Câu hỏi:
13/07/2024 12,605Trong bài thơ Tiếng Việt, nhà thơ Lưu Quang Vũ viết:
Tiếng tha thiết, nói thường nghe như hát
Kể mọi điều bằng ríu rít âm thanh
Như gió nước không thể nào nắm bắt
Dấu huyền trầm, dấu ngã chênh vênh.
Đoạn thơ trên muốn nói về vẻ đẹp gì của tiếng Việt? Em hãy viết một đoạn văn nêu lên suy nghĩ của mình về vẻ đẹp ấy. (10 mẫu)
Sách mới 2k7: Tổng ôn Toán, Lí, Hóa, Văn, Sử, Địa…. kỳ thi tốt nghiệp THPT Quốc gia 2025, đánh giá năng lực (chỉ từ 110k).
Quảng cáo
Trả lời:
Dàn ý Đoạn văn nêu suy nghĩ của em về vẻ đẹp của tiếng Việt trong bài thơ Tiếng Việt (Lưu Quang Vũ)
- Mở đoạn: Giới thiệu về đoạn thơ
- Thân đoạn: Vẻ đẹp của Tiếng Việt qua đoạn thơ:
+ Hệ thống thanh điệu giúp Tiếng Việt phong phú về âm điệu
+ Có khả năng diễn tả mọi phương diện, mọi cung bậc cảm xúc của cuộc sống, con người Việt một cách giản dị, gần gũi
+ Cũng nhờ có dấu thanh mà tiếng nói trầm bổng như bản nhạc tha thiết, nói nghe như hát. Mỗi lời nói cũng giống như lời hát thì thầm, trầm bổng vang vọng giữa đất trời.
- Kết đoạn: Cảm nhận chung của em về đoạn thơ và Tiếng Việt.
Mẫu 1
Người Việt Nam ngày nay có đầy đủ lí do và bằng chứng để tự hào về tiếng Việt của mình. Vẻ đẹp của tiếng Việt đến từ mọi khía cạnh, đến từ cả sự giàu đẹp và đa dạng của tiếng Việt. Âm điệu của tiếng Việt đa dạng và trầm bổng nhờ hệ thống 4 dấu gồm: huyền, sắc, hỏi, ngã, nặng. Hơn nữa, ở mỗi vùng miền, thanh âm và âm điệu của người dân mỗi vùng miền lại khác nhau, làm nên sự đa dạng và màu sắc địa phương của tiếng Việt. Nếu như giọng Bắc rắn rỏi, cứng cáp thì giọng Trung chất phác hiền lành, giọng Nam lại hào phóng, sảng khoái. Vẻ đẹp của tiếng Việt còn đẹp từ sự đa dạng của từ ngữ, của hệ thống biện pháp tu từ và hệ thống dấu câu, hệ thống kiểu câu. Kiểu câu thì tiếng Việt có: câu phủ định, câu nghi vấn, câu cảm thán, câu cầu khiến... Dấu câu thì tiếng Việt có: dấu chấm, dấu phẩy, dấu chấm than, dấu chấm lửng sử dụng trong nhiều tình huống và hoàn cảnh giao tiếp khác nhau. Rồi từ láy, từ ghép, từ đồng nghĩa và từ đồng âm trong tiếng Việt làm nên sự đa dạng và giàu đẹp đáng tự hào của tiếng Việt. Hơn nữa, nhờ sự giàu đẹp của tiếng Việt ấy mà biết bao thể loại văn học của nước nhà ra đời, như thể thơ lục bát truyền thống của dân tộc, hoặc các bài vè, hò, ca dao, tục ngữ đa dạng, phong phú. Ngôn ngữ tiếng Việt chính là thứ ngôn ngữ đã đồng hành cùng nhân dân suốt bao năm tháng lịch sử, nên nó không chỉ là phương thức giao tiếp mà còn là thứ ngôn ngữ chứa đựng biết bao tình cảm tốt đẹp của nhân dân, là ngôn ngữ chứa đựng hồn cốt dân tộc Việt Nam. Nhà viết kịch Lưu Quang Vũ đã từng viết "Tiếng tha thiết, nói thường nghe như hát/Kể mọi điều bằng ríu rít âm thanh/Như gió nước không thể nào nắm bắt/Dấu huyền trầm, dấu ngã chênh vênh.". Chính ngôn ngữ cũng giúp chúng ta nắm giữ được chiếc chìa khóa để giành lại được độc lập, tự do. Tóm lại, vẻ đẹp của tiếng Việt đến từ sự đa dạng và ý nghĩa cao cả thiêng liêng của ngôn ngữ mẹ đẻ của nhân dân Việt Nam.
Mẫu 2
Đoạn thơ trên nói về sự đa dạng phong phú của thanh điệu tiếng Việt. Tiếng Việt là thứ ngôn ngữ hay, giàu âm điệu nhưng cũng rất khó bởi hệ thống thanh điệu với 6 dấu thanh: thanh ngang, thanh huyền, thanh sắc, thanh hỏi, thanh ngã và thnah nặng. Những thanh điệu này khiến cho lời nói có giai điệu gợi hình, gợi thanh, gợi cảm, có ý nghĩa sâu xa, có khả năng diễn tả mọi phương diện, mọi cung bậc cảm xúc của cuộc sống, con người Việt một cách giản dị, gần gũi. Cũng nhờ có dấu thanh mà tiếng nói trầm bổng như bản nhạc tha thiết, nói nghe như hát “Đất nước mình ôi đẹp biết bao/ từng ngọn núi, con sông mang trong mình cái tên bất bủ/ Tôn Đức Thắng, Hồ Chí Minh vẫn còn vang vọng…”. Mỗi lời nói cũng giống như lời hát thì thầm, trầm bổng vang vọng giữa đất trời, ấy là nhờ sự giàu có, phong phú của thanh điệu Tiếng Việt. Bản thân mỗi người cần có ý thức trách nhiệm trong việc gìn giữ, bảo vệ và phát triển Tiếng Việt.
Mẫu 3
Tiếng Việt là một ngôn ngữ giàu tính nhạc. Thật vậy, chúng ta thấy ngôn ngữ tiếng Việt có hệ thống dấu thanh rất đa dạng. Mỗi một dấu thanh khi sử dụng giống như một nốt nhạc. Với những thanh bằng như huyền, ngang giống như những nốt trầm. Những thanh trắc như sắc hỏi, ngã nặng lại giống như những thanh cao. Tiếng Việt còn có hệ thống ngữ âm rất phong phú lại rất đa dạng về ngữ nghĩa. Ông cha ta vẫn thường hay nói “Phong ba bão táp không bằng ngữ pháp Việt Nam”. Là một người dân Việt Nam chúng ta có quyền tự hào về sự giàu đẹp của tiếng Việt. Chúng ta cũng cần có trách nhiệm giữu gìn sự giàu đẹp ấy.
Mẫu 4
Nhiều người vẫn thường nói rằng tiếng Việt là một thứ tiếng có nhạc tính vì nó có thanh điệu. Tiếng Việt có một hệ thống từ tượng thanh phong phú. Nó có thể mô phỏng âm thanh của tiếng mưa, tiếng gió, của tiếng cười, tiếng nước chảy, tiếng chim hót,... Tiếng Việt không những chỉ có vẻ đẹp về âm thanh, nó còn có vẻ đẹp của việc chuyển tải ý nghĩa. Em yêu tiếng Việt vô cùng bởi nó đẹp và là tiếng mẹ đẻ của mình. Tuy vậy, em biết rằng những thứ tiếng khác trên thế giới cũng đều có vẻ đẹp riêng.
Mẫu 5
Đoạn thơ trên nói về sự đa dạng phong phú của thanh điệu tiếng Việt. Những thanh điệu trong Tiếng Việt khiến cho lời nói có giai điệu gợi hình, gợi thanh, gợi cảm, có ý nghĩa sâu xa, có khả năng diễn tả mọi phương diện, mọi cung bậc cảm xúc của cuộc sống, con người Việt một cách giản dị, gần gũi. Cũng nhờ có dấu thanh mà tiếng nói trầm bổng như bản nhạc tha thiết, nói nghe như hát. Mỗi lời nói cũng giống như lời hát thì thầm, trầm bổng vang vọng giữa đất trời, ấy là nhờ sự giàu có, phong phú của thanh điệu Tiếng Việt. Bản thân mỗi người cần có ý thức trách nhiệm trong việc gìn giữ, bảo vệ và phát triển Tiếng Việt
Mẫu 6
Bài thơ đã ngợi ca sự giàu đẹp của tiếng Việt: vừa giản dị, mộc mạc, vừa phong phú, sâu sắc. Tiếng Việt có sức sống mạnh mẽ, thẫm đẫm vẻ đẹp linh hồn dân tộc, có giá trị bồi đắp tâm hồn, tình yêu dân tộc. Bằng lời thơ chân thành, hình ảnh thơ giàu giá trị biểu cảm, Lưu Quang Vũ đã thể hiện tình yêu, niềm tự hào, sự trân trọng đối với tiếng Việt thiêng liêng. Đọc bài thơ, ta càng thêm trân quý ngôn ngữ của dân tộc và giật mình trước hiện tượng một bộ phận giới trẻ hiện nay đang ngày càng lạm dụng ngôn ngữ nước ngoài.
Mẫu 7
Nhà thơ đã sáng tạo nên một thế giới hình ảnh sinh động, gợi cảm để tái hiện cội nguồn lịch sử tiếng nói dân tộc. Tiếng Việt không phải là một khái niệm trừu tượng mà là tiếng mẹ gọi, tiếng cha dặn, tiếng kéo gỗ, tiếng gọi đò, là câu hát lời ru “rung rinh nhịp đập trái tim”... nghĩa là tất cả những gì gần gũi, thân thiết, máu thịt nhất đối với mỗi người; là thứ tiếng lấm láp giọt mồ hôi mặn chát, những giọt nước mắt cay đắng và cả những tâm tình sâu lắng, ngọt ngào, say đắm. Tiếng Việt là thứ tiếng của Tình yêu và Lao động.Có thể xem hai câu thơ: “Ôi tiếng Việt như đất cày, như lụa/ Óng tre ngà và mềm mại như tơ” là những câu thơ hay nhất của bài thơ. Đó là một sự phát hiện, đúc kết sâu sắc về đặc trưng tiếng nói, bản sắc dân tộc: vừa mộc mạc, chân chất, khoẻ khoắn, vừa mềm mại, dịu dàng, mát mẻ, vừa cứng cỏi lại vừa óng ả, tinh tế, bay bổng... Những hình ảnh “đất cày”, “lụa”, “tre ngà”, “tơ” đều gần gũi, quen thuộc, mang đậm bản sắc dân tộc.
Hai câu thơ đẹp, lung linh sắc màu, càng đọc, càng suy ngẫm càng thấy thấm thía, xúc động.Lưu Quang Vũ đã có những phát hiện mới mẻ về sức mạnh kì diệu của tiếng Việt: là dòng sông chảy muôn đời lưu giữ truyền thống yêu nước, nhân ái của con người Việt Nam, là biển lớn của tinh thần hoà hợp dân tộc. Sức mạnh quân sự của kẻ thù có thể chia cắt đất nước về mặt ranh giới địa lí nhưng không thể chia cắt khối thống nhất vĩ đại của lịch sử, văn hoá, ngôn ngữ dân tộc. Tiếng Việt trở thành sợi dây nối liền tâm hồn, tư tưởng của mọi thành viên trong cộng đồng cũng như những người con xa xứ, lưu lạc. Từ mối liên hệ với lịch sử, tác giả đã xem tiếng Việt như là một nhân tố tạo nên sự bền vững muôn đời của dân tộc.Tính nhân dân là hạt nhân tư tưởng của bài thơ. Tác phẩm thấm đẫm cảm xúc kính trọng, tự hào, yêu thương nhân dân. Nhân dân là những người đã lao động, sáng tạo, đã đổ mồ hôi, công sức vun đắp cho tiếng Việt ngày càng giàu đẹp hơn và chịu đựng gian khổ, hi sinh, đổ máu để cho tiếng Việt mãi mãi là tiếng nói của một dân tộc có chủ quyền. Tiếng Việt là thứ tiếng cất lên từ bờ tre, mái rạ, từ trong cuộc sống lam lũ, khổ nghèo của những người kéo gỗ, chèo đò, dệt lụa, lặn ngòi ngoi nước, ăn cầu ngủ quán... trải qua những ngày chia cắt, giặc giã, khói lửa với những nỗ lực, hi sinh âm thầm của bao thế hệ con người.Điều kì diệu là tiếng Việt sản sinh trong cuộc sống lao động và chiến đấu ấy lại là một thứ tiếng ngọt ngào, đằm thắm, tha thiết, thấm đẫm yêu thương dịu dàng, trong trẻo “như dòng sông thương mến chảy muôn đời”. Suy cho cùng thì vẻ đẹp, sự kì diệu của tiếng Việt cũng là vẻ đẹp, sự kì diệu của tâm hồn nhân dân, dân tộc. Bài thơ cũng phản ánh không khí của một thời, khi mà cả dân tộc đang phải vận dụng, phát huy tất cả nguồn sức mạnh tổng hợp để đối đầu với một kẻ thù hùng mạnh hơn gấp nhiều lần.
Mẫu 8
Tiếng Việt của Lưu Quang Vũ là một bài thơ hấp dẫn, vừa Đẹp, vừa Hay, có ý nghĩa giáo dục lòng yêu nước, tinh thần dân tộc. Ai đã được tiếp xúc với Tiếng Việt của Lưu Quang Vũ thì không dễ quên. Tiếng Việt trở thành sợi dây nối liền tâm hồn, tư tưởng của mọi thành viên trong cộng đồng cũng như những người con xa xứ, lưu lạc. Từ mối liên hệ với lịch sử, tác giả đã xem tiếng Việt như là một nhân tố tạo nên sự bền vững muôn đời của dân tộc. Câu thơ: Tiếng Việt ơi tiếng Việt ân tình cho thấy những ân tình của tiếng Việt, những giá trị cao cả mà tiếng Việt bồi đắp và dẫn dắt. Đồng thời câu thơ cũng nhắc nhở chúng ta về tình cảm mến yêu tha thiết, ý thức trách nhiệm của mỗi người trong việc gìn giữ, bảo vệ tiếng Việt.
Mẫu 9
Cùng với quá trình hội nhập thế giới, sự giao thoa văn hóa xã hội đòi hỏi ngôn ngữ phải có những thay đổi để đáp ứng các nhu cầu giao tiếp mới. Từ khi nước ta bắt đầu hội nhập thì ngôn ngữ cũng dần dần xuất hiện những hiện tượng mới mẻ. Những từ ngữ mới, cách diễn đạt mới được hình thành để thêm vào những khái niệm, ngữ nghĩa mà trong vốn tiếng Việt trước đó còn thiếu vắng. Cùng với mặt tích cực ấy, mặt tiêu cực cũng biểu hiện với không ít các cách nói, cách viết “khác lạ” trong giới trẻ làm mất đi hoàn toàn bản sắc vốn có của tiếng Việt. Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của con người và xã hội loài người, đảm bảo một mặt truyền đạt và hiểu biết lẫn nhau của các thành viên xã hội. Ngôn ngữ không chỉ truyền đạt thông tin mà còn tác động đến nhân cách, hình thành nhân cách và biến đổi theo chiều hướng tốt hoặc xấu. Ngôn ngữ không chỉ là tấm gương phản chiếu thụ động đời sống xung quanh mà còn can thiệp vào bức tranh thế giới nhân cách, vào văn hóa ngôn ngữ của nó, đặt vào nó nhãn quan thế giới, chỉnh sửa, làm biến đổi nhân cách một cách hợp lý. Vấn đề giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt trong giai đoạn hiện nay đã trở thành vấn đề cấp bách, cần sự chung tay của các lực lượng xã hội. Chủ thể của nhận thức và hành động, giới trẻ đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc góp phần giữ gìn sự trong sáng và giàu đẹp của tiếng Việt trên cơ sở “kế thừa và phát huy truyền thống đi đôi với việc sáng tạo những giá trị mới phù hợp với tinh thần thời đại…”.
Mẫu 10
Tiếng Việt của Lưu Quang Vũ là một bài thơ hấp dẫn, vừa Đẹp, vừa Hay, có ý nghĩa giáo dục lòng yêu nước, tinh thần dân tộc. Ai đã được tiếp xúc với Tiếng Việt của Lưu Quang Vũ thì không dễ quên. Mặc dù bài thơ không có trong chương trình giáo dục phổ thông, song được rất nhiều người yêu mến thuộc lòng.
CÂU HỎI HOT CÙNG CHỦ ĐỀ
Câu 1:
Câu nào dưới đây là bằng chứng làm rõ cho ý kiến: Tiếng Việt rất đẹp về tính nhạc?
Câu 2:
Biện pháp liên kết chủ yếu nào được sử dụng để liên kết văn bản ở phần (2)?
Câu 4:
Tính mạch lạc trong phần (2) đoạn trích được thể hiện như thế nào?
Câu 5:
Câu “Nhiều người ngoại quốc sang thăm nước ta và có dịp nghe tiếng nói của quần chúng nhân dân ta, đã có thể nhận xét rằng: tiếng Việt là một thứ tiếng giàu chất nhạc." và câu “Họ không hiểu tiếng ta, và đó là một ấn tượng, ấn tượng của người “nghe” và chỉ nghe thôi." trong phần (2) đoạn trích đóng vai trò gì?
Đề kiểm tra học kì 2 Văn 7 Chân trời sáng tạo có đáp án (Đề 4)
Đề thi Giữa Học kì 1 Văn 7 CTST - Đề 02 có đáp án
Đề thi Giữa Học kì 1 Văn 7 KNTT có đáp án (Đề 1)
Đề kiểm tra Cuối Học kì 1 Văn 7 Cánh diều - Đề 01 có đáp án
Đề kiểm tra học kì 2 Văn 7 Cánh diều có đáp án (Đề 5)
Đề thi cuối học kì 1 Văn 7 CTST - Đề 02 có đáp án
Đề thi Học kì 1 Văn 7 KNTT có đáp án (Đề 1)
Đề kiểm tra học kì 2 Văn 7 Kết nối tri thức có đáp án (Đề 5)
về câu hỏi!