TÚ UYÊN – GIÁNG KIỀU
(Trích)
Lần trăng ngơ ngẩn ra về,
Đèn thông khêu cạn, giấc hoè (1) chưa nên.
Nỗi nàng canh cánh nào quên,
Vẫn còn quanh quẩn người tiên khéo là!
Bướm kia vương lấy sầu hoa,
Đoạn tương tư ấy nghĩ mà buồn tênh!
Có khi gảy khúc đàn tranh,
Nước non ngao ngán ra tình hoài nhân (2)
Cầu hoàng (3) tay lựa nên vần,
Tương Như lòng ấy, Văn Quân (4) lòng nào!
Có khi chuốc chén rượu đào,
Tiệc mời chưa cạn, ngọc giao (5) đã đầy.
Hơi men không nhấp mà say,
Như xông mùi nhớ, lại gây giọng tình.
Có khi ngồi suốt năm canh,
Mõ quyên (6) điểm nguyệt, chuông kình (7) nện sương.
Lặng nghe những tiếng đoạn trường,
Lửa tình dễ đốt, sông Tương (8) khôn hàn.
Có đêm ngắm bóng trăn tàn,
Tiếng chiêm hót sớm, trận nhàn (9) bay khuya.
Ngổn ngang cảnh nọ tình kia,
Nỗi riêng, riêng biết, dã dề (10) với ai!
Vui xuân chung cảnh một trời,
Sầu xuân riêng nặng một người tương tư
(Bích Câu kì ngộ, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội, 2015)
Chú thích:
(1) Giấc hoè: ở đây chỉ giấc mơ (dựa theo điển tích Thuần Vu Phần uống rượu say, nằm ngủ dưới gốc cây hoè, rồi mơ thấy mình ở nước Hoà An, được công danh phú quý rất mực vinh hiển, khi tỉnh dậy thì hoá ra đó là giấc mộng, thấy dưới cành hoè phía nam chỉ có một tổ kiến).
(2) Hoài nhân: nhớ người.
(3) Cầu hoàng: khúc đàn cầu hôn (tìm vợ) của Tư Mã Tương Như (bậc văn tài thời Hán, gảy đàn rất hay).
(4) Văn Quân: Trác Văn Quân là một cô gái đẹp goá chồng, nghe khúc Cầu hoàng của Tương Như, phải lòng đi theo.
(5) Ngọc giao: mời nhau rượu đựng trong chén ngọc để kết giao.
(6) Mõ quyên: mõ khắc hình chim đỗ quyên.
(7) Chuông kình: cái chuông có dài làm thành hình con cá kinh (cả voi).
(8) Sông Tương: chỉ nước mắt (Dựa theo điển tích vua Thuấn mất ở Thương Ngô, hai người vợ là Nga Hoàng và Nữ Anh cùng thương khóc thảm thiết ở trên sông Tương Giang, vì vậy, người ta dùng sông Tương hay mạch Tương, sóng Tương để ví với nước mắt).
(9) Trận nhàn: hàng chim nhạn. Xưa, chim hồng, chim nhạn thường được dùng để nói về tin tức.
(10) Dã dề: chuyện trò niềm nở, thân tình
Tóm tắt tác phẩm: Chuyện kể về một thư sinh ở vào đời Lê Thánh Tôn' tên gọi Trần Tú Uyên. Cha mẹ mất sớm, chàng dựng nhà ở giữa hồ Bích Câu để chuyên tâm đèn sách. Trong một dịp tình cờ, khi đi hội ở chùa Ngọc Hồ, Tú Uyên gặp được một cô gái đẹp như tiên giáng trần, bèn đi theo thì nàng chợt biến mất không rõ tung tích, nên chàng mắc bệnh tương tư. Sau đó, Tú Uyên mua được một bức tranh vẽ hình mĩ nữ hệt như người chàng đã gặp, mang về treo trong nhà. Một thời gian sau, lúc nào từ trường về nhà, Tú Uyên cũng thấy cơm nước sẵn sàng. Chàng rình xem, thấy mĩ nhân trong tranh bước ra, vội chạy vào chào hỏi. Người con gái xưng là tiên nữ Giáng Kiều, nguyện cùng chàng kết nhân duyên. Hai người sống với nhau hạnh phúc được ba năm, song Tú Uyên dần trở nên nghiện rượu. Giáng Kiều khuyên chồng không được, bèn bỏ về tiên giới. Tú Uyên hối hận, sinh ra sầu não, đau ốm, định quyên sinh. Đúng lúc ấy, Giảng Kiều hiện ra, tha lỗi cho chồng, hai vợ chồng nối lại duyên xưa. Từ đó, Tú Uyên nghe lời vợ chuyên tâm tu đạo. Cuối cùng, có đôi chim hạc từ trên mây bay xuống đưa hai vợ chồng về cõi tiên.
Thể thơ của truyện thơ trên là gì?
TÚ UYÊN – GIÁNG KIỀU
(Trích)
Lần trăng ngơ ngẩn ra về,
Đèn thông khêu cạn, giấc hoè (1) chưa nên.
Nỗi nàng canh cánh nào quên,
Vẫn còn quanh quẩn người tiên khéo là!
Bướm kia vương lấy sầu hoa,
Đoạn tương tư ấy nghĩ mà buồn tênh!
Có khi gảy khúc đàn tranh,
Nước non ngao ngán ra tình hoài nhân (2)
Cầu hoàng (3) tay lựa nên vần,
Tương Như lòng ấy, Văn Quân (4) lòng nào!
Có khi chuốc chén rượu đào,
Tiệc mời chưa cạn, ngọc giao (5) đã đầy.
Hơi men không nhấp mà say,
Như xông mùi nhớ, lại gây giọng tình.
Có khi ngồi suốt năm canh,
Mõ quyên (6) điểm nguyệt, chuông kình (7) nện sương.
Lặng nghe những tiếng đoạn trường,
Lửa tình dễ đốt, sông Tương (8) khôn hàn.
Có đêm ngắm bóng trăn tàn,
Tiếng chiêm hót sớm, trận nhàn (9) bay khuya.
Ngổn ngang cảnh nọ tình kia,
Nỗi riêng, riêng biết, dã dề (10) với ai!
Vui xuân chung cảnh một trời,
Sầu xuân riêng nặng một người tương tư
(Bích Câu kì ngộ, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội, 2015)
Chú thích:
(1) Giấc hoè: ở đây chỉ giấc mơ (dựa theo điển tích Thuần Vu Phần uống rượu say, nằm ngủ dưới gốc cây hoè, rồi mơ thấy mình ở nước Hoà An, được công danh phú quý rất mực vinh hiển, khi tỉnh dậy thì hoá ra đó là giấc mộng, thấy dưới cành hoè phía nam chỉ có một tổ kiến).
(2) Hoài nhân: nhớ người.
(3) Cầu hoàng: khúc đàn cầu hôn (tìm vợ) của Tư Mã Tương Như (bậc văn tài thời Hán, gảy đàn rất hay).
(4) Văn Quân: Trác Văn Quân là một cô gái đẹp goá chồng, nghe khúc Cầu hoàng của Tương Như, phải lòng đi theo.
(5) Ngọc giao: mời nhau rượu đựng trong chén ngọc để kết giao.
(6) Mõ quyên: mõ khắc hình chim đỗ quyên.
(7) Chuông kình: cái chuông có dài làm thành hình con cá kinh (cả voi).
(8) Sông Tương: chỉ nước mắt (Dựa theo điển tích vua Thuấn mất ở Thương Ngô, hai người vợ là Nga Hoàng và Nữ Anh cùng thương khóc thảm thiết ở trên sông Tương Giang, vì vậy, người ta dùng sông Tương hay mạch Tương, sóng Tương để ví với nước mắt).
(9) Trận nhàn: hàng chim nhạn. Xưa, chim hồng, chim nhạn thường được dùng để nói về tin tức.
(10) Dã dề: chuyện trò niềm nở, thân tình
Tóm tắt tác phẩm: Chuyện kể về một thư sinh ở vào đời Lê Thánh Tôn' tên gọi Trần Tú Uyên. Cha mẹ mất sớm, chàng dựng nhà ở giữa hồ Bích Câu để chuyên tâm đèn sách. Trong một dịp tình cờ, khi đi hội ở chùa Ngọc Hồ, Tú Uyên gặp được một cô gái đẹp như tiên giáng trần, bèn đi theo thì nàng chợt biến mất không rõ tung tích, nên chàng mắc bệnh tương tư. Sau đó, Tú Uyên mua được một bức tranh vẽ hình mĩ nữ hệt như người chàng đã gặp, mang về treo trong nhà. Một thời gian sau, lúc nào từ trường về nhà, Tú Uyên cũng thấy cơm nước sẵn sàng. Chàng rình xem, thấy mĩ nhân trong tranh bước ra, vội chạy vào chào hỏi. Người con gái xưng là tiên nữ Giáng Kiều, nguyện cùng chàng kết nhân duyên. Hai người sống với nhau hạnh phúc được ba năm, song Tú Uyên dần trở nên nghiện rượu. Giáng Kiều khuyên chồng không được, bèn bỏ về tiên giới. Tú Uyên hối hận, sinh ra sầu não, đau ốm, định quyên sinh. Đúng lúc ấy, Giảng Kiều hiện ra, tha lỗi cho chồng, hai vợ chồng nối lại duyên xưa. Từ đó, Tú Uyên nghe lời vợ chuyên tâm tu đạo. Cuối cùng, có đôi chim hạc từ trên mây bay xuống đưa hai vợ chồng về cõi tiên.
Thể thơ của truyện thơ trên là gì?
Quảng cáo
Trả lời:

Lục bát
Câu hỏi cùng đoạn
Câu 2:
Nhân vật chính được nói đến trong đoạn trích trên là ai?
Nhân vật chính được nói đến trong đoạn trích trên là ai?

Nhân vật nam: Tú Uyên.
Câu 3:
Cảm xúc của nhân vật Tú Uyên được thể hiện trong các câu thơ dưới đây là gì?
Lần trăng ngơ ngẩn ra về,
Đèn thông khêu cạn, giấc hoè chưa nên.
Nỗi nàng canh cánh nào quên,
Vẫn còn quanh quẩn người tiên khéo là!
Bướm kia vương lấy sầu hoa,
Đoạn tương tư ấy nghĩ mà buồn tênh!
Cảm xúc của nhân vật Tú Uyên được thể hiện trong các câu thơ dưới đây là gì?
Lần trăng ngơ ngẩn ra về,
Đèn thông khêu cạn, giấc hoè chưa nên.
Nỗi nàng canh cánh nào quên,
Vẫn còn quanh quẩn người tiên khéo là!
Bướm kia vương lấy sầu hoa,
Đoạn tương tư ấy nghĩ mà buồn tênh!

Tương tư, thương nhớ bất kể ngày đêm, nhớ người đẹp đến mức “ngẩn ngơ” trong lòng.
Câu 4:
Đoạn thơ từ “Có khi gẩy khúc đàn tranh” cho đến “Mõ quyên điểm nguyệt, chuông kình nện sương” sử dụng biện pháp tu từ gì?
Đoạn thơ từ “Có khi gẩy khúc đàn tranh” cho đến “Mõ quyên điểm nguyệt, chuông kình nện sương” sử dụng biện pháp tu từ gì?

Biện pháp điệp cấu trúc.
Câu 5:
Liệt kê những hành động, cử chỉ mà nhân vật Tú Uyên làm để giãi bày nỗi nhớ người đẹp.
Liệt kê những hành động, cử chỉ mà nhân vật Tú Uyên làm để giãi bày nỗi nhớ người đẹp.

Gẩy đàn tranh, uống chén rượu đào, ngồi suốt năm canh, ngắm bóng trăng tàn.
Câu 6:
Nội dung chính của đoạn truyện thơ trên là gì?
Nội dung chính của đoạn truyện thơ trên là gì?

Nỗi niềm tương tư của nhân vật Tú Uyên sau khi gặp người đẹp.
Câu 7:
Nhân vật Tú Uyên hiện lên qua đoạn trích là người như thế nào?
Nhân vật Tú Uyên hiện lên qua đoạn trích là người như thế nào?

Chàng trai si tình, có lòng thủy chung.
Câu 8:
Phân tích giá trị biểu đạt của các biện pháp tu từ được sử dụng trong đoạn thơ sau:
Có khi gảy khúc đàn tranh,
Nước non ngao ngán ra tình hoài nhân.
Cầu hoàng tay lựa nên vần,
Tương Như lòng ấy, Văn Quân lòng nào!
Có khi chuốc chén rượu đào,
Tiệc mời chưa cạn, ngọc giao đã đầy.
Hơi men không nhấp mà say,
Như xông mùi nhớ, lại gây giọng tình.
Có khi ngồi suốt năm canh,
Mõ quyên điểm nguyệt, chuông kình nện sương.
Lặng nghe những tiếng đoạn trường,
Lửa tình dễ đốt, sông Tương khôn hn.
Có đêm ngắm bóng trăn tàn,
Tiếng chiêm hót sớm, trận nhàn bay khuya.
Phân tích giá trị biểu đạt của các biện pháp tu từ được sử dụng trong đoạn thơ sau:
Có khi gảy khúc đàn tranh,
Nước non ngao ngán ra tình hoài nhân.
Cầu hoàng tay lựa nên vần,
Tương Như lòng ấy, Văn Quân lòng nào!
Có khi chuốc chén rượu đào,
Tiệc mời chưa cạn, ngọc giao đã đầy.
Hơi men không nhấp mà say,
Như xông mùi nhớ, lại gây giọng tình.
Có khi ngồi suốt năm canh,
Mõ quyên điểm nguyệt, chuông kình nện sương.
Lặng nghe những tiếng đoạn trường,
Lửa tình dễ đốt, sông Tương khôn hn.
Có đêm ngắm bóng trăn tàn,
Tiếng chiêm hót sớm, trận nhàn bay khuya.

Biện pháp điệp cấu trúc “Có khi”:
Lặp đi lặp lại 4 lần thể hiện những hành động của Tú Uyên khi không thể không nghĩ về người thiếu nữ đó. Chàng nhớ nàng chỉ nghĩ thôi chưa đủ, phải “gảy nên khúc đàn tranh” mong nàng nghe được tấm chân tình này, giống như cô gái Văn Quân khi nghe được tiếng đàn “Cầu hoàng” của Tương Như nên phải lòng đi theo. Phải mượn men say của “chén rượu đào” để thổ lộ tâm tư thầm kín hay chính là “mượn rượu để tỏ tình”. Tú Uyên mong được uống với nàng chén “ngọc giao” để kết duyên đôi lứa.
Câu 9:
Chỉ ra những đặc điểm của truyện thơ Nôm trong văn bản.
Chỉ ra những đặc điểm của truyện thơ Nôm trong văn bản.

Đặc điểm truyện thơ trong văn bản
- Về yếu tố tự sự: đoạn trích xoay quanh câu chuyện của chàng Tú Uyên sau khi gặp thiếu nữ xinh đẹp đã về nhà tương tư, thầm nhớ nhung.
- Về yếu tố trữ tình: truyện tập trung bộc lộ yếu tố đó thông qua tâm trạng của nhân vật Tú Uyên. Đoạn trích là dòng tâm trạng, cảm xúc, giúp chúng ta đi sâu vào thế giới của những suy tư, nỗi niềm tâm trạng tương tư của nhân vật trong tình yêu. Ngoài ra, chất trữ tình còn được bộc lộ qua khung cảnh thiên nhiên. Việc xuất hiện của thiên trong truyện thơ được gắn chặt với việc thể hiện tâm tình nhân vật.
Hot: 500+ Đề thi vào 10 file word các Sở Hà Nội, TP Hồ Chí Minh có đáp án 2025 (chỉ từ 100k). Tải ngay
CÂU HỎI HOT CÙNG CHỦ ĐỀ
Lời giải
Gợi ý:
- Đảm bảo yêu cầu về hình thức, dung lượng
+ Viết đúng hình thức đoạn văn (diễn dịch, quy nạp, móc xích…).
+ Đảm bảo dung lượng khoảng 200 chữ.
- Xác định đúng vấn đề nghị luận
+ So sánh hai đoạn thơ nói về tâm trạng tương tư của Tú Uyên trong Bích Câu kì ngộ và của Kim Trọng trong Truyện Kiều.
- Hệ thống ý:
|
Tú Uyên |
Kim Trọng |
Giống |
- Đều là nỗi tương tư, nhớ mong - Đều thể hiện nỗi nhớ “canh cánh” trong lòng |
|
Khác |
- Ngẩn ngơ nhớ về người đẹp - Không thể gặp lại khiến Tú Uyên ngày càng nhớ mong |
- Nhớ đến sầu muộn - Cảm thấy một ngày dài như “ba thu”, mong chờ để được gặp người yêu. |
- Phát triển đoạn văn logic, thuyết phục
+ Dẫn chứng từ văn bản để minh chứng cho nhận định.
+ Thể hiện được điểm khác biệt, tương đồng giữa hai đoạn thơ nói về tâm trạng tương tư của Tú Uyên trong Bích Câu kì ngộ và của Kim Trọng trong Truyện Kiều
- Đảm bảo ngữ pháp, liên kết:
+ Trình bày rõ ràng, mạch lạc, không mắc lỗi chính tả.
- Sáng tạo
+ Cách diễn đạt mới mẻ, có suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận.
Đoạn văn tham khảo
Cả hai đoạn thơ trong Bích Câu kì ngộ và Truyện Kiều đều diễn tả tâm trạng tương tư, nỗi nhớ khắc khoải của người con trai dành cho người con gái mình yêu. Ở Bích Câu kì ngộ, Tú Uyên ngẩn ngơ, khắc khoải khi “lần trăng ngơ ngẩn ra về”, ngọn đèn khuya tàn lụi mà giấc mộng gặp gỡ người đẹp vẫn chưa thành. Nỗi nhớ ấy cứ “canh cánh” trong lòng, day dứt, khôn nguôi. Còn trong Truyện Kiều, Kim Trọng cũng mang nỗi nhớ khôn cùng, nhưng nỗi nhớ ấy không chỉ khắc khoải mà còn đượm buồn: “Sầu đong càng lắc càng đầy, ba thu dọn lại một ngày dài ghê”. Thời gian chờ đợi với chàng dường như dài vô tận, một ngày xa cách mà tưởng như ba năm cách trở. Nếu như Tú Uyên nhớ nhung trong ngẩn ngơ, trong khát khao gặp lại tiên nữ, thì Kim Trọng nhớ nhung trong sầu muộn, da diết, mong chờ từng khoảnh khắc sum họp. Cả hai đều khắc họa vẻ đẹp của tình yêu chung thủy, nỗi nhớ tha thiết trong tâm hồn người trai trẻ.
Lời giải
Gợi ý:
- Đảm bảo yêu cầu về hình thức, dung lượng
+ Viết đúng hình thức bài văn đầy đủ ba phần Mở bài, Thân bài, Kết bài.
+ Đảm bảo dung lượng khoảng 400 chữ.
- Xác định đúng vấn đề nghị luận: Phân tích văn bản ngữ liệu “Tú Uyên – Giáng Kiều” trong Bích Câu kỳ ngộ.
- Lựa chọn được các thao tác lập luận phù hợp; kết hợp nhuần nhuyễn lí lẽ và dẫn chứng; trình bày được hệ thống ý phù hợp theo bố cục ba phần của bài văn nghị luận. Có thể triển khai theo hướng:
* Mở bài:
- Giới thiệu vài nét về Bích Câu kỳ ngộ – một truyện thơ Nôm nổi tiếng thời trung đại.
- Dẫn vào đoạn trích Tú Uyên – Giáng Kiều, nhấn mạnh nội dung khắc họa tâm trạng tương tư và tình yêu lãng mạn của nhân vật Tú Uyên.
* Thân bài:
1. Khái quát chung về tác phẩm và đoạn trích
- Bích Câu kỳ ngộ: Tác phẩm tiêu biểu cho khuynh hướng lãng mạn, chịu ảnh hưởng của tư tưởng Nho – Phật – Lão.
- Đoạn trích: Khắc họa tâm trạng tương tư, nỗi nhớ nhung khắc khoải của Tú Uyên dành cho Giáng Kiều.
2. Phân tích nội dung
- Tâm trạng tương tư da diết
+ Nỗi nhớ khôn nguôi, “canh cánh” bên lòng.
+ Cảnh vật thiên nhiên (trăng, đèn, sông Tương, tiếng chim…) thấm đượm nỗi buồn, phản chiếu tâm trạng con người.
+ Thời gian dài lê thê, từng đêm từng canh đều chất chứa sầu thương.
- Tình yêu lãng mạn, say đắm
+ Tình cảm gắn với hình ảnh nên thơ: “gảy khúc đàn tranh”, “chuốc chén rượu đào”, “tiệc mời chưa cạn”…
+ Tình yêu của Tú Uyên vừa trần thế, vừa mang màu sắc huyền thoại qua sự xuất hiện của tiên nữ Giáng Kiều.
- Ý nghĩa nhân văn
+ Ca ngợi tình yêu chân thành, say đắm, vượt qua ranh giới trần – tiên.
+ Bộc lộ khát vọng hạnh phúc và sự hòa hợp giữa con người với thiên nhiên, thần tiên.
3. Nghệ thuật
- Thể thơ lục bát uyển chuyển, nhịp điệu du dương.
- Hình ảnh ước lệ, điển tích điển cố gợi không gian lãng mạn, cổ điển.
- Ngôn ngữ giàu chất trữ tình, bộc lộ tinh tế cảm xúc nhân vật.
* Kết bài:
- Khẳng định giá trị nội dung, nghệ thuật của đoạn trích.
- Nêu cảm nghĩ cá nhân: Tác phẩm để lại ấn tượng sâu sắc về vẻ đẹp tình yêu và tâm hồn con người Việt Nam trong văn học trung đại.
Bài viết tham khảo
Bích Câu kỳ ngộ là một trong những truyện thơ Nôm nổi tiếng của văn học trung đại Việt Nam, mang đậm màu sắc lãng mạn và chất trữ tình. Trong tác phẩm, đoạn trích Tú Uyên – Giáng Kiều để lại nhiều ấn tượng sâu sắc với người đọc bởi nó khắc họa chân thực tâm trạng tương tư da diết của nhân vật Tú Uyên, đồng thời thể hiện quan niệm về tình yêu trong xã hội xưa.
Trước hết, cần khái quát đôi nét về tác phẩm và đoạn trích. Bích Câu kỳ ngộ ra đời vào thời Lê sơ, khi văn học chữ Nôm đã phát triển mạnh mẽ, phản ánh khát vọng hạnh phúc lứa đôi của con người thời phong kiến. Đoạn trích Tú Uyên – Giáng Kiều kể về nỗi tương tư của chàng thư sinh Tú Uyên sau khi gặp tiên nữ Giáng Kiều trong hội chùa Ngọc Hồ. Nàng biến mất, để lại trong lòng chàng một tình yêu day dứt, khắc khoải khôn nguôi.
Nội dung đoạn thơ tập trung miêu tả tâm trạng tương tư da diết của Tú Uyên. Nỗi nhớ ấy luôn “canh cánh bên lòng”, len lỏi trong từng khoảnh khắc thời gian, từ ánh trăng lẻ loi, ngọn đèn khuya leo lét đến tiếng mõ, tiếng chuông trong đêm vắng. Thời gian như dài lê thê, nỗi sầu chồng chất qua từng hình ảnh “lửa tình dễ đốt, sông Tương khôn hàn”, “ngổn ngang cảnh nọ tình kia”. Nỗi nhớ biến thành khúc đàn cầu duyên, thành men rượu tình nồng mà Tú Uyên không sao dứt ra được. Qua đó, tác giả khắc họa một tình yêu vừa say đắm, vừa thủy chung, thể hiện khát vọng hạnh phúc và sự hòa hợp giữa con người với thần tiên, giữa trần thế với cõi mộng.
Không chỉ có giá trị nội dung, đoạn trích còn giàu giá trị nghệ thuật. Thể thơ lục bát quen thuộc kết hợp cùng nhiều hình ảnh ước lệ, điển tích điển cố như “Tương Như – Văn Quân”, “sông Tương”, “giấc hoè”… đã gợi lên không gian lãng mạn, cổ điển và làm nổi bật chất tài hoa trong tâm hồn nhân vật. Ngôn ngữ thơ giàu chất trữ tình, nhịp điệu uyển chuyển, mềm mại giúp bộc lộ tinh tế những cung bậc cảm xúc của tình yêu: say mê, nhớ nhung, khắc khoải, mong chờ.
Có thể nói, đoạn trích Tú Uyên – Giáng Kiều là bức tranh tình yêu tuyệt đẹp của văn học trung đại Việt Nam. Bằng bút pháp lãng mạn và tài hoa, tác giả đã ca ngợi tình yêu thủy chung, say đắm, đồng thời gửi gắm khát vọng hạnh phúc và ước mơ về sự hòa hợp giữa con người với thiên nhiên, thần tiên. Đoạn thơ để lại trong lòng người đọc ấn tượng sâu sắc về vẻ đẹp tâm hồn và tình cảm của con người xưa, góp phần làm nên giá trị bền vững của Bích Câu kỳ ngộ trong dòng chảy văn học dân tộc.
Lời giải
Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.
Lời giải
Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.
Lời giải
Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.
Lời giải
Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.