyền nàng Ngọc đến đây,
Tức thì chỉ phán ra ngay một nhời:
“Chồng nàng ta hỏi đầu đuôi,
Quyết về giới hạnh, còn ngươi thế nào?
Ta nay quyền cả, ngôi cao,
Vì nàng một chút, tổn hao muôn nhời
Nghe vua nói hết khúc nhôi,
Nàng liền quỳ xuống mọi nhời liền tâu:
“Chúng tôi duyên bén cùng nhau,
Đức vua phán thế lấy đâu công bằng?
Nữ nhi phận phải chữ tòng,
Mặt trời lặn quả bóng trăng khôn vì.
Ví dù tôi chửa vu quy,
Vua thương nạp dụng, thế thì ai đương?
Nay tôi duyên kiếp cùng chàng,
Nỡ nào phụ nghĩa tạo khang cho đành?
Vua nay pháp luật công bình,
Thiên hạ thuận tình, thần quỷ vâng uy.
Cung tần mĩ nữ thiếu chi
Mà vua phải ép nữ nhi có chồng?
Dù vua xử ức má hồng
Thời tôi tự vẫn, khỏi lòng bội phu”
Nhời sao thảm thiết cay chua,
Làm cho ảo não, xót xa muôn phần!
(Kho tàng truyện Nôm khuyết danh, tập 1, Bùi Văn Vượng Chủ biên, NXB Văn học, Thành phố Hồ Chí Minh, 2000, tr. 28 – 29)
Tóm tắt sự việc được kể trong đoạn trích.
Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu:
KIỀU NGUYỆT NGA CẢM TẠ LỤC VÂN TIÊN
Thưa rằng: “Tiện thiếp đi đường,
Chẳng hay quân tử quê hương nơi nào?
Phút nghe lời nói thanh tao,
Vân Tiên hả nỡ lòng nào phui pha
“Đông Thành vốn thiệt quê ta,
Họ là Lục thị tên là Vân Tiên”
Nguyệt Nga vốn đấng thuyền quyên
Tai nghe lời nói tay liền rút trâm.
Thưa rằng: “Nay gặp tri âm,
Xin đưa một vật để cầm làm tin”.
Vân Tiên ngơ mặt chẳng nhìn,
Nguyệt Nga liếc thấy lòng thìn nết na
“Vật chi một chút gọi là,
Thiếp thưa chưa dứt chàng đà làm ngơ.
Của này là của vất vơ,
Lòng chê cũng phải mặt ngơ sao đành”
Vân Tiên khó nỗi làm thinh,
Chữ ân buộc lại chữ tình lây dây”.
Than rằng: “Đó khéo trêu đây,
Ơn kia đã mấy của nầy rất sang.
Đương khi gặp gỡ giữa đàng,
Một lời cũng nhớ ngàn vàng chẳng phai.
Nhớ câu trọng nghĩa khinh tài,
Nào ai chịu lấy của ai làm gì”.
Thưa rằng: “Chút phận nữ nhi,
Vốn chưa biết lẽ có khi mất lòng.
Ai dè những đấng anh hùng,
Thấy trâm thôi lại thẹn thùng cùng trâm
Riêng than: “Trâm hỡi là trâm,
Vô duyên chi bấy ai cầm mà mơ.
Đưa trâm chàng đã làm ngơ,
Thiếp xin đưa một bài thơ giã từ
[...]
Vân Tiên từ giã phản hồi,
Nguyệt Nga than thở: “Tình ôi là tình!
Nghĩ mình mà ngán cho mình,
Nỗi ân chưa trả nỗi tình lại vương.
Nặng nề hai chữ uyên ương,
Chuỗi sầu ai khéo vấn vương vào lòng.
Nguyện cùng Nguyệt lão hỡi ông,
Trăm năm cho vẹn chữ tòng mới an.
Hữu tình chi bấy Ngưu Lang,
Tấm lòng Chức Nữ vì chàng mà nghiêng.
Thôi thôi em hỡi Kim Liên,
Đẩy xe cho chị qua miền Hà Khê”.
(Theo Nguyễn Đình Chiểu toàn tập, tập I, NXB Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, 1980, tr. 100 – 102)
Xác định và nêu tác dụng của biện pháp tu từ được sử dụng trong câu thơ in đậm:
Nặng nề hai chữ uyên ương,
Chuỗi sầu ai khéo vấn vương vào lòng.
Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu:
KIỀU NGUYỆT NGA CẢM TẠ LỤC VÂN TIÊN
Thưa rằng: “Tiện thiếp đi đường,
Chẳng hay quân tử quê hương nơi nào?
Phút nghe lời nói thanh tao,
Vân Tiên hả nỡ lòng nào phui pha
“Đông Thành vốn thiệt quê ta,
Họ là Lục thị tên là Vân Tiên”
Nguyệt Nga vốn đấng thuyền quyên
Tai nghe lời nói tay liền rút trâm.
Thưa rằng: “Nay gặp tri âm,
Xin đưa một vật để cầm làm tin”.
Vân Tiên ngơ mặt chẳng nhìn,
Nguyệt Nga liếc thấy lòng thìn nết na
“Vật chi một chút gọi là,
Thiếp thưa chưa dứt chàng đà làm ngơ.
Của này là của vất vơ,
Lòng chê cũng phải mặt ngơ sao đành”
Vân Tiên khó nỗi làm thinh,
Chữ ân buộc lại chữ tình lây dây”.
Than rằng: “Đó khéo trêu đây,
Ơn kia đã mấy của nầy rất sang.
Đương khi gặp gỡ giữa đàng,
Một lời cũng nhớ ngàn vàng chẳng phai.
Nhớ câu trọng nghĩa khinh tài,
Nào ai chịu lấy của ai làm gì”.
Thưa rằng: “Chút phận nữ nhi,
Vốn chưa biết lẽ có khi mất lòng.
Ai dè những đấng anh hùng,
Thấy trâm thôi lại thẹn thùng cùng trâm
Riêng than: “Trâm hỡi là trâm,
Vô duyên chi bấy ai cầm mà mơ.
Đưa trâm chàng đã làm ngơ,
Thiếp xin đưa một bài thơ giã từ
[...]
Vân Tiên từ giã phản hồi,
Nguyệt Nga than thở: “Tình ôi là tình!
Nghĩ mình mà ngán cho mình,
Nỗi ân chưa trả nỗi tình lại vương.
Nặng nề hai chữ uyên ương,
Chuỗi sầu ai khéo vấn vương vào lòng.
Nguyện cùng Nguyệt lão hỡi ông,
Trăm năm cho vẹn chữ tòng mới an.
Hữu tình chi bấy Ngưu Lang,
Tấm lòng Chức Nữ vì chàng mà nghiêng.
Thôi thôi em hỡi Kim Liên,
Đẩy xe cho chị qua miền Hà Khê”.
(Theo Nguyễn Đình Chiểu toàn tập, tập I, NXB Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, 1980, tr. 100 – 102)
Nhận xét về nghệ thuật xây dựng nhân vật của tác giả trong đoạn trích.
Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu:
KIỀU NGUYỆT NGA CẢM TẠ LỤC VÂN TIÊN
Thưa rằng: “Tiện thiếp đi đường,
Chẳng hay quân tử quê hương nơi nào?
Phút nghe lời nói thanh tao,
Vân Tiên hả nỡ lòng nào phui pha
“Đông Thành vốn thiệt quê ta,
Họ là Lục thị tên là Vân Tiên”
Nguyệt Nga vốn đấng thuyền quyên
Tai nghe lời nói tay liền rút trâm.
Thưa rằng: “Nay gặp tri âm,
Xin đưa một vật để cầm làm tin”.
Vân Tiên ngơ mặt chẳng nhìn,
Nguyệt Nga liếc thấy lòng thìn nết na
“Vật chi một chút gọi là,
Thiếp thưa chưa dứt chàng đà làm ngơ.
Của này là của vất vơ,
Lòng chê cũng phải mặt ngơ sao đành”
Vân Tiên khó nỗi làm thinh,
Chữ ân buộc lại chữ tình lây dây”.
Than rằng: “Đó khéo trêu đây,
Ơn kia đã mấy của nầy rất sang.
Đương khi gặp gỡ giữa đàng,
Một lời cũng nhớ ngàn vàng chẳng phai.
Nhớ câu trọng nghĩa khinh tài,
Nào ai chịu lấy của ai làm gì”.
Thưa rằng: “Chút phận nữ nhi,
Vốn chưa biết lẽ có khi mất lòng.
Ai dè những đấng anh hùng,
Thấy trâm thôi lại thẹn thùng cùng trâm
Riêng than: “Trâm hỡi là trâm,
Vô duyên chi bấy ai cầm mà mơ.
Đưa trâm chàng đã làm ngơ,
Thiếp xin đưa một bài thơ giã từ
[...]
Vân Tiên từ giã phản hồi,
Nguyệt Nga than thở: “Tình ôi là tình!
Nghĩ mình mà ngán cho mình,
Nỗi ân chưa trả nỗi tình lại vương.
Nặng nề hai chữ uyên ương,
Chuỗi sầu ai khéo vấn vương vào lòng.
Nguyện cùng Nguyệt lão hỡi ông,
Trăm năm cho vẹn chữ tòng mới an.
Hữu tình chi bấy Ngưu Lang,
Tấm lòng Chức Nữ vì chàng mà nghiêng.
Thôi thôi em hỡi Kim Liên,
Đẩy xe cho chị qua miền Hà Khê”.
(Theo Nguyễn Đình Chiểu toàn tập, tập I, NXB Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, 1980, tr. 100 – 102)
Phân tích diễn biến tâm trạng của nhân vật Kiều Nguyệt Nga được thể hiện trong 12 dòng thơ cuối.
Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu:
KIỀU NGUYỆT NGA CẢM TẠ LỤC VÂN TIÊN
Thưa rằng: “Tiện thiếp đi đường,
Chẳng hay quân tử quê hương nơi nào?
Phút nghe lời nói thanh tao,
Vân Tiên hả nỡ lòng nào phui pha
“Đông Thành vốn thiệt quê ta,
Họ là Lục thị tên là Vân Tiên”
Nguyệt Nga vốn đấng thuyền quyên
Tai nghe lời nói tay liền rút trâm.
Thưa rằng: “Nay gặp tri âm,
Xin đưa một vật để cầm làm tin”.
Vân Tiên ngơ mặt chẳng nhìn,
Nguyệt Nga liếc thấy lòng thìn nết na
“Vật chi một chút gọi là,
Thiếp thưa chưa dứt chàng đà làm ngơ.
Của này là của vất vơ,
Lòng chê cũng phải mặt ngơ sao đành”
Vân Tiên khó nỗi làm thinh,
Chữ ân buộc lại chữ tình lây dây”.
Than rằng: “Đó khéo trêu đây,
Ơn kia đã mấy của nầy rất sang.
Đương khi gặp gỡ giữa đàng,
Một lời cũng nhớ ngàn vàng chẳng phai.
Nhớ câu trọng nghĩa khinh tài,
Nào ai chịu lấy của ai làm gì”.
Thưa rằng: “Chút phận nữ nhi,
Vốn chưa biết lẽ có khi mất lòng.
Ai dè những đấng anh hùng,
Thấy trâm thôi lại thẹn thùng cùng trâm
Riêng than: “Trâm hỡi là trâm,
Vô duyên chi bấy ai cầm mà mơ.
Đưa trâm chàng đã làm ngơ,
Thiếp xin đưa một bài thơ giã từ
[...]
Vân Tiên từ giã phản hồi,
Nguyệt Nga than thở: “Tình ôi là tình!
Nghĩ mình mà ngán cho mình,
Nỗi ân chưa trả nỗi tình lại vương.
Nặng nề hai chữ uyên ương,
Chuỗi sầu ai khéo vấn vương vào lòng.
Nguyện cùng Nguyệt lão hỡi ông,
Trăm năm cho vẹn chữ tòng mới an.
Hữu tình chi bấy Ngưu Lang,
Tấm lòng Chức Nữ vì chàng mà nghiêng.
Thôi thôi em hỡi Kim Liên,
Đẩy xe cho chị qua miền Hà Khê”.
(Theo Nguyễn Đình Chiểu toàn tập, tập I, NXB Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, 1980, tr. 100 – 102)
Trong đoạn trích, nhân vật Lục Vân Tiên chủ yếu được khắc hoạ bằng các chi tiết nào? Ấn tượng nổi bật của em về nhân vật là gì?
Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu:
KIỀU NGUYỆT NGA CẢM TẠ LỤC VÂN TIÊN
Thưa rằng: “Tiện thiếp đi đường,
Chẳng hay quân tử quê hương nơi nào?
Phút nghe lời nói thanh tao,
Vân Tiên hả nỡ lòng nào phui pha
“Đông Thành vốn thiệt quê ta,
Họ là Lục thị tên là Vân Tiên”
Nguyệt Nga vốn đấng thuyền quyên
Tai nghe lời nói tay liền rút trâm.
Thưa rằng: “Nay gặp tri âm,
Xin đưa một vật để cầm làm tin”.
Vân Tiên ngơ mặt chẳng nhìn,
Nguyệt Nga liếc thấy lòng thìn nết na
“Vật chi một chút gọi là,
Thiếp thưa chưa dứt chàng đà làm ngơ.
Của này là của vất vơ,
Lòng chê cũng phải mặt ngơ sao đành”
Vân Tiên khó nỗi làm thinh,
Chữ ân buộc lại chữ tình lây dây”.
Than rằng: “Đó khéo trêu đây,
Ơn kia đã mấy của nầy rất sang.
Đương khi gặp gỡ giữa đàng,
Một lời cũng nhớ ngàn vàng chẳng phai.
Nhớ câu trọng nghĩa khinh tài,
Nào ai chịu lấy của ai làm gì”.
Thưa rằng: “Chút phận nữ nhi,
Vốn chưa biết lẽ có khi mất lòng.
Ai dè những đấng anh hùng,
Thấy trâm thôi lại thẹn thùng cùng trâm
Riêng than: “Trâm hỡi là trâm,
Vô duyên chi bấy ai cầm mà mơ.
Đưa trâm chàng đã làm ngơ,
Thiếp xin đưa một bài thơ giã từ
[...]
Vân Tiên từ giã phản hồi,
Nguyệt Nga than thở: “Tình ôi là tình!
Nghĩ mình mà ngán cho mình,
Nỗi ân chưa trả nỗi tình lại vương.
Nặng nề hai chữ uyên ương,
Chuỗi sầu ai khéo vấn vương vào lòng.
Nguyện cùng Nguyệt lão hỡi ông,
Trăm năm cho vẹn chữ tòng mới an.
Hữu tình chi bấy Ngưu Lang,
Tấm lòng Chức Nữ vì chàng mà nghiêng.
Thôi thôi em hỡi Kim Liên,
Đẩy xe cho chị qua miền Hà Khê”.
(Theo Nguyễn Đình Chiểu toàn tập, tập I, NXB Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, 1980, tr. 100 – 102)
Kẻ bảng (vào vở) theo mẫu sau và điền thông tin phù hợp vào các ô trống:
LỜI NHÂN VẬT KIỀU NGUYỆT NGA
STT
Lời đối thoại
Lời độc thoại
1
…
…
Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu:
KIỀU NGUYỆT NGA CẢM TẠ LỤC VÂN TIÊN
Thưa rằng: “Tiện thiếp đi đường,
Chẳng hay quân tử quê hương nơi nào?
Phút nghe lời nói thanh tao,
Vân Tiên hả nỡ lòng nào phui pha
“Đông Thành vốn thiệt quê ta,
Họ là Lục thị tên là Vân Tiên”
Nguyệt Nga vốn đấng thuyền quyên
Tai nghe lời nói tay liền rút trâm.
Thưa rằng: “Nay gặp tri âm,
Xin đưa một vật để cầm làm tin”.
Vân Tiên ngơ mặt chẳng nhìn,
Nguyệt Nga liếc thấy lòng thìn nết na
“Vật chi một chút gọi là,
Thiếp thưa chưa dứt chàng đà làm ngơ.
Của này là của vất vơ,
Lòng chê cũng phải mặt ngơ sao đành”
Vân Tiên khó nỗi làm thinh,
Chữ ân buộc lại chữ tình lây dây”.
Than rằng: “Đó khéo trêu đây,
Ơn kia đã mấy của nầy rất sang.
Đương khi gặp gỡ giữa đàng,
Một lời cũng nhớ ngàn vàng chẳng phai.
Nhớ câu trọng nghĩa khinh tài,
Nào ai chịu lấy của ai làm gì”.
Thưa rằng: “Chút phận nữ nhi,
Vốn chưa biết lẽ có khi mất lòng.
Ai dè những đấng anh hùng,
Thấy trâm thôi lại thẹn thùng cùng trâm
Riêng than: “Trâm hỡi là trâm,
Vô duyên chi bấy ai cầm mà mơ.
Đưa trâm chàng đã làm ngơ,
Thiếp xin đưa một bài thơ giã từ
[...]
Vân Tiên từ giã phản hồi,
Nguyệt Nga than thở: “Tình ôi là tình!
Nghĩ mình mà ngán cho mình,
Nỗi ân chưa trả nỗi tình lại vương.
Nặng nề hai chữ uyên ương,
Chuỗi sầu ai khéo vấn vương vào lòng.
Nguyện cùng Nguyệt lão hỡi ông,
Trăm năm cho vẹn chữ tòng mới an.
Hữu tình chi bấy Ngưu Lang,
Tấm lòng Chức Nữ vì chàng mà nghiêng.
Thôi thôi em hỡi Kim Liên,
Đẩy xe cho chị qua miền Hà Khê”.
(Theo Nguyễn Đình Chiểu toàn tập, tập I, NXB Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, 1980, tr. 100 – 102)
Hãy chỉ ra đâu là lời người kể chuyện, đâu là lời nhân vật.
Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu:
KIỀU NGUYỆT NGA CẢM TẠ LỤC VÂN TIÊN
Thưa rằng: “Tiện thiếp đi đường,
Chẳng hay quân tử quê hương nơi nào?
Phút nghe lời nói thanh tao,
Vân Tiên hả nỡ lòng nào phui pha
“Đông Thành vốn thiệt quê ta,
Họ là Lục thị tên là Vân Tiên”
Nguyệt Nga vốn đấng thuyền quyên
Tai nghe lời nói tay liền rút trâm.
Thưa rằng: “Nay gặp tri âm,
Xin đưa một vật để cầm làm tin”.
Vân Tiên ngơ mặt chẳng nhìn,
Nguyệt Nga liếc thấy lòng thìn nết na
“Vật chi một chút gọi là,
Thiếp thưa chưa dứt chàng đà làm ngơ.
Của này là của vất vơ,
Lòng chê cũng phải mặt ngơ sao đành”
Vân Tiên khó nỗi làm thinh,
Chữ ân buộc lại chữ tình lây dây”.
Than rằng: “Đó khéo trêu đây,
Ơn kia đã mấy của nầy rất sang.
Đương khi gặp gỡ giữa đàng,
Một lời cũng nhớ ngàn vàng chẳng phai.
Nhớ câu trọng nghĩa khinh tài,
Nào ai chịu lấy của ai làm gì”.
Thưa rằng: “Chút phận nữ nhi,
Vốn chưa biết lẽ có khi mất lòng.
Ai dè những đấng anh hùng,
Thấy trâm thôi lại thẹn thùng cùng trâm
Riêng than: “Trâm hỡi là trâm,
Vô duyên chi bấy ai cầm mà mơ.
Đưa trâm chàng đã làm ngơ,
Thiếp xin đưa một bài thơ giã từ
[...]
Vân Tiên từ giã phản hồi,
Nguyệt Nga than thở: “Tình ôi là tình!
Nghĩ mình mà ngán cho mình,
Nỗi ân chưa trả nỗi tình lại vương.
Nặng nề hai chữ uyên ương,
Chuỗi sầu ai khéo vấn vương vào lòng.
Nguyện cùng Nguyệt lão hỡi ông,
Trăm năm cho vẹn chữ tòng mới an.
Hữu tình chi bấy Ngưu Lang,
Tấm lòng Chức Nữ vì chàng mà nghiêng.
Thôi thôi em hỡi Kim Liên,
Đẩy xe cho chị qua miền Hà Khê”.
(Theo Nguyễn Đình Chiểu toàn tập, tập I, NXB Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, 1980, tr. 100 – 102)
Tóm tắt nội dung của đoạn trích.
Đọc văn bản sau và trả lời các câu hỏi:
ĐAU LÒNG LŨ LỤT MIỀN TRUNG
Mưa giăng mắc nỗi buồn nhân thế
Mờ chân mây dâu bể đón đưa
Ai làm bão tố gió mưa
Đời chan nước mắt, héo dựa kiếp người!
Ngày rát mặt, ngang trời mưa đổ
Đêm giá băng sương nhỏ lệ rơi
Mây đen nỡ kín mặt người
Sinh linh chết đứng giữa trời nước non!
Nghe gió thổi lòng cồn bão tố
Tiếng mưa rơi thác đổ ngàn xa
Lũ ơi, sấp ngửa ập òa
Nước ơi, trắng xoá lệ nhoà bóng quê
Mưa gấp khúc đường về nẻo cũ
Bong bóng trôi theo lũ cuốn đê
Bàn tay kêu cứu – tái tê
Thò qua mái ngói bốn bề nước trôi!
Nhìn trẻ nhỏ màn trời chiếu nước
Các cụ già rét mướt tái xanh
Cuộc đời lúc rách lúc lành
Người mình chia sẻ đã thành bản năng!
Cùng một bọc, chung cành chung gốc
Nào cùng chia bão lốc gió sương
“Nhiễu điều phủ lấy giá gương...”
(Phạm Ngọc San, Chạng vạng hoa đèn, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội,
2011, tr. 79 – 80)
Tình cảnh của những người dân sống giữa thiên tai được thể hiện trong bài thơ gợi cho em cảm xúc, suy nghĩ gì?
Đọc văn bản sau và trả lời các câu hỏi:
ĐAU LÒNG LŨ LỤT MIỀN TRUNG
Mưa giăng mắc nỗi buồn nhân thế
Mờ chân mây dâu bể đón đưa
Ai làm bão tố gió mưa
Đời chan nước mắt, héo dựa kiếp người!
Ngày rát mặt, ngang trời mưa đổ
Đêm giá băng sương nhỏ lệ rơi
Mây đen nỡ kín mặt người
Sinh linh chết đứng giữa trời nước non!
Nghe gió thổi lòng cồn bão tố
Tiếng mưa rơi thác đổ ngàn xa
Lũ ơi, sấp ngửa ập òa
Nước ơi, trắng xoá lệ nhoà bóng quê
Mưa gấp khúc đường về nẻo cũ
Bong bóng trôi theo lũ cuốn đê
Bàn tay kêu cứu – tái tê
Thò qua mái ngói bốn bề nước trôi!
Nhìn trẻ nhỏ màn trời chiếu nước
Các cụ già rét mướt tái xanh
Cuộc đời lúc rách lúc lành
Người mình chia sẻ đã thành bản năng!
Cùng một bọc, chung cành chung gốc
Nào cùng chia bão lốc gió sương
“Nhiễu điều phủ lấy giá gương...”
(Phạm Ngọc San, Chạng vạng hoa đèn, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội,
2011, tr. 79 – 80)
Theo em, khổ thơ cuối chỉ có 3 câu thơ thể hiện điều gì?
Đọc văn bản sau và trả lời các câu hỏi:
ĐAU LÒNG LŨ LỤT MIỀN TRUNG
Mưa giăng mắc nỗi buồn nhân thế
Mờ chân mây dâu bể đón đưa
Ai làm bão tố gió mưa
Đời chan nước mắt, héo dựa kiếp người!
Ngày rát mặt, ngang trời mưa đổ
Đêm giá băng sương nhỏ lệ rơi
Mây đen nỡ kín mặt người
Sinh linh chết đứng giữa trời nước non!
Nghe gió thổi lòng cồn bão tố
Tiếng mưa rơi thác đổ ngàn xa
Lũ ơi, sấp ngửa ập òa
Nước ơi, trắng xoá lệ nhoà bóng quê
Mưa gấp khúc đường về nẻo cũ
Bong bóng trôi theo lũ cuốn đê
Bàn tay kêu cứu – tái tê
Thò qua mái ngói bốn bề nước trôi!
Nhìn trẻ nhỏ màn trời chiếu nước
Các cụ già rét mướt tái xanh
Cuộc đời lúc rách lúc lành
Người mình chia sẻ đã thành bản năng!
Cùng một bọc, chung cành chung gốc
Nào cùng chia bão lốc gió sương
“Nhiễu điều phủ lấy giá gương...”
(Phạm Ngọc San, Chạng vạng hoa đèn, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội,
2011, tr. 79 – 80)
Cụm từ cùng một bọc khiến người đọc liên hệ tới câu chuyện nào? Việc gợi nhắc câu chuyện đó trong bài thơ có ý nghĩa gì?
Đọc văn bản sau và trả lời các câu hỏi:
ĐAU LÒNG LŨ LỤT MIỀN TRUNG
Mưa giăng mắc nỗi buồn nhân thế
Mờ chân mây dâu bể đón đưa
Ai làm bão tố gió mưa
Đời chan nước mắt, héo dựa kiếp người!
Ngày rát mặt, ngang trời mưa đổ
Đêm giá băng sương nhỏ lệ rơi
Mây đen nỡ kín mặt người
Sinh linh chết đứng giữa trời nước non!
Nghe gió thổi lòng cồn bão tố
Tiếng mưa rơi thác đổ ngàn xa
Lũ ơi, sấp ngửa ập òa
Nước ơi, trắng xoá lệ nhoà bóng quê
Mưa gấp khúc đường về nẻo cũ
Bong bóng trôi theo lũ cuốn đê
Bàn tay kêu cứu – tái tê
Thò qua mái ngói bốn bề nước trôi!
Nhìn trẻ nhỏ màn trời chiếu nước
Các cụ già rét mướt tái xanh
Cuộc đời lúc rách lúc lành
Người mình chia sẻ đã thành bản năng!
Cùng một bọc, chung cành chung gốc
Nào cùng chia bão lốc gió sương
“Nhiễu điều phủ lấy giá gương...”
(Phạm Ngọc San, Chạng vạng hoa đèn, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội,
2011, tr. 79 – 80)
Câu thơ “Mây đen nỡ kín mặt người” diễn tả điều gì?
Đọc văn bản sau và trả lời các câu hỏi:
ĐAU LÒNG LŨ LỤT MIỀN TRUNG
Mưa giăng mắc nỗi buồn nhân thế
Mờ chân mây dâu bể đón đưa
Ai làm bão tố gió mưa
Đời chan nước mắt, héo dựa kiếp người!
Ngày rát mặt, ngang trời mưa đổ
Đêm giá băng sương nhỏ lệ rơi
Mây đen nỡ kín mặt người
Sinh linh chết đứng giữa trời nước non!
Nghe gió thổi lòng cồn bão tố
Tiếng mưa rơi thác đổ ngàn xa
Lũ ơi, sấp ngửa ập òa
Nước ơi, trắng xoá lệ nhoà bóng quê
Mưa gấp khúc đường về nẻo cũ
Bong bóng trôi theo lũ cuốn đê
Bàn tay kêu cứu – tái tê
Thò qua mái ngói bốn bề nước trôi!
Nhìn trẻ nhỏ màn trời chiếu nước
Các cụ già rét mướt tái xanh
Cuộc đời lúc rách lúc lành
Người mình chia sẻ đã thành bản năng!
Cùng một bọc, chung cành chung gốc
Nào cùng chia bão lốc gió sương
“Nhiễu điều phủ lấy giá gương...”
(Phạm Ngọc San, Chạng vạng hoa đèn, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội,
2011, tr. 79 – 80)
Những từ ngữ nào trong bài thơ cho thấy lũ lụt ở miền Trung là một thiên tai nghiêm trọng?
Đọc văn bản sau và trả lời các câu hỏi:
ĐAU LÒNG LŨ LỤT MIỀN TRUNG
Mưa giăng mắc nỗi buồn nhân thế
Mờ chân mây dâu bể đón đưa
Ai làm bão tố gió mưa
Đời chan nước mắt, héo dựa kiếp người!
Ngày rát mặt, ngang trời mưa đổ
Đêm giá băng sương nhỏ lệ rơi
Mây đen nỡ kín mặt người
Sinh linh chết đứng giữa trời nước non!
Nghe gió thổi lòng cồn bão tố
Tiếng mưa rơi thác đổ ngàn xa
Lũ ơi, sấp ngửa ập òa
Nước ơi, trắng xoá lệ nhoà bóng quê
Mưa gấp khúc đường về nẻo cũ
Bong bóng trôi theo lũ cuốn đê
Bàn tay kêu cứu – tái tê
Thò qua mái ngói bốn bề nước trôi!
Nhìn trẻ nhỏ màn trời chiếu nước
Các cụ già rét mướt tái xanh
Cuộc đời lúc rách lúc lành
Người mình chia sẻ đã thành bản năng!
Cùng một bọc, chung cành chung gốc
Nào cùng chia bão lốc gió sương
“Nhiễu điều phủ lấy giá gương...”
(Phạm Ngọc San, Chạng vạng hoa đèn, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội,
2011, tr. 79 – 80)
Bố cục của bài thơ gồm mấy phần? Nêu nội dung chính của từng phần.