Nuôi cháu bảy năm trời, mãi cho đến khi nó đã mười hai, bà cho nó đi làm con nuôi người ta lấy mười đồng. Thì cải mả cho bố nó đã mất tám đồng rồi. Còn hai đồng bà dùng làm vốn đi buôn, kiếm mỗi ngày dăm ba xu lãi nuôi thân. Có chạy xạc cả gấu váy, hết chợ gần đến chợ xa, thì mới kiếm nổi mỗi ngày mấy đồng xu. Sung sướng gì đâu! Ấy thế mà ông trời ông ấy cũng chưa chịu để yên. Năm ngoái đấy, ông ấy còn bắt bà ốm một trận thập tử nhất sinh. Có đồng nào hết sạch. Rồi chết thì không chết nhưng bà lại bị mòn thêm rất nhiều sức lực. Chân tay bà đã bắt đầu run rẩy. Người bà thỉnh thoảng tự nhiên bủn rủn. Đang ngồi mà đứng lên, hai mắt cũng hoa ra. Đêm nằm, xương cốt đau như giần. Đi đã thấy mỏi chân. Như vậy thì còn buôn bán làm sao được? Nghĩ đến nắng gió bà đã sợ.
Tuy vậy mà bà vẫn phải ăn. Chao ôi! Nếu người ta không phải ăn thì đời sẽ giản dị biết bao? Thức ăn không bao giờ tự nhiên chạy vào mồm. Có làm thì mới có ăn. Nhưng bây giờ yếu đuối rồi, bà không còn kham được những việc nặng nề, cũng không còn chịu đựng được nắng sương. Bà phải kiếm việc nhà, việc ở trong nhà. Ở làng này, chỉ có việc bế em, như một con bé mười một, mười hai tuổi. Mới đầu còn có nhiều người muốn thuê. Ai cũng nghĩ rằng: những bà già tính cẩn thận và ăn chẳng bao nhiêu, bữa lưng bữa vực thế nào cũng đủ no; mà đã không no các cụ cũng chỉ lặng im, không ấm ức như những đồ trẻ nhãi, hơi một tí cũng đem chuyện nhà chủ đi kể với đủ mọi người hàng xóm… Nhưng thuê bà được ít lâu, tự nhiên người ta chán. Người ta nhận ra rằng: thuê một đứa trẻ con lại có phần thích hơn. Trẻ con cạo trọc đầu. Những lúc tức lên, có muốn cốc nó dăm ba cái thì cứ cốc. Chẳng ai kêu: ác! Nhưng bà lão đầu đã bạc. Người ta tức bà đến gần sặc tiết ra đằng mũi cũng không thể giúi đầu bà xuống mà cốc. Cũng không thể chửi. Mắng một câu, đã đủ mang tiếng là con người tệ. Mà bà thì lẩm cẩm, chậm chạp, lì rì. Bà rờ như thể xẩm rờ. Tay bà, đưa bát cơm lên miệng cũng run run. Cơm vương vãi. Tương mắm rớt ra mâm, rớt xuống yếm bà, rớt cả vào đầu tóc, mặt mũi, quần áo đứa bé nằm ở lòng bà. Rồi hơi trái gió, trở trời, bà lại đau mình. Suốt đêm bà thở dài với rên rẩm kêu trời. Có khi bà lại khóc lóc, hờ con. Nghe rợn cả người. Như vậy thì chịu làm sao được? Ấy thế là người ta lại phải tìm cớ tống bà đi. Bà lại phải gạ gẫm ở cho nhà khác… Không đầy một năm trời bà thay đổi đến năm, sáu chủ. Mỗi lần đổi chủ là một lần hạ giá. Thoạt tiên cơm nuôi tháng một đồng. Rồi cơm nuôi tháng năm hào. Rồi cơm nuôi, một năm bốn đồng. Rồi hai đồng. Rồi chẳng có đồng nào. Đến nước ấy mà cũng chẳng ma nào chịu được. Một hôm, người chủ cuối cùng sai bà xách hai cái lọ đi kín nước. Bà bảo: bà chỉ có thể mang một lọ. Y đã lấy sự ấy làm khó chịu, nhưng cố nhịn. Nhưng một lọ cũng không xong. Bà xách một lọ nước đầy, ở dưới cầu ao bước lên bờ, chẳng biết bẩy rẩy thế nào mà ngã khuỵu xuống, vỡ tan cái lọ và què một bên tay. Nghe tiếng bà kêu, chủ nhà phải chạy ra đỡ bà về. Không ai có thừa cơm nuôi báo cô bà. Y bèn đãi bà năm hào cho bà về hưu trí. Từ ngày ấy đến nay tính ra đã hơn ba tháng rồi.
(Trích Một bữa no – Nam Cao)
Xác định nội dung chính của văn bản trên
Nuôi cháu bảy năm trời, mãi cho đến khi nó đã mười hai, bà cho nó đi làm con nuôi người ta lấy mười đồng. Thì cải mả cho bố nó đã mất tám đồng rồi. Còn hai đồng bà dùng làm vốn đi buôn, kiếm mỗi ngày dăm ba xu lãi nuôi thân. Có chạy xạc cả gấu váy, hết chợ gần đến chợ xa, thì mới kiếm nổi mỗi ngày mấy đồng xu. Sung sướng gì đâu! Ấy thế mà ông trời ông ấy cũng chưa chịu để yên. Năm ngoái đấy, ông ấy còn bắt bà ốm một trận thập tử nhất sinh. Có đồng nào hết sạch. Rồi chết thì không chết nhưng bà lại bị mòn thêm rất nhiều sức lực. Chân tay bà đã bắt đầu run rẩy. Người bà thỉnh thoảng tự nhiên bủn rủn. Đang ngồi mà đứng lên, hai mắt cũng hoa ra. Đêm nằm, xương cốt đau như giần. Đi đã thấy mỏi chân. Như vậy thì còn buôn bán làm sao được? Nghĩ đến nắng gió bà đã sợ.
Tuy vậy mà bà vẫn phải ăn. Chao ôi! Nếu người ta không phải ăn thì đời sẽ giản dị biết bao? Thức ăn không bao giờ tự nhiên chạy vào mồm. Có làm thì mới có ăn. Nhưng bây giờ yếu đuối rồi, bà không còn kham được những việc nặng nề, cũng không còn chịu đựng được nắng sương. Bà phải kiếm việc nhà, việc ở trong nhà. Ở làng này, chỉ có việc bế em, như một con bé mười một, mười hai tuổi. Mới đầu còn có nhiều người muốn thuê. Ai cũng nghĩ rằng: những bà già tính cẩn thận và ăn chẳng bao nhiêu, bữa lưng bữa vực thế nào cũng đủ no; mà đã không no các cụ cũng chỉ lặng im, không ấm ức như những đồ trẻ nhãi, hơi một tí cũng đem chuyện nhà chủ đi kể với đủ mọi người hàng xóm… Nhưng thuê bà được ít lâu, tự nhiên người ta chán. Người ta nhận ra rằng: thuê một đứa trẻ con lại có phần thích hơn. Trẻ con cạo trọc đầu. Những lúc tức lên, có muốn cốc nó dăm ba cái thì cứ cốc. Chẳng ai kêu: ác! Nhưng bà lão đầu đã bạc. Người ta tức bà đến gần sặc tiết ra đằng mũi cũng không thể giúi đầu bà xuống mà cốc. Cũng không thể chửi. Mắng một câu, đã đủ mang tiếng là con người tệ. Mà bà thì lẩm cẩm, chậm chạp, lì rì. Bà rờ như thể xẩm rờ. Tay bà, đưa bát cơm lên miệng cũng run run. Cơm vương vãi. Tương mắm rớt ra mâm, rớt xuống yếm bà, rớt cả vào đầu tóc, mặt mũi, quần áo đứa bé nằm ở lòng bà. Rồi hơi trái gió, trở trời, bà lại đau mình. Suốt đêm bà thở dài với rên rẩm kêu trời. Có khi bà lại khóc lóc, hờ con. Nghe rợn cả người. Như vậy thì chịu làm sao được? Ấy thế là người ta lại phải tìm cớ tống bà đi. Bà lại phải gạ gẫm ở cho nhà khác… Không đầy một năm trời bà thay đổi đến năm, sáu chủ. Mỗi lần đổi chủ là một lần hạ giá. Thoạt tiên cơm nuôi tháng một đồng. Rồi cơm nuôi tháng năm hào. Rồi cơm nuôi, một năm bốn đồng. Rồi hai đồng. Rồi chẳng có đồng nào. Đến nước ấy mà cũng chẳng ma nào chịu được. Một hôm, người chủ cuối cùng sai bà xách hai cái lọ đi kín nước. Bà bảo: bà chỉ có thể mang một lọ. Y đã lấy sự ấy làm khó chịu, nhưng cố nhịn. Nhưng một lọ cũng không xong. Bà xách một lọ nước đầy, ở dưới cầu ao bước lên bờ, chẳng biết bẩy rẩy thế nào mà ngã khuỵu xuống, vỡ tan cái lọ và què một bên tay. Nghe tiếng bà kêu, chủ nhà phải chạy ra đỡ bà về. Không ai có thừa cơm nuôi báo cô bà. Y bèn đãi bà năm hào cho bà về hưu trí. Từ ngày ấy đến nay tính ra đã hơn ba tháng rồi.
(Trích Một bữa no – Nam Cao)
Xác định nội dung chính của văn bản trên
Quảng cáo
Trả lời:
Đáp án
Cuộc sống vất vả của bà lão khi trải qua một cơn bệnh thập tử nhất sinh.
Giải thích
Đọc toàn bộ đoạn trích, xác định nhân vật được tác giả miêu tả là người bà và một chuỗi các sự kiện được diễn ra:
+ Phải cho cháu đi ở đợ, lấy tiền cải mả cho con trai và làm vốn buôn bán.
+ Bị ốm nặng và không đủ sức buôn bán, phải đi “bế em”.
+ Đi làm cho nhiều nhà nhưng vì ốm đau nên cũng bị đuổi đi.
Tổng hợp thông tin, xác định nội dung chính của đoạn là: sự vất vả của người bà sau một trận ốm. Vì văn bản không nói tới khía cạnh thời gian, bà bị đuổi đi do sức khỏe yếu, không nhanh nhẹn nên loại A, B, D.
Câu hỏi cùng đoạn
Câu 2:
Từ “cải mả” (gạch chân, in đậm) trong văn bản trên có nghĩa là
Từ “cải mả” (gạch chân, in đậm) trong văn bản trên có nghĩa là
Đáp án
bốc mộ.
Giải thích
Dựa trên hiểu biết cá nhân và việc giải nghĩa từ để xác định: “cải mả”: làm lại khu mộ cho người chết (theo tục xưa, người chết được chôn dưới đất sau một vài năm sẽ được chuyển sang một khu mới, xây cất cố định). Hoặc áp dụng phương pháp loại trừ, xác định, nội dung ngữ liệu không nhắc tới các hoạt động để tang (bà cho đứa cháu đi làm con nuôi rồi mới cải mả) và việc liên quan tới quá trình cúng giỗ.
Câu 3:
Theo văn bản, vì sao ban đầu những người trong làng lại muốn thuê bà lão làm công việc chăm sóc trẻ nhỏ cho gia đình họ?
Theo văn bản, vì sao ban đầu những người trong làng lại muốn thuê bà lão làm công việc chăm sóc trẻ nhỏ cho gia đình họ?
Đáp án
Người già được đánh giá là có tính cẩn thận hơn và không có nhiều đòi hỏi so với bọn trẻ con.
Giải thích
Đọc và tìm kiếm thông tin trong văn bản: Mới đầu còn có nhiều người muốn thuê. Ai cũng nghĩ rằng: những bà già tính cẩn thận và ăn chẳng bao nhiêu, bữa lưng bữa vực thế nào cũng đủ no; mà đã không no các cụ cũng chỉ lặng im, không ấm ức như những đồ trẻ nhãi, hơi một tí cũng đem chuyện nhà chủ đi kể với đủ mọi người hàng xóm…
Câu 4:
Theo văn bản, vì sao bà lão cứ phải chuyển hết từ nhà này sang nhà khác?
Theo văn bản, vì sao bà lão cứ phải chuyển hết từ nhà này sang nhà khác?
Đáp án
Sức khỏe bị suy kiệt khiến bà đau ốm thường xuyên và không làm được việc.
Giải thích
Đọc và tìm kiếm thông tin trong văn bản: Mà bà thì lẩm cẩm, chậm chạp, lì rì. Bà rờ như thể xẩm rờ; Rồi hơi trái gió, trở trời, bà lại đau mình. Suốt đêm bà thở dài với rên rẩm kêu trời. Có khi bà lại khóc lóc, hờ con. Tổng hợp thông tin và xác định, nguyên nhân chính dẫn tới việc người ta lại phải tìm cớ tống bà đi là bà lão thường đau yếu, không làm được hết công việc mà chủ nhà giao.
Câu 5:
Hành động của người chủ nhà sau khi bà lão bị gãy tay cho thấy điều gì?
Hành động của người chủ nhà sau khi bà lão bị gãy tay cho thấy điều gì?
Đáp án
Bà lão là gánh nặng và chủ nhà muốn đuổi đi cho khỏi rắc rối.
Giải thích
Đọc và xác định thông tin trong văn bản: “Nghe tiếng bà kêu, chủ nhà phải chạy ra đỡ bà về. Không ai có thừa cơm nuôi báo cô bà. Y bèn đãi bà năm hào cho bà về hưu trí. Từ ngày ấy đến nay tính ra đã hơn ba tháng rồi”. Từ đó xác định, bà lão vốn đã yếu nay lại không thể làm việc được nên khoản tiền nhằm mục tiêu đuổi bà lão đi mà chủ nhà không gặp bất cứ rắc rối hay phiền hà nào. Cần chú ý, chủ nhà đưa khoản tiền vì chỉ muốn không cần “nuôi báo cô bà” chứ không phải vì lo lắng hay cảm thấy có lỗi khi sai bà mang lọ đi lấy nước – một việc có vẻ rất nặng nhọc với những người già.
Hot: 1000+ Đề thi cuối kì 1 file word cấu trúc mới 2025 Toán, Văn, Anh... lớp 1-12 (chỉ từ 60k). Tải ngay
- Tuyển tập 15 đề thi Đánh giá tư duy Đại học Bách Khoa Hà Nội 2025 (Tập 1) ( 39.000₫ )
- Tuyển tập 30 đề thi đánh giá năng lực Đại học Quốc gia Hà Nội 2025 (Tập 1) ( 39.000₫ )
- Tuyển tập 30 đề thi đánh giá năng lực Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh (2 cuốn) ( 140.000₫ )
- Tuyển tập 30 đề thi đánh giá năng lực Đại học Quốc gia Hà Nội, TP Hồ Chí Minh (2 cuốn) ( 150.000₫ )
CÂU HỎI HOT CÙNG CHỦ ĐỀ
Câu 1
Lời giải
Đáp án
Việt Nam, Phi-lip-pin.
Giải thích
- Dựa vào bản đồ + bảng chú giải -> Xác định mật độ dân số của các quốc gia ở Đông Nam Á.
- Các quốc gia có mật độ dân số trên 200 người/km2 là Việt Nam, Xin-ga-po và Phi-lip-pin.
- Các quốc gia có mật độ dân số từ 100 đến 200 người/km2 là Thái Lan, In-đô-nê-xi-a.
- Các quốc gia có mật độ dân số dưới 100 người/km2 là Lào, Mi-an-ma, Cam-pu-chia, Ma-lai-xi-a, Bru-nây và Ti-mo Lét-xtê.
-> Các quốc gia có mật độ dân số cao nhất ở Đông Nam Á là Việt Nam, Xin-ga-po và Phi-lip-pin.
Lời giải
Đáp án
nghệ thuật.
Giải thích
Đây là một tác phẩm thơ, do đó phong cách ngôn ngữ văn bản là nghệ thuật.
Câu 3
Lời giải
Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.
Câu 4
Lời giải
Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.
Câu 5
Lời giải
Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.
Câu 6
Lời giải
Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.