Câu hỏi:
19/12/2024 1,126THƯƠNG VỢ VÀ NHÂN CÁCH TRẦN TẾ XƯƠNG
(Thái Văn Phú)
Trần Tế Xương, quả thực, đã sinh ra và lớn lên trong một thời kì đầy biến động dữ dội của lịch sử: sự ổn định của rường cột hàng nghìn năm chế độ phong kiến đã đến thời kì lung lay, rệu rã; cái miên viễn của sơn hà, xã tắc đột nhiên bị trấn áp lạnh lùng bởi tàu đồng, súng nổ từ phương Tây xa lạ; những bổn phận bình ổn của Nho giáo đã nhường chỗ cho thời kì mưa Âu, gió Mĩ, Tây Tàu nhố nhăng, Á Âu lẫn lộn,… Người nho sĩ đất thành Nam ấy đã lặng lẽ lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ để chứng kiến thời kì của Nho học đã kiểm đến những tiếng chuông nguyện hồn ai cuối cùng. Giữa dòng đời lạc lõng, ngu ngơ của những kẻ đành cam chịu thân phận vứt bút lông đi, nắm bút chì, điểm tựa và chốn nương thân vững chãi cuối cùng của Trần Tế Xương vẫn là gia đình, là đàn con đông đúc và người vợ đang lặng lẽ đầy bao dung đón đợi. Tình cảm ấy, bến đợi ấy đã góp phần níu giữ hồn thơ làng Vị Xuyên để giúp trái tim ông cất lên thành một trong những bài thơ hay và cảm động nhất về người phụ nữ, bài thơ Thương vợ!
1. Bà Tú – thân cò lặn lội…
Trong một xã hội trọng tình của nền văn minh nông nghiệp và nền văn hóa làng xã chủ yếu chỉ giới hạn sau lũy tre làng, buôn bán chưa hẳn đã là một cái nghề được nhiều người lựa chọn và những bậc túc Nho chưa hẳn đã dễ dàng đồng tình, đồng thuận. Ấy thế mà quả kì lạ thay, một người như Trần Tế Xương, một nhà Nho trưởng thành trong vòng cương tỏa của chốn cửa Khổng, sân Trình lại viết về người vợ buôn bán bằng những câu thơ đầy cảm động:
Quanh năm buôn bán ở mom sông
Bảy tiếng của câu thơ buông ra như một thước phim quay chậm góp phần xác lập một cái nhìn có tính tổng thể về thời gian, địa điểm, công việc của bà Tú trong hành trình mưu sinh. Dòng thơ chùng chình, níu giữ người đọc bởi những thanh bằng như tiếng thở dài đầy ái ngại của người chồng trong cái nhìn lặng lẽ về phía người vợ đang dần dần khuất bóng, lẫn vào những con người nơi bến sông. Hai chữ quanh năm không chỉ là một trạng ngữ chỉ thời gian đơn thuần, đó còn là sự quẩn quanh, vô vị, thiếu vắng niềm vui. Cái xô đẩy, kì kèo mặc cả trong động từ buôn bán kết hợp với cái chông chênh của địa danh mom sông góp phần gợi ở người đọc những trường liên tưởng lớn. Ta có cảm giác bà Tú đang chới với, chênh vênh trong cái lặng lẽ, âm thầm đầy thương cảm. Sau cái thước phim có tính chất bao quát ấy, nhà thơ thành Nam lại lặng lẽ quay trở lại nơi mình đang hiện hữu để rồi bất chợt nhận ra:
Nuôi đủ năm con với một chồng
Nếu câu thơ mở đầu bằng nỗi vất vả, chông chênh, đầy nguy hiểm của bà Tú trong hành trình mưu sinh, thì câu thơ thứ hai lại nhấn mạnh đến phẩm chất đảm đang, tảo tần của người vợ. Hai chữ “nuôi đủ” gieo thanh trắc ở cuối cụm từ gợi âm hưởng về sự nặng nhọc, vất vả. Kết cấu của những số từ năm con đặt bên cạnh một chồng là biểu tượng cho gánh nặng gia đình đang đặt lên đôi vai gầy của người vợ, người mẹ tảo tần. Gánh nặng gia đình càng lớn, công việc buôn bán càng chông chênh thì ý nghĩa tôn vinh đằng sau cụm từ nuôi đủ lại có ý nghĩa, bởi bà Tú không chỉ thay chồng nâng đỡ cả một gia đình mà còn chu toàn cho một người chồng vốn dĩ không chỉ có một cái lăng nhăng trong những uẩn ức của một sĩ tử thất bại. Hơn ai hết, Trần Tế Xương thấu hiểu cho điều đó. Bởi vậy, hai câu thơ sau buông ra như là một sự kìm nén những giọt nước trên khóe mắt khi trong trái tim nước mắt đã đầy tràn:
Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông
Hình ảnh thân cò lặn lội bờ sông trong ca dao đã tội nghiệp nhưng nó còn có cảm giác vững vàng, chủ động; thân cò trong thơ Trần Tế Xương đã được đặt xuống sau động từ lặn lội giữa một không gian rộng lớn, vắng lặng càng làm tăng lên cảm giác về cái bé nhỏ, rợn ngợp, đầy xót thương với những tiếng bước chân bì bõm trong chốn mom sông đầy chấp chới, ngả nghiêng và đơn độc. Thủ pháp đối xứng trong thơ Đường luật góp phần vẽ nên những gam màu của bức tranh đầy sự tương phản về thân phận con người: bên kia lặn lội một mình, bên này kì kèo mặc cả; bên kia lẻ loi, lam lũ, bên này ồn ào, xô đẩy,… nhìn ở chiều không gian nào cũng đều biểu hiện một bóng hình người vợ tảo tần, quên hết bản thể giữa chốn chợ đầy rẫy sự đua chen, xô bồ, hối hả. Ngoài kia, thế giới mưu sinh dẫu xuôi ngược, ồn ào đầy đua chen, được mất thì trong này, tấm lòng của người vợ, người mẹ vẫn lắng dịu một giai điệu của lòng vị tha, của đức hi sinh kì diệu:
Một duyên, hai nợ, âu đành phận
Năm nắng, mười mưa, dám quản công.
Những số từ mang màu sắc thành ngữ: một duyên, hai nợ (hạnh phúc thì ít, vất vả, lam lũ thì nhiều); năm nắng, mười mưa (sự dãi dầu trong sương gió) dường như chưa phải là những thanh âm đọng lại ở hai câu thơ này. Người đọc xúc động và yêu quý biết bao cái tâm thế sống được nhẹ nhàng buông ra ở hai cụm từ: âu đành phận; dám quản công. Thanh trắc gieo vần ở cuối câu thơ: Một duyên, hai nợ, âu đành phận có chút gợi lên âm thanh của tiếng thở dài, nhưng nó chỉ rất nhẹ, rất khẽ như cơn gió thoảng qua. Đó cũng chính là cái nhẹ nhàng thoảng qua như hơi thở khi nghĩ đến công lao mình trong cụm từ dám quản công đầy bao dung của một người phụ nữ hết lòng vì chồng, vì con. Được quên đi bản thể, được hi sinh cho gia đình, với bà Tú, đó cũng là niềm hạnh phúc. Bởi người phụ nữ ấy hiểu rằng, cái chờ đợi mình trước ngưỡng cửa gia đình sau hành trình mưu sinh xuôi ngược, không gì khác đó chính là tấm lòng, là nhân cách người chồng Trần Tế Xương!
2. Trần Tế Xương – bến đợi của tấm lòng và nhân cách…
Dấn thân vào con đường khoa cử với khát vọng lập công, lập danh, để lại tiếng tắm cho đời những mong làm rạng danh tiên tổ, hơn ai hết, Trần Tế Xương hiểu rằng, mình sẽ vĩnh viễn là một ông quan ăn lương vợ. Bởi vậy, người đàn ông sinh bất phùng thời ấy chấp nhận một sự hoán đổi không mong muốn: người chèo chống con thuyền gia đình giữa dòng đời xuôi ngược là vợ; bến đợi âm thầm đang mơ tưởng vào tương lai lại chính là mình. Bến đợi âm thầm đèn sách, hăm hở lều chõng lên đường trong muôn dặm của niềm tin và hi vọng nhưng rồi đón đợi cuối con đường vẫn là sự thất bại trong suốt cả quãng đời tuổi trẻ. Giữa những nỗi chán chường, thậm chí phẫn uất của một sĩ tử hỏng thi, Trần Tế Xương vẫn gạt sang một bên nỗi chua chát cho thân phận, dành hết tất cả những gì trân trọng, thương yêu nhất cho người vợ tảo tần mà bấy lâu nay ông đã ngầm mặc định đó là con thuyền chuyên chở cả gia đình giữa sóng gió ngược xuôi. Thương vợ được cất lên từ tiếng lòng đầy cảm thông và biết ơn chân thành của Tú Xương dành cho vợ. Ông đã hóa thân vào bà Tú để nói hộ cho nỗi vất vả, hi sinh của người phụ nữ. Ở thế giới mênh mông ngoài kia, Tú Xương là một kẻ thất bại, nhưng đằng sau cánh cửa gia đình, ông vẫn là một người chồng với nhân cách đáng trân trọng bởi tấm lòng đồng cảm, sẻ chia với người vợ của mình. Vẻ đẹp ấy vượt lên trên tất cả những ràng buộc, những bổn phận, những khắt khe đương thời để dám bày tỏ, dám ngợi ca, dám tôn vinh người vợ một cách công khai, trực tiếp với xã hội ồn ào, nhốn nháo. Như vậy, rõ ràng, đằng sau nỗi vất vả, lam lũ, bà Tú hoàn toàn có thể tự hào về một người chồng như vậy. Dẫu có đôi lúc, người chồng ấy vẫn không khỏi có tâm trạng đầy phẫn uất của một kẻ sĩ bất đắc chí:
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,
Có chồng hờ hững cũng như không
Tiếng chửi ấy là tấn bi kịch chua chát cho những kẻ sĩ đương thời khi cảm nhận được tất cả những mơ ước, khát vọng về một con đường hoạn lộ thênh thang phía trước đã bắt đầu khép lại. Cái xã hội phong kiến thời điểm ấy đã trở thành một tấm áo quá chật với những cá tính và bản lĩnh như Trần Tế Xương. Đến đây, những lí tưởng trổ tài kinh bang tế thế nhằm đổi thay và gánh vác sơn hà ở Tú Xương có lẽ đã không còn. Ở ông chỉ còn lại khao khát được đỗ đạt để làm sang mặt vợ, để gánh vác đỡ đần cho gia đình, vợ con, nhưng rút cục cũng tan biến vào hư không. Nhà thơ làng Vị Xuyên ấy thấu hiểu biết bao nỗi phất uất, chua chát của những chuyển động ngược chiều trong khát vọng và thực tiễn: có trên con đường hoạn lộ; thương yêu vợ con mà đành bất lực trước dòng đời đen bạc… Chút còn lại cuối cùng đó là nỗi niềm tủi hổ của một nhân cách đáng trọng, dám thừa nhận sai lầm, thiếu sót, sự vô dụng của bản thân và không chối bỏ trách nhiệm. Người nho sĩ ấy đã dám nhìn thẳng, nói thật, dám công khai thiếu sót của bản thân trước cộng đồng xã hội, đó thực sự là một thái độ sống dũng cảm và đầy bản lĩnh. Thừa nhận cái vô dụng của mình, Trần Tế Xương đang gián tiếp tôn vinh, đề cao công lao và sự hi sinh quên mình của bà Tú dành cho ông cùng những đứa con trong suốt cả một hành trình gánh gồng đầy vất vả. Vợ vị tha, chồng đồng cảm; vợ bao dung, chồng thấu hiểu; vợ hi sinh, chồng ca ngợi… đó quả thực là những thanh âm đẹp từ đời sống của một cặp vợ chồng không dễ lặp lại trong suốt cả dòng chảy thơ ca trung đại Việt Nam mười thế kỉ.
Như vậy, quả thực, Thương vợ đã đem lại một làn gió mới mẻ thổi vào thi đàn trung đại những hương vị mới. Người phụ nữ đã bước vào thơ không chỉ bằng những giọt nước mắt xót xa, thương cảm, họ đã đàng hoàng bước vào thơ Trần Tế Xương bằng cảm hứng ca ngợi đề cao, tôn vinh. Bằng cái nhìn ấy, Tú Xương đã thể hiện một cái nhìn đầy tinh thần nhân văn, nhân bản về con người, đặc biệt là người phụ nữ. Đọc Thương vợ, người ta đồng cảm với nỗi vất vả của bà Tú; chia sẻ với bi kịch chua chát của một sĩ tử hổ bút, hổ nghiên/ tủi lều, tủi chõng, nhưng vượt lên trên hết, gam màu đọng lại trong mỗi chúng ta vẫn là cái êm dịu của tình cảm gia đình; cái thương yêu của tình chồng vợ; cái vẻ đẹp của lòng hi sinh, vị tha cao cả. Và như thế, Thương vợ sẽ vẫn còn có sức lay động lòng người nhiều thế hệ như lời của Tâm Nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến đã từng tiên tri, dự báo trong một đôi câu đối khóc bạn đầy cảm động:
Kìa ai chín suối Xương không nát
Ắt hẳn nghìn thu tiếng vẫn còn.
(Tạp chí Tao Đàn, số tháng 3 năm 2020)
Xác định luận đề (vấn đề nghị luận) của văn bản “Thương vợ” và nhân cách của Trần Tế Xương. Từ đó, em hãy đánh giá về mức độ phù hợp giữa nhan đề với vấn đề nghị luận của văn bản.
Quảng cáo
Trả lời:
- Luận đề: Vẻ đẹp hình tượng bà Tú trong bài thơ Thương vợ và vẻ đẹp nhân cách của Tú Xương được thể hiện qua tác phẩm.
- Nhan đề “Thương vợ” và nhân cách của Trần Tế Xương phù hợp với luận đề của văn bản, vì:
+ Nhan đề đã khái quát hai nội dung chính của văn bản.
+ Nhan đề tạo thế đối sánh, từ đó thể hiện rõ mục đích của văn bản: phân tích hình tượng bà Tú trong bài thơ “Thương vợ” để từ đó thấy được vẻ đẹp nhân cách của Tú Xương
Câu hỏi cùng đoạn
Câu 2:
Xác định hệ thống luận điểm của văn bản “Thương vợ” và nhân cách của Trần Tế Xương. Cho biết các thao tác nghị luận chính được sử dụng trong văn bản.
Lời giải của GV VietJack
- Hệ thống luận điểm của văn bản trên:
+ Luận điểm 1: Vẻ đẹp hình tượng bà Tú trong bài thơ Thương vợ.
+ Luận điểm 2: Vẻ đẹp tấm lòng và nhân cách của Tú Xương.
- Thao tác lập luận chính của văn bản: thao tác phân tích, chứng minh.
Câu 3:
Theo dõi luận điểm 1 của văn bản và cho biết: Người viết đã triển khai làm rõ luận điểm 1 thông qua những lí lẽ và bằng chứng tiêu biểu nào? Từ đó, em hãy đánh giá hiệu quả của cách triển khai trên.
Lời giải của GV VietJack
- Luận điểm 1: Vẻ đẹp hình tượng bà Tú trong bài thơ “Thương vợ”. Để làm rõ luận điểm này, người viết đã triển khai các lí lẽ và bằng chứng sau:
+ Lí lẽ 1: Bà Tú với công việc vất vả, nhọc nhằn và gánh nặng gia đình. Bằng chứng: hai câu thơ đầu của bài thơ.
+ Lí lẽ 2: Bà Tú với dáng vẻ đáng thương, tội nghiệp trên hành trình mưu sinh. Bằng chứng: hai câu 3 – 4 của bài thơ.
+ Lí lẽ 3: Bà Tú với vẻ đẹp của đức hi sinh, lòng vị tha. Bằng chứng: hai câu 5 – 6 của bài thơ.
- Nhận xét: Hệ thống lí lẽ, bằng chứng được triển khai để làm rõ luận điểm trên có tính thuyết phục. Lí lẽ được lập luận một cách xứng đáng, có cơ sở vững chắc từ văn bản. Bằng chứng tiêu biểu, phù hợp để làm sáng tỏ các lí lẽ phân tích.
Câu 4:
Mục đích của người viết văn bản “Thương vợ” và nhân cách của Trần Tế Xương là gì? Vấn đề tác giả nêu trong văn bản có ý nghĩa như thế nào đối với việc nghiên cứu văn học của nước nhà?
Lời giải của GV VietJack
- Mục đích viết:
+ Làm rõ vẻ đẹp hình tượng bà Tú trong bài thơ Thương vợ - một hình tượng nghệ thuật đầy cảm động và mang tính nhân văn sâu sắc. Từ đó khẳng định tiếng thơ của Tú Xương là một thanh âm đẹp trong dòng chảy thơ ca Việt Nam mười thế kỉ khi đã viết về người phụ nữ bằng cảm hứng ca ngợi, tôn vinh, đề cao.
+ Khẳng định vẻ đẹp nhân cách và tấm lòng của Tú Xương – một nhà thơ với bi kịch chua chát trước thời cuộc và thái độ sống trách nhiệm, dũng cảm, bản lĩnh.
- Vấn đề tác giả nêu trong văn bản có ý sâu sắc đối với việc nghiên cứu văn học của nhà nước vì qua việc tiếp nhận văn bản, độc giả nhận thấy được:
+ Tiếng thơ nhân bản, nhân văn, mới mẻ khi viết về hình tượng người phụ nữ trên thi đàn Việt Nam lúc bấy giờ.
+ Vẻ đẹp nhân cách của một nhà thơ độc đáo trong nền thơ ca Việt Nam.
Câu 5:
Phân tích những điểm đặc sắc của ngôn ngữ trong văn bản nghị luận “Thương vợ” và nhân cách của Trần Tế Xương.
Lời giải của GV VietJack
- Những điểm đặc sắc của ngôn ngữ trong văn bản nghị luận trên:
+ Phát huy hiệu quả biểu đạt của các câu khẳng định để gia tăng tính thuyết phục, khẳng định mạnh mẽ quan điểm của người viết về giá trị của bài thơ Thương vợ và vẻ đẹp nhân cách của Tú Xương.
+ Khai thác các yếu tố biểu cảm của ngôn từ để làm tăng sức truyền cảm cho các lí lẽ phân tích.
+ Phát huy tác dụng của các biện pháp liệt kê, cấu trúc điệp, nhân hóa, so sánh,… để tạo nên ấn tượng về biểu đạt, tác động sâu sắc đến những nhận thức và tình cảm của người đọc.
Hot: 500+ Đề thi thử tốt nghiệp THPT các môn, ĐGNL các trường ĐH... file word có đáp án (2025). Tải ngay
CÂU HỎI HOT CÙNG CHỦ ĐỀ
Lời giải
a. Đảm bảo cấu trúc bài văn nghị luận
- Học sinh biết tạo lập một bài văn nghị luận đảm bảo đủ cấu trúc 3 phần: Mở bài, Thân bài, Kết bài.
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận
Viết bài văn nghị luận đề xuất giải pháp xây dựng văn hóa giao tiếp cho người trẻ trong thời kì hội nhập hiện nay.
c Triển khai vấn đề nghị luận
- Chia vấn đề nghị luận thành các luận điểm, luận cứ phù hợp, có sức thuyết phục; sử dụng tốt các thao tác lập luận; biết kết hợp giữa nêu lí lẽ và đưa dẫn chứng.
- HS có thể triển khai theo những cách khác nhau, nhưng cần đảm bảo các ý cơ bản sau:
* Giới thiệu được vấn đề nghị luận và nêu khái quát quan điểm cá nhân về vấn đề nghị luận.
* Triển khai vấn đề cần nghị luận:
- Giải thích: Sự giản dị: vẻ đẹp giản đơn, mộc mạc, bình dị, thường không thu hút sự chú ý của con người – đó có thể là vẻ đẹp thuộc về phần sâu kín bên trong, là những giá trị tinh thần, những điều tử tế, lòng tốt bình thường xuất phát từ sự chân thành, thật tâm… chỉ có thể dùng trái tim để cảm nhận.
à Đôi khi trong cuộc sống trong dòng chảy trôi của thời gian chúng ta chỉ mải mê chạy theo những điều đẹp đẽ, lấp lánh hào nhoáng bóng bẩy bên ngoài mà quên rằng chính những điều bình thường giản dị xuất phát từ trái tim, từ tấm lòng mới là điều làm nên chân giá trị, ý nghĩa đích thực của đời sống này. Và con người chỉ cảm động tận đáy lòng trước những điều bình thường giản dị ấy.
- Bày tỏ quan điểm của người viết:
- Cuộc sống luôn phát triển đi lên theo chiều hướng hiện đại hơn, văn minh hơn, tiện nghi vật chất hơn – hình ảnh xã hội mà ở đó hiện diện thế giới vật chất hào nhoáng, đẹp đẽ, sang trọng, xa hoa… luôn có sức hấp dẫn khiến con người khát khao thèm muốn. Sự hào nhoáng, bóng bẩy trở thành thước đo giá trị cho cuộc đời giàu sang, tiện nghi mà con người mơ ước. Cái hào nhoáng, bóng bẩy còn thường đi liền với danh vọng, như một thứ trang sức làm đẹp nâng cao giá trị con người.
- Đối lập với hào nhoáng, bóng bẩy là cái bình thường, đời thường, dung dị, những điều này đã trở nên quá quen thuộc đến quen nhàm với cuộc sống con người nên con người có xu hướng bị thu hút bởi những thứ mới mẻ, đối lập, khác biệt là sự bóng bẩy, hào nhoáng kia.
- Nếu cái hào nhoáng bóng bẩy bên ngoài đi liền với thực tài, thực tâm, thực lực thì rất đáng được tôn vinh ngưỡng mộ. Nhưng đôi khi, càng hào nhoáng bên ngoài càng rỗng tuếch ở bên trong. Nếu con người mải mê chạy theo cái bóng bẩy bên ngoài có thể sẽ đánh mất chính mình, không tìm được chân giá trị cuộc sống.
- Sự giản dị là trạng thái chân thực của cuộc sống, gắn với những điều bình thường của tuổi thơ, trong gia đình, giữa những mối dây gắn kết thiêng liêng bền bỉ: tình yêu thương, sự chân thành không màu mè tô vẽ… Sự giản dị có thể không gây chú ý nhưng đủ khả năng làm ta xúc động, vì nó chạm đến phần sâu thẳm nhất của tâm hồn và bản chất đời sống này.
- Sự giản dị đời thường cho phép con người dừng chân, sống chậm lại, cảm cảm nhận cuộc sống trong tất cả những vẻ đẹp thân thuộc đến cũ kỹ nhưng tràn ngập tình yêu. Trước những điều giản dị, con người được thả lỏng bản thân, được là mình, chân thành, sâu sắc và nhẹ nhõm, được thanh lọc tâm hồn, trở về với những trong trẻo, nguyên sơ, thuần khiết nhất.
* Chứng minh: chọn dẫn chứng phù hợp, tiêu biểu, đâu là thói hư tật xấu, là tệ nạn xã hội không nên sa đà vào nó.
- Mở rộng, bày tỏ quan điểm trái chiều, hoặc ý kiến khác để có cái nhìn toàn diện hơn.
* Khẳng định lại quan điểm cá nhân và rút ra bài học cho bản thân.
- Theo đuổi những điều hào nhoáng, bóng bẩy bên ngoài không phải điều sai trái, bởi đó là những dán nhãn khẳng định vinh quang, thành công chúng ta có được sau nhiều nỗ lực cố gắng. Cho nên, con người có quyền tận hưởng/ theo đuổi nó. Xong cần xây dựng cho mình hình ảnh bên ngoài đẹp đẽ song hành với giá trị thực bên trong tương xứng. Xét cho cùng, vật chất không quyết định giá trị sống, và ý nghĩa cuộc sống.
- Cần nhận ra và biết trân trọng những điều đơn sơ, dung dị, nhỏ bé xung quanh mình: sự chân thành, tình yêu thương không màu mè tô vẽ, lối hành xử thật thà không trang sức… chỉ những điều mới đem đến niềm hạnh phúc thực sự và cuộc sống trọn vẹn ý nghĩa.
- Vẻ hào nhoáng gắn với giá trị nhất thời, còn cái giản dị, chân thành là giá trị bền vững/ mọi thời.
d. Chính tả, ngữ pháp
Đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ pháp Tiếng Việt.
e. Sáng tạo
- Bài viết có luận điểm rõ ràng, lập luận thuyết phục, diễn đạt trong sáng, bài viết thể hiện được sự sáng tạo, độc đáo riêng.
- Chữ viết sạch đẹp, rõ ràng, văn phong lưu loát; không mắc lỗi chính tả, lỗi dùng từ, đặt câu.
Lời giải
* Yêu cầu về hình thức, kĩ năng: Đảm bảo đoạn văn nghị luận có bố cục mạch lạc, sử dụng linh hoạt các kiểu câu và có sự liên kết chặt chẽ giữa các câu, các ý trong đoạn văn. Có cách diễn đạt trong sáng độc đáo, thể hiện những suy nghĩ, kiến giải mới mẻ về vấn đề nghị luận.
Yêu cầu về kiến thức:
Học sinh có thể triển khai theo nhiều cách, nhưng cần giới thiệu được vấn đề cần bàn luận, nêu rõ lí do và quan điểm của bản thân, hệ thống luận điểm chặt chẽ, lập luận thuyết phục, sử dụng dẫn chứng thuyết phục.
Sau đây là một hướng gợi ý:
+ Cách lựa chọn loại cây dân dã, gần với cuộc sống bùn đất quê mùa: cây chuối.
+ Mở đầu bài thơ, cảm nhận về một cây chuối biểu tượng.
+ Đến câu thứ hai, tác giả miêu tả đặc điểm của cây chuối.
+ Nhưng sức nặng của bài thơ là ở vào hai câu cuối cùng:
+ Câu kết bài thơ kết lại bằng 6 chữ: “Gió nơi đâu gượng mở xem”, dùng thủ pháp nhân hóa thể hiện liên tưởng nghệ thuật rất nghệ
Có sự sáng tạo trong cách viết
Lời giải
Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.
Lời giải
Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.
Lời giải
Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.
Lời giải
Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.
Đề kiểm tra Giữa kì 1 Ngữ Văn 12 Chân trời sáng tạo có đáp án (Đề 3)
Đề kiểm tra Giữa kì 1 Ngữ Văn 12 Kết nối tri thức có đáp án (Đề 4)
Đề kiểm tra Giữa kì 1 Ngữ Văn 12 Chân trời sáng tạo có đáp án (Đề 4)
Đề kiểm tra Giữa kì 1 Ngữ Văn 12 Chân trời sáng tạo có đáp án (Đề 2)
Đề kiểm tra Giữa kì 1 Ngữ Văn 12 Chân trời sáng tạo có đáp án (Đề 5)
Đề kiểm tra Giữa kì 1 Ngữ Văn 12 Kết nối tri thức có đáp án (Đề 1)
Bộ 10 đề thi cuối kì 1 Ngữ Văn lớp 12 Cánh diều có đáp án - Đề 7
Bộ 10 đề thi cuối kì 1 Ngữ Văn lớp 12 Chân trời sáng tạo có đáp án - Đề 4
Hãy Đăng nhập hoặc Tạo tài khoản để gửi bình luận