Câu hỏi:
24/09/2024 3,552
I. PHẦN ĐỌC HIỂU (4,0 điểm)
Đọc văn bản sau:
TIẾC THƯƠNG SINH THÁI
(1) [...] Cụm từ “tiếc thương sinh thái” xuất hiện lần đầu trong một bài viết vào năm 2018 của hai nhà khoa học xã hội Ashlee Cunsolo và Neville R. Ellis, trong đó họ định nghĩa tiếc thương sinh thái là nỗi đau khổ trước những mất mát về sinh thái mà con người hoặc là đã trải qua, hoặc là tin rằng đang ở phía trước. Những mất mát này có thể đa dạng, ví dụ như sự biến mất của các loài sinh vật hay sự thay đổi ở các cảnh quan quan trọng đối với đời sống tinh thần, song điểm chung là chúng đều do biến đổi khí hậu gây ra và đều khiến tâm trí con người phản ứng tương tự như khi mất người thân. Theo Cunsolo và Ellis, tiếc thương sinh thái là một phản ứng có thể đoán trước được, nhất là ở những cộng đồng vẫn còn sinh sống, làm việc và giữ các mối quan hệ văn hoa mật thiết với môi trường tự nhiên. Hai tác giả này đưa ra hai trường hợp cụ thể: những người Inuit ở miền Bắc Canada và những người làm nghề trồng trọt ở Australia. Lúc được hỏi về sự thay đổi môi trường chóng vánh ở nơi mình sống, cả hai cộng đồng này đều có chung những cảm xúc như nỗi thất vọng, u sầu, hay thậm chí là ý nghĩ muốn tự sát, mặc dù họ sinh sống ở hai nơi hoàn toàn khác nhau về mặt địa lí, phong tục tập quán, và còn bị ảnh hưởng bởi các loại thiên tai hoàn toàn khác nhau.
(2) [...] Như bất kì vấn đề sức khoẻ tâm thần nào khác, nỗi tiếc thương sinh thái ăn sâu vào tâm trí một người và thường xuyên đẩy họ vào trạng thái khủng hoảng hiện sinh. Cunsolo và Ellis ghi nhận câu trả lời của một người Inuit như sau: “Inuit là dân tộc băng biển. Băng biển không còn, làm sao chúng tôi còn là dân tộc băng biển được nữa?”. Và những cảm xúc như vậy thực sự cũng chẳng còn xa lạ gì nữa: khi rừng Amazon bốc cháy năm 2019, các tộc người bản địa ở Brazil như người Tenharim, người Guató và người Guarani đều đã nói rằng họ đang mất hết tất cả và khó có thể gìn giữ được truyền thống văn hoá của mình khi mà cảnh rừng quê hương đang bốc cháy ngùn ngụt. [...] Có thể thấy, đối với người ở nơi “tiền tuyến” của biến đổi khí hậu – cho dù là cộng đồng địa phương hay là các nhà nghiên cứu thực địa, việc chứng kiến và cảm nhận trực tiếp hậu quả của biến đổi khí hậu đã để lại tác động tâm lí nghiêm trọng, bởi những người này đã lâu ngày gần gũi và gắn bó với môi trường đang bị huỷ hoại [...].
(3) Tiếc thay, sau hàng thập kỉ biết đến mối nguy hại của biến đổi khí hậu, nỗi tiếc thương sinh thái đã bắt đầu ảnh hưởng tới cả người ở hậu phương. Tháng 12/ 2021, Caroline Hickman và cộng sự công bố một cuộc thăm dò về cảm xúc trước biến đổi khí hậu của 1 000 trẻ em và thanh thiếu niên từ mỗi quốc gia trong tổng số 10 nước Anh, Australia, Ấn Độ, Bồ Đào Nha, Brazil, Hoa Kì, Nigeria, Pháp, Phần Lan và Philippines. Trong số những người được hỏi, 59% thấy “rất hoặc cực kì lo” về biến đổi khí hậu, và 45% thừa nhận rằng cảm xúc của họ về biến đổi khí hậu có ảnh hưởng tiêu cực đến cuộc sống thường ngày. [...] Nỗi lo về biến đổi khí hậu và sự chấp nhận tận thế đang cận kề đều là các cảm xúc không hiếm gặp ở những người trẻ ngày nay, nhất là kể từ khi đại dịch COVID-19 bắt đầu.
(4) Tiếc thương sinh thái và các cảm xúc khác do biến đổi khí hậu quả thật đều là các hiện tượng hoàn toàn mới của thế kỉ XXI, song chúng vẫn để lại tác động muôn hình vạn trạng. Như đã thảo luận ở phần trên, những người chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của những cảm xúc mới này bao gồm các cộng đồng người bản địa, các nhà khoa học thực địa nghiên cứu ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, cùng với các thế hệ trẻ sinh ra và lớn lên trong một thế giới nơi sự nhận thức về biến đổi khí hậu đã thẩm thấu vào lời ăn tiếng nói hằng ngày. Ngoài ra, trong một
thế giới nơi những cộng đồng bên lề xã hội thường phải sống ở những địa điểm có nguy cơ bị biến đổi khí hậu huỷ diệt cao hơn, chúng ta cũng phải đề cập tới cả những người nghèo, những người da màu,... Có thể thấy, ảnh hưởng về sức khoẻ tâm thần của biến đổi khí hậu đã lan rộng ra cả nhân loại, chứ không còn là một vấn đề của một vài cá nhân nhất định nữa.
(5) [...] Tình trạng biến đổi khí hậu do con người đang để lại hậu quả ở cả cấp vi mô và vĩ mô, trên cả phương diện vật chất lẫn tinh thần. Nếu ở loài thằn lằn anole nâu, màng chân của chúng đang tiến hoả với tốc độ chóng mặt để thích ứng với những mùa bão ngày càng khắc nghiệt, thì ở con người, tâm lí của chúng ta cũng đang biến thiên nhanh không kém, dẫn đến những vấn đề sức khoẻ tâm thần mà người ở các thế kỉ trước sẽ chẳng thể nào đồng cảm được.
(Nguyễn Bình, Báo điện tử Tia sáng, 25-01-2022)
Hiện tượng “tiếc thương sinh thái” là gì?
I. PHẦN ĐỌC HIỂU (4,0 điểm)
Đọc văn bản sau:
TIẾC THƯƠNG SINH THÁI
(1) [...] Cụm từ “tiếc thương sinh thái” xuất hiện lần đầu trong một bài viết vào năm 2018 của hai nhà khoa học xã hội Ashlee Cunsolo và Neville R. Ellis, trong đó họ định nghĩa tiếc thương sinh thái là nỗi đau khổ trước những mất mát về sinh thái mà con người hoặc là đã trải qua, hoặc là tin rằng đang ở phía trước. Những mất mát này có thể đa dạng, ví dụ như sự biến mất của các loài sinh vật hay sự thay đổi ở các cảnh quan quan trọng đối với đời sống tinh thần, song điểm chung là chúng đều do biến đổi khí hậu gây ra và đều khiến tâm trí con người phản ứng tương tự như khi mất người thân. Theo Cunsolo và Ellis, tiếc thương sinh thái là một phản ứng có thể đoán trước được, nhất là ở những cộng đồng vẫn còn sinh sống, làm việc và giữ các mối quan hệ văn hoa mật thiết với môi trường tự nhiên. Hai tác giả này đưa ra hai trường hợp cụ thể: những người Inuit ở miền Bắc Canada và những người làm nghề trồng trọt ở Australia. Lúc được hỏi về sự thay đổi môi trường chóng vánh ở nơi mình sống, cả hai cộng đồng này đều có chung những cảm xúc như nỗi thất vọng, u sầu, hay thậm chí là ý nghĩ muốn tự sát, mặc dù họ sinh sống ở hai nơi hoàn toàn khác nhau về mặt địa lí, phong tục tập quán, và còn bị ảnh hưởng bởi các loại thiên tai hoàn toàn khác nhau.
(2) [...] Như bất kì vấn đề sức khoẻ tâm thần nào khác, nỗi tiếc thương sinh thái ăn sâu vào tâm trí một người và thường xuyên đẩy họ vào trạng thái khủng hoảng hiện sinh. Cunsolo và Ellis ghi nhận câu trả lời của một người Inuit như sau: “Inuit là dân tộc băng biển. Băng biển không còn, làm sao chúng tôi còn là dân tộc băng biển được nữa?”. Và những cảm xúc như vậy thực sự cũng chẳng còn xa lạ gì nữa: khi rừng Amazon bốc cháy năm 2019, các tộc người bản địa ở Brazil như người Tenharim, người Guató và người Guarani đều đã nói rằng họ đang mất hết tất cả và khó có thể gìn giữ được truyền thống văn hoá của mình khi mà cảnh rừng quê hương đang bốc cháy ngùn ngụt. [...] Có thể thấy, đối với người ở nơi “tiền tuyến” của biến đổi khí hậu – cho dù là cộng đồng địa phương hay là các nhà nghiên cứu thực địa, việc chứng kiến và cảm nhận trực tiếp hậu quả của biến đổi khí hậu đã để lại tác động tâm lí nghiêm trọng, bởi những người này đã lâu ngày gần gũi và gắn bó với môi trường đang bị huỷ hoại [...].
(3) Tiếc thay, sau hàng thập kỉ biết đến mối nguy hại của biến đổi khí hậu, nỗi tiếc thương sinh thái đã bắt đầu ảnh hưởng tới cả người ở hậu phương. Tháng 12/ 2021, Caroline Hickman và cộng sự công bố một cuộc thăm dò về cảm xúc trước biến đổi khí hậu của 1 000 trẻ em và thanh thiếu niên từ mỗi quốc gia trong tổng số 10 nước Anh, Australia, Ấn Độ, Bồ Đào Nha, Brazil, Hoa Kì, Nigeria, Pháp, Phần Lan và Philippines. Trong số những người được hỏi, 59% thấy “rất hoặc cực kì lo” về biến đổi khí hậu, và 45% thừa nhận rằng cảm xúc của họ về biến đổi khí hậu có ảnh hưởng tiêu cực đến cuộc sống thường ngày. [...] Nỗi lo về biến đổi khí hậu và sự chấp nhận tận thế đang cận kề đều là các cảm xúc không hiếm gặp ở những người trẻ ngày nay, nhất là kể từ khi đại dịch COVID-19 bắt đầu.
(4) Tiếc thương sinh thái và các cảm xúc khác do biến đổi khí hậu quả thật đều là các hiện tượng hoàn toàn mới của thế kỉ XXI, song chúng vẫn để lại tác động muôn hình vạn trạng. Như đã thảo luận ở phần trên, những người chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của những cảm xúc mới này bao gồm các cộng đồng người bản địa, các nhà khoa học thực địa nghiên cứu ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, cùng với các thế hệ trẻ sinh ra và lớn lên trong một thế giới nơi sự nhận thức về biến đổi khí hậu đã thẩm thấu vào lời ăn tiếng nói hằng ngày. Ngoài ra, trong một
thế giới nơi những cộng đồng bên lề xã hội thường phải sống ở những địa điểm có nguy cơ bị biến đổi khí hậu huỷ diệt cao hơn, chúng ta cũng phải đề cập tới cả những người nghèo, những người da màu,... Có thể thấy, ảnh hưởng về sức khoẻ tâm thần của biến đổi khí hậu đã lan rộng ra cả nhân loại, chứ không còn là một vấn đề của một vài cá nhân nhất định nữa.
(5) [...] Tình trạng biến đổi khí hậu do con người đang để lại hậu quả ở cả cấp vi mô và vĩ mô, trên cả phương diện vật chất lẫn tinh thần. Nếu ở loài thằn lằn anole nâu, màng chân của chúng đang tiến hoả với tốc độ chóng mặt để thích ứng với những mùa bão ngày càng khắc nghiệt, thì ở con người, tâm lí của chúng ta cũng đang biến thiên nhanh không kém, dẫn đến những vấn đề sức khoẻ tâm thần mà người ở các thế kỉ trước sẽ chẳng thể nào đồng cảm được.
(Nguyễn Bình, Báo điện tử Tia sáng, 25-01-2022)
Quảng cáo
Trả lời:
Hiện tượng “tiếc thương sinh thái” là nỗi đau khổ trước những mất mát về sinh thái mà con người hoặc là đã trải qua, hoặc là tin rằng đang ở phía trước.
Câu hỏi cùng đoạn
Câu 2:
Thế nào là trạng thái “khủng hoảng hiện sinh”
Lời giải của GV VietJack
Trạng thái “khủng hoảng hiện sinh” là trạng thái khủng hoảng khi một người trải qua những thay đổi lớn trong cuộc sống khiến họ mất niềm tin vào cuộc sống và chính bản thân mình.
Câu 3:
Nêu ý khái quát của từng đoạn văn bản được đánh số.
Lời giải của GV VietJack
Ý khái quát của từng đoạn văn bản: Đoạn (1): Giải thích về khái niệm “tiếc thương sinh thái”; Đoạn (2): Biểu hiện của hiện tượng “tiếc thương sinh thái” ở nơi “tiền tuyến” của biến đổi khí hậu (nơi ảnh hưởng trực tiếp); Đoạn (3): Biểu hiện của hiện tượng “tiếc thương sinh thái” ở nơi “hậu phương” của biến đổi khí hậu (ảnh hưởng từ nỗi lo về biến đổi khí hậu); Đoạn (4): Đối tượng chịu tác động của hiện tượng “tiếc thương sinh thái”; Đoạn (5): Hệ luỵ của hiện tượng “tiếc thương sinh thái”.
Câu 4:
Tác giả đã sử dụng những loại bằng chứng nào để cung cấp thông tin cho người đọc?
Lời giải của GV VietJack
Tác giả đã sử dụng những bằng chứng khoa học (các con số thống kê, các công trình nghiên cứu, những suy luận logic) và những ví dụ thực tiễn để cung cấp những thông tin xác thực cho người đọc về hiện tượng tâm lí “tiếc thương sinh thái”, một hậu quả của biến đối khí hậu.
Câu 5:
Theo bạn, việc nhận thức đầy đủ về vấn đề được đề cập có ý nghĩa thế nào đối với mỗi chúng ta?
Lời giải của GV VietJack
Việc nhận thức đầy đủ về vấn đề được đề cập giúp cho mỗi chúng ta có hiểu biết đầy đủ hơn về biến đổi khí hậu và những hậu quả của nó, không chỉ tác động đến môi trường và sức khoẻ vật chất của con người mà còn ảnh hưởng đến đời sống tinh thần mà hiện tượng tâm lí “tiếc thương sinh thái” với những biểu hiện tiêu cực của con người là một lời cảnh báo. Từ đó mỗi người có thể xác định những suy nghĩ và hành động thiết thực từ góc nhìn cá nhân để chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu.
Hot: 500+ Đề thi thử tốt nghiệp THPT các môn, ĐGNL các trường ĐH... file word có đáp án (2025). Tải ngay
- 30 đề thi tốt nghiệp môn Ngữ Văn (có đáp án chi tiết) ( 38.000₫ )
- Sổ tay Ngữ Văn 12 (chương trình mới) ( 18.000₫ )
- Tổng ôn lớp 12 môn Toán, Lí, Hóa, Văn, Anh, Sinh Sử, Địa, KTPL (Form 2025) ( 36.000₫ )
- Bộ đề thi tốt nghiệp 2025 các môn Toán, Lí, Hóa, Văn, Anh, Sinh, Sử, Địa, KTPL (có đáp án chi tiết) ( 36.000₫ )
CÂU HỎI HOT CÙNG CHỦ ĐỀ
Lời giải
a. Mở đoạn: Dẫn dắt và nêu vấn đề nghị luận: quan niệm về chữa lành.
b. Thân đoạn: Làm rõ vấn đề nghị luận
(1) Quan niệm về việc chữa lành trong đoạn trích: nhận diện giá trị bản thân, tìm về với sự tĩnh lặng, an yên bên trong, thưởng thức cuộc sống một cách tích cực, nhận thức đúng về tài năng, thực lực của mỗi người, sống thuận tự nhiên – đó chính là cách sống tử tế với bản thân, làm cho mỗi người trở nên hạnh phúc “Ta có là ta, ta mới đẹp”. (2) Liên hệ, kết nối với bản thân để suy nghĩ về bài học nhận thức và hành động rút ra từ nội dung đoạn trích (đưa ra những bằng chứng, lí lẽ phù hợp). Chẳng hạn, có thể thể hiện sự đồng tình hoặc không đồng tình với một/ một vài ý kiến được nêu ra trong đoạn trích (về việc kiếm tiền, về xu hướng thuận theo tự nhiên,...).
c. Kết đoạn: Khẳng định lại vấn đề nghị luận.
Lời giải
Phạm vi tư liệu cần huy động: Có thể lựa chọn hai trong số những bài thơ sau: Nhớ – Hồng Nguyên; Đồng chí – Chính Hữu; Dáng đứng Việt Nam – Lê Anh Xuân; Thơ tình người lính biển – Trần Đăng Khoa; Hoan hô chiến sĩ Điện Biên Tố Hữu; Bài thơ về tiểu đội xe không kính – Phạm Tiến Duật,...
a. Mở bài: Giới thiệu vấn đề nghị luận: so sánh đánh giá hai tác phẩm thơ hiện đại viết về hình tượng người lính. Ví dụ: bài thơ Đồng chi (Chính Hữu) và Bài thơ về tiểu đội xe không kinh (Phạm Tiến Duật).
b. Thân bài
b1. Điểm gặp gỡ của hình tượng người lính trong hai bài thơ
(1) Về nội dung hình tượng: hai bài thơ Đồng chí (Chính Hữu) và Bài thơ về tiểu đội xe không kính (Phạm Tiến Duật) đều xây dựng hình thượng người lính với những phẩm chất đáng tự hào của anh bộ đội Cụ Hồ, đó là lí tưởng cao cả, tinh thần chiến đấu, hi sinh quên mình, là tình cảm đồng đội ấm áp chan hoà, niềm lạc quan, ý chí vượt qua mọi khó khăn gian khổ (“Súng bên súng, đầu sát bên đầu/ Đêm rét chung chặn thành đôi tri kỉ” – Đồng chí; “Không có kính, rồi xe không có đèn/ Không có mui xe, thùng xe có xước/ xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước/ Chi cần trong xe có một trái tim” – Bài thơ về tiểu đội xe không kính) (2) Về nghệ thuật thể hiện hình tượng: hai bài thơ đều có sự kết hợp giữa chất tự sự và trữ tình khi thể hiện chân dung người lính, đem đến cho người đọc những cảm nhận chân thực về cuộc sống của người lính nơi chiến trường, đồng thời qua đó sáng lên những phẩm chất cao đẹp của họ.
b2. Điểm độc đáo của hình tượng người lính trong mỗi bài thơ
(1) Điểm riêng trong nội dung hình tượng người lính ở mỗi bài thơ: + Bài thơ Đồng chí: là những trải nghiệm cụ thể về tình đồng chí đồng đội, dựa trên cơ sở cùng chung cảnh ngộ và lí tưởng chiến đấu, được thể hiện tự nhiên, bình dị mà sâu sắc, góp phần tạo nên sức mạnh và vẻ đẹp tinh thần của người lính cách mạng; + Bài thơ về tiểu đội xe không kính: bài thơ khắc hoạ nổi bật hình tượng người lính lái xe Trường Sơn trong thời kì chống Mỹ, cứu nước với tư thế hiên ngang, tinh thần lạc quan, dũng cảm bất chấp khó khăn nguy hiểm và ý chí chiến đấu giải phóng miền Nam. (2) Điểm riêng trong nghệ thuật thể hiện hình tượng người lính ở mỗi bài thơ: + Đồng chí: thể hiện chân dung người lính qua những chi tiết, hình ảnh, ngôn ngữ giản dị, chân thực, cô đọng; những hình ảnh đẹp, lãng mạn, giàu sức biểu cảm (Đầu súng trăng treo); + Bài thơ về tiểu đội xe không kính: xây dựng hình ảnh độc đáo là những chiếc xe không kính ra mặt trận, giàu chất liệu sinh động về cuộc sống nơi chiến trường, ngôn ngữ giàu tính khẩu ngữ, tự nhiên, khoẻ khoắn của những người lính trẻ.
b3. Bình luận, đánh giá
(1) Lí giải về những điểm tương đồng và khác biệt của hai bài thơ: Hai bài thơ được sáng tác từ góc nhìn của chính những người lính viết về đồng đội của mình, do vậy đem đến cho người đọc những cảm nhận chân thực về hình tượng người lính trong hai cuộc kháng chiến. Mặt khác, mỗi bài thơ mang đậm dấu ấn thời đại và dấu ấn riêng trong cách nhìn, cách cảm của mỗi nhà thơ, tạo nên giọng điệu riêng độc đáo, hấp dần của từng bài thơ. (2) Giá trị của mỗi bài thơ khi viết về hình tượng người lính: hai bài thơ đã tạo dựng được chân dung người lính trong những giai đoạn lịch sử của dân tộc; thể hiện những giọng điệu phong phú cho nền thơ ca của dân tộc khi viết về người lính. (3) Ý nghĩa của việc tiếp nhận hai bài thơ từ góc độ so sánh: cho người đọc cái nhìn đa chiều về hình tượng người lính; góp phần đem lại những giá trị sống cho bản thân trong bối cảnh mới.
c. Kết bài: Khẳng định lại vấn đề nghị luận.
Lời giải
Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.
Lời giải
Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.
Lời giải
Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.
Lời giải
Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.