Câu hỏi:

29/10/2025 31 Lưu

Phần 1: Đọc hiểu (5,0 điểm)

Đọc đoạn ngữ liệu sau và trả lời câu hỏi:

Cũng lâu mới có dịp trở lại Hà Nội. Cuối thu. Ban đêm đi dọc hàng cây sữa, thấy mùi hương sực nức. Cuối phố này tôi có một địa chỉ quen...

Mấy chục năm xưa, tôi là chú bé nhà quê ra thành phố vừa học vừa kiếm việc làm. Một buổi tối gió bấc đầu mùa, tôi co ro đi lang thang trong mùi hoa sữa. Những hàng ngô nướng đêm sáng lập loè. Gió vi vút mùi cà phê ở đâu toả ra ngoài ngào ngạt. Ngẩng lên, thấy tấm biển “Lá Thu cà phê” rọi đèn mờ ấm cúng. Nhẩm tính trong túi còn đủ năm hào, tôi quyết định bước vào.

Quán nhỏ. Bàn ghế bằng trúc vàng sơ sài. Nhưng giật mình thấy trên vách treo mấy bức sơn dầu của một hoạ sĩ tài hoa tôi hằng ngưỡng mộ mà chưa biết mặt.

- Bác sao có những thứ này - Tôi hỏi chủ quán.

- Cậu cũng thích tranh à? - Chủ quán, một người vẻ nho nhã, tóc hoa râm, mỉm cười.

Tôi ngồi vừa ngắm tranh, vừa rung đùi tận hưởng từng ngụm cà phê thơm ngon. Phải công nhận cà phê của ông tuyệt thật. Vào thời kì đó, hình như cả thành phố chỉ có vài quán cà phê thì phải.

Đang lim dim mơ màng để khói cà phê phả mờ trên mặt, thì chợt thấy một người vừa bước vào. Chủ quán và ông khẽ gật đầu chào nhau, vẻ quen thân từ lâu. Ông người dỏng cao, gương mặt buồn đẹp, xanh xao. Ngón tay thanh tú trắng muốt nâng li cà phê, mắt trầm ngâm ông nhìn những chiếc lá vàng bị gió bứt ào ào rơi ngoài cửa sổ. Uống xong, đứng dậy, lặng lẽ đi ra. Không thấy trả tiền.

Chủ quán nhảy tôi.

- Cậu biết ai đấy không? Tác giả của những bức tranh kia đấy!

Trời, tôi thảng thốt. Không ngờ vừa gặp được thần tượng của mình. Bất giác nhìn lên, một giây khắc như cảm nhận được tất cả sự huyền bí diệu kì của những bức tranh trên vách, mà lúc khác chắc không thể biết được.

- Những bức tranh tuyệt đẹp này - Chủ quán nói - là tặng phẩm của ông ta cho tôi, để trả ơn những tách cà phê thơm ngon mà tôi đã đãi ông suốt bao năm qua...

Lòng tôi rưng rưng. Vụt nhớ giai thoại Van Gốc vẽ lên gỗ mặt bàn quán trọ để trả nợ.

- Hay có thể nói ngược lại - Giọng chủ quán thầm thì - Những tách cà phê thơm ngon trong những giây phút gió bấc đầu mùa như đêm nay, cùng sự cung kính đối với nghệ thuật của tôi, là để trả ơn những bức tranh tuyệt tác...

Từ hôm ấy, tôi thường trở lại quán cà phê Lá Thu mỗi khi trong túi tích cóp đủ năm hào. Và tôi thường được ngắm nhìn người hoạ sĩ tài hoa trong khoảnh khắc ngắn ngủi của một li cà phê bốc khói.

Thoắt cái, mà những ngày ấy đã trở thành dĩ vãng xa xôi...

... Tôi hồi hộp dừng lại nơi cây sữa cuối cùng của dãy phố. Quán cà phê Lá Thu nhỏ bé, mái ngói rêu mốc đầy lá vàng ngày xưa không còn. Thay vào đấy là một quán bốn tầng sáng choang gương kính và ảnh điện màu. Nhưng được cái là vẫn mang tên “Lá Thu cà phê”.

Tôi bước vào. Một mình một bàn. Một cô tiếp viên có đôi chân trần trắng muốt mũm mĩm mang chai rượu đắt tiền đến. Tôi hỏi tên người chủ quán cà phê ngày xưa. Cô dẫn tôi lên lầu. Một căn phòng nội thất phương Đông cổ. Một ông già râu tóc bạc đang ngồi uống trà bên giò lan tím cạnh song cửa. Đôi mắt sau tròng kính chớp chớp, ông nhận ra tôi, vồ vập thân tình.

- Những bức tranh ngày xưa còn không, thưa ông? - Tôi nhìn suốt lượt bức tường.

- Không... - Ông lắc đầu.

- Chúng đâu rồi?

- Chúng đã biến thành toà nhà nhiều gương kính này.

- Ông có nghĩ thế là với sự biến đổi, ông đã gặp thời, gặp vận, may mắn không?

- Không hẳn thế.

Ông già đưa tôi chén trà ngâu thơm ngát. Tôi bâng khuâng chạnh nhớ mùi cà phê trong cái quán nghèo thuở nào.

- Người hoạ sĩ tài hoa xưa còn đến đây?

- Không. Ông ấy đã mất trước khi được thấy tranh của mình bán được nhiều tiền...

Đêm ấy uống hết nửa chai rượu do cô tiếp viên xinh đẹp nâng tận môi, tôi loạng choạng đứng dậy ra về.

Ông chủ quán tiễn ra cửa, cầm tay hỏi:

- Tôi nghĩ là cậu buồn, và có giận tôi không?

Tôi mơ hồ lắc đầu:

- Không hẳn thế.

(Quán Lá Thu, Nguyễn Phan Hách, in trong Hà Nội ba mươi sáu truyện ngắn hay,

Hồ Anh Thái (biên tập), NXB Hội Nhà văn, 2002)
Vì sao ông chủ quán luôn pha cho người hoạ sĩ những tách cà phê thơm ngon mà không lấy tiền?

Quảng cáo

Trả lời:

verified Giải bởi Vietjack
Ông chủ quán luôn pha cho người hoạ sĩ những tách cà phê thơm ngon mà không lấy tiền vì muốn bày tỏ sự cung kính đối với nghệ thuật, muốn trả ơn những bức tranh tuyệt tác.

Câu hỏi cùng đoạn

Câu 2:

Chỉ ra những chi tiết miêu tả ông hoạ sĩ trong văn bản.

Xem lời giải

verified Giải bởi Vietjack
Những chi tiết miêu tả nhân vật hoạ sĩ trong văn bản: người dỏng cao, gương mặt buồn đẹp, xanh xao. Ngón tay thanh tú trắng muốt nâng li cà phê, mắt trầm ngâm ông nhìn những chiếc lá vàng bị gió bứt ào ào rơi ngoài cửa sổ.

Câu 3:

Qua văn bản, anh/ chị thấy nhân vật “tôi” là người như thế nào? Dựa vào đâu anh/ chị khẳng định như vậy?

Xem lời giải

verified Giải bởi Vietjack

Nhân vật “tôi” là người giàu cảm xúc, yêu cái đẹp, hay hoài niệm về quá khứ.

Lí do khẳng định như vậy: nhân vật “tôi” say mê những bức tranh, yêu mến người hoạ sĩ, luôn muốn quay về chốn xưa...

Câu 4:

Từ sự thay đổi của quán Lá Thu giữa quá khứ và hiện tại, tác giả gửi gắm thông điệp gì?

Xem lời giải

verified Giải bởi Vietjack
Từ sự thay đổi của quán Lá Thu giữa quá khứ và hiện tại, tác giả gửi gắm thông điệp: Mọi thứ đều sẽ đổi thay chứ không bất biến, cái đẹp xưa có thể không còn tìm được ở chốn cũ. Vì vậy, phải trân trọng những giây phút còn được thưởng thức cái đẹp.

Câu 5:

Từ việc ông chủ quán bán đi những bức tranh, anh/ chị hãy trả lời câu hỏi sau: Khi bán đi những tác phẩm nghệ thuật đẹp đẽ, phải chăng người ta cũng đánh mất một phần tâm hồn mình?

Xem lời giải

verified Giải bởi Vietjack
HS có thể đồng ý hoặc không đồng ý với quan điểm: Khi bán đi những tác phẩm nghệ thuật đẹp đẽ, người ta cũng đánh mất một phần tâm hồn mình, miễn có lí lẽ hợp lí, thuyết phục. Sau đây là một hướng làm bài: Việc bán đi những tác phẩm nghệ thuật đẹp đẽ cho thấy nghệ thuật đã không còn ở vị trí cao nhất trong tâm hồn con người, con người đã không hết lòng phụng sự cái đẹp. Đó là một biểu hiện của việc tâm hồn đã chẳng còn nguyên vẹn hướng về cái đẹp.

CÂU HỎI HOT CÙNG CHỦ ĐỀ

Lời giải

a. Đảm bảo cấu trúc bài nghị luận

Mở bài nêu được vấn đề, thân bài triển khai được vấn đề, kết bài khái quát được vấn đề.

b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận

Cảm nhận nhân vật người đàn bà hàng chài của truyện “Chiếc thuyền ngoài xa” (Nguyễn Minh Châu) và nhân vật Hồn Trương Ba thuộc đoạn trích vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” (Lưu Quang Vũ).

c. Triển khai vấn đề nghị luận thành các luận điểm

Học sinh có thể triển khai theo nhiều cách, nhưng cần vận dụng tốt các thao tác lập luận, kết hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và dẫn chứng. Dưới đây là một vài gợi ý cần hướng tới:

1.     Vài nét về tác giả, tác phẩm  

– Nguyễn Minh Châu (1930 – 1989) là một tác gia tiêu biểu của nền văn xuôi hiện đại Việt Nam. Hành trình sáng tác của ông trải qua hai thời kỳ, thời kỳ chống Mỹ và thời kỳ đổi mới sau 1975. Ở thời kỳ đổi mới, Nguyễn Minh Châu được coi là một trong những cây bút tiên phong và đạt được nhiều thành tựu xuất sắc. Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” sáng tác năm 1983 là một truyện ngắn đặc sắc của Nguyễn Minh Châu trong chặng đường văn thời kỳ đổi mới. Truyện xoáy sâu vào bức tranh hiện thực của đời sống người lao động thuyền chài ở một vùng ven biển miền Trung. Trong truyện ngắn này, tác giả đã khắc hoạ thành công nhân vật người đàn bà hàng chài, một người phụ nữ bất hạnh nhưng có nhiều phẩm chất cao quý.

– Lưu Quang Vũ (1948 – 1988) là một hiện tượng đặc biệt của sân khấu kịch Việt Nam những năm tám mươi của thế kỷ XX.Ông được coi là nhà soạn kịch tài năng nhất của nền văn học nghệ thuật Việt nam hiện đại. Tác phẩm của ông toát lên một ý vị triết lí và nhân sinh về đời người, kiếp người. Ông có nhiều tác phẩm kịch gây chấn động dư luận , trong đó có vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”. Trong đoạn trích ( cảnh 7) của vở kịch, tác giả đã diễn tả sâu sắc bi kịch của nhân vật Hồn Trương Ba, một con người phải sống “bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo”.

– Nêu ý kiến cần nghị luận

2. Giải thích ý kiến

– Cái mới: là sự mới mẻ, tiến bộ, khác biệt với cái cũ đã qua, không còn phù hợp với hoàn cảnh mới; – hướng nội: là hướng vào bên trong; – số phận cá nhân trong những hoàn cảnh phức tạp, đời thường : đi vào đời tư của con người trong hoàn cảnh éo le, nghịch lí, đa dạng, muôn màu, muôn vẻ của cuộc sống hằng ngày.

– Thực chất của nhận định là khẳng định sự đổi mới của văn học Việt Nam từ sau năm 1975 so với văn học giai đoạn 1945-1975.

3. Cảm nhận số phận hai nhân vật để làm rõ nhận định

a. Cảm nhận số phận người đàn bà hàng chài    

* Nội dung

- Là một người phụ nữ có ngoại hình xấu, lam lũ, vất vả và bất hạnh

+ Theo câu chuyện bà kể, từ nhỏ bà đã là “một đứa con gái xấu, lại rỗ mặt”

+ Từ khi có chồng, cuộc đời bà trở nên vất vả : thuyền chật, con đông, có khi cả nhà “toàn ăn cây xương rồng luộc chấm muối”…

+ Nghệ sĩ Phùng chứng kiến tận mắt bà bị chồng đánh trên bờ biển. Còn chánh án Đẩu thì nhận xét : “Ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng…”

- Cách ứng phó trước số phận:      

+ Mặc dù có một số phận bất hạnh nhưng người phụ nữ ấy lại là người sống kín đáo, hiểu đời và giàu lòng vị tha: Sắc sảo, hiểu đời ( nhận xét về Đẩu, Phùng); Giàu lòng vị tha ( lí giải, cảm thông về sự tàn bạo của chồng)       

+ Phẩm chất tốt đẹp nhất của người đàn bà là lòng thương con vô hạn, giàu đức hi sinh: Cam chịu, nhẫn nhục khi bị chồng đánh; Xin với toà án đừng bắt mình phải bỏ chồng; Lí giải : tất cả là vì con.   

* Nghệ thuật :

– Tình huống truyện độc đáo. Ngôn ngữ nhân vật sinh động, phù hợp với tính cách

– Lời văn giản dị mà sâu sắc, đa nghĩa.

b. Cảm nhận số phận đầy bi kịch của nhân vật Hồn Trương Ba    * Nội dung    

– Bi kịch tha hoá của nhân vật Trương Ba trong đoạn trích bắt đầu bằng lớp thứ nhất của cảnh 7, đó là màn đối thoại giữa Hồn Trương ba và Xác hàng thịt.

+ Hồn Trương Ba muốn thoát khỏi xác hàng thịt để sống độc lập.

+ Xác hàng thịt khẳng định là không được, còn chế giễu, khiến Hồn Trương Ba đau khổ, tuyệt vọng.  

 – Bi kịch Hồn Trương Ba được đẩy lên tới đỉnh điểm, cao trào ở màn đối thoại giữa Hồn Trương Ba với những người thân. Đó là bi kịch bị từ chối.   

– Nỗi đau khổ của vợ, của cháu Gái và của con dâu Trương Ba.   

– Hồn Trương Ba đau đớn trước những đau khổ của người thân. Ông tìm được giải pháp là phải gặp Đế Thích.   

- Bi kịch của nhân vật Hồn Trương Ba được kết thúc trong màn đối thoại với Đế Thích- Bi kịch “bên ngoài một đằng, bên trong một nẻo”.

+ Đề Thích muốn Trương Ba phải sống bằng bất cứ giá nào. + Trương Ba cương quyết từ chối cuộc sống hồn này- xác nọ. + Không thuyết phục được Trương Ba, Đế Thích đành thuận theo yêu cầu và ý muốn của Trương Ba.

– Ứng xử của Trương Ba trước tình trạng bi kịch đó :    

+ Trương Ba không chấp nhận buông xuôi: khi không thể thay đổi được xác hàng thịt để xác có thể hoà hợp với hồn, Trương Ba quyết định từ bỏ mối quan hệ với cái xác ấy :”chẳng lẽ nào ta lại chịu thua mày…”,”không cần đến cái đời sống do mày mang lại”.    

+ Khẳng định mạnh mẽ nhu cầu được sống là mình: “không thể bên ngoài một đằng, bên trong một nẻo”. Với Trương Ba, nhu cầu sống cuối cùng vẫn được đánh giá cao hơn nhu cầu tồn tại. Đặt ra vấn đề “sống như thế nào”là biểu hiện của ý thức cao về sự sống và cách sống để có một cuộc sống hạnh phúc và có ý nghĩa.    

+ Trong đoạn kết, Trương Ba được giải thoát khỏi bi kịch. Đoạn kết vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” gợi cho độc giả, khán giả nhiều bâng khuâng. Hồn Trương Ba không theo Đế Thích về trời để chơi cờ, mà lại hóa thành màu xanh của cây vườn, vị thơm ngon của trái na, vẫn quấn quýt với người thân, gần gũi nơi bậc cửa, trong ánh lửa, nơi cầu ao, trong cơi trầu, con dao… của vợ con thương yêu. Cho dù thân cát bụi lại trở về cát bụi, nhưng hồn Trương Ba cao khiết vẫn bất tử trong cõi đời. Cái kết đầy chất thơ ấy đã làm cho tư tưởng nhân văn tỏa sáng tác phẩm.  

* Nghệ thuật:    

– Hành động của nhân vật phù hợp với hoàn cảnh, tính cách, thể hiện sự phát triển của tình huống kịch;    

– Những đoạn đối thoại nội tâm của Hồn Trương Ba góp phần thể hiện rõ tính cách nhân vật và quan niệm về kẽ sống đúng đắn.    

– Đặc biệt, đoạn trích rất thành công trong việc xây dựng đối thoại. Những đối thoại giàu kịch tính, đậm chất triết lí góp phần tạo nên chiều sâu cho vở kịch.

4.Nét tương đồng và khác biệt giữa hai nhân vật trong việc thể hiện “ tính chất hướng nội, quan tâm nhiều hơn tới số phận cá nhân trong những hoàn cảnh phức tạp, đời thường”      

Nét tương đồng: Cả hai tác giả đều đặt nhân vật trong tình huống éo le, bất ngờ, ngang trái của cuộc sống, khai thác thế giới nội tâm vô cùng phong phú, phức tạp. Dù nhân vật là con người bình thường hay mượn cốt truyện dân gian để thể hiện, các nhân vật đều có số phận đầy bi kịch. Nhưng cuối cùng, họ đều có cách ứng xử rất nhân văn, thể hiện vẻ đẹp tâm hồn cao cả, làm xúc động lòng người.      

Nét khác biệt: - Số phận nhân vật người đàn bà hàng chài tiêu biểu cho hàng triệu người phụ nữ miền biển nói riêng, phụ nữ Việt Nam nói chung thời hậu chiến. Đói nghèo, thất học…là nguyên nhân chính gây ra bi kịch gia đình. Qua số phận của bà, Phùng, Đẩu và chúng ta “ngộ” ra biết bao điều: cuộc sống không hoàn toàn như ta nhìn thấy bên ngoài. Nếu chỉ nhìn bằng cái nhìn của người ngoài cuộc, ta chỉ thấy biểu hiện bên ngoài sự việc mà cái bên ngoài không phải bao giờ cũng thống nhất với cái bên trong. Chỉ có thể nhìn nhận một cách thấu đáo về con người cũng như về cuộc sống khi tự biến mình thành người trong cuộc, khi nhìn nhận không chỉ nên dùng lí trí để xét đoán mà phải dùng tấm lòng vị tha để mà cảm thông.       – Số phận nhân vật Hồn Trương Ba được khai thác qua ba cuộc đối thoại giữa Hồn và Xác, giữa Hồn với người thân, giữa Hồn với Đế Thích. Tha hoá, sống trong dung tục…là nguyên nhân gây ra bi kịch cá nhân và ảnh hưởng đến gia đình. Qua bi kịch của Hồn Trường Ba, nhà văn gửi gắm bức thông điệp đầy triết lí nhân sinh và thấm đẫm nhân văn: Được sống làm người là rất quý giá song được sống đúng là mình, sống trọn vẹn giá trị mà mình vốn có và theo đuổi còn quý giá hơn. Sự sống chỉ có ý nghĩa khi con người được sống tự nhiên với sự hài hoà giữa thể xác và tâm hồn. Con người phải luôn luôn biết đấu tranh với những nghịch cảnh, với chính bản thân, chống lại sự dung tục để hoàn thiện nhân cách và vươn tới những giá trị tinh thần cao quý.

d. Chính tả, ngữ pháp

Đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ pháp Tiếng Việt.

e. Sáng tạo

- Thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận; có cách diễn đạt mới mẻ.

Lời giải

Những chi tiết miêu tả nhân vật hoạ sĩ trong văn bản: người dỏng cao, gương mặt buồn đẹp, xanh xao. Ngón tay thanh tú trắng muốt nâng li cà phê, mắt trầm ngâm ông nhìn những chiếc lá vàng bị gió bứt ào ào rơi ngoài cửa sổ.

Lời giải

Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.

Nâng cấp VIP

Lời giải

Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.

Nâng cấp VIP