Câu hỏi:

25/06/2025 11

Thi sinh trình bày đầy đủ lời giải

Đồng vị phóng xạ Technetium-99 (\[{}_{43}^{99}Tc\]) được sử dụng rộng rãi trong y tế để chẩn đoán hình ảnh. Vào lúc 8h sáng, người bệnh được truyền một liều thuốc có chứa N0 = 5,0.109 hạt nhân \[{}_{43}^{99}Tc\] vào trong cơ thể.

Đồng vị phóng xạ Technetium-99 (\[{}_{43}^{99}Tc\]) được sử dụng rộng rãi trong y tế để chẩn đoán hình ảnh. Vào lúc 8h sáng, người bệnh được truyền một liều thuốc có chứa N0 = 5,0.109 hạt nhân \[{}_{43}^{99}Tc\] vào trong cơ thể.  a) Hình bên biểu diễn tỉ số giữa số hạt nhân \[{}_{43}^{99}Tc\] chưa bị phân rã phóng xạ N. so với số hạt nhân ban đầu N0 theo thời gian t. Tính N vào lúc 14h cùng ngày.  b) Trong thực tế, đồng vị \[{}_{43}^{99}Tc\] vừa bị phân rã phóng xạ vừa bị đào thải sinh học khỏi cơ thể. Cho biết số hạt nhân \[{}_{43}^{99}Tc\] do đào thải sinh học giảm dần theo thời gian cùng dạng hàm số mũ với số hạt nhân do phân rã phóng xạ. Thời gian để số hạt nhân \[{}_{43}^{99}Tc\] giảm đi một nửa do đào thải sinh học là 3 giờ.  Xét đồng thời cả hai quá trình phân rã phóng xạ và đào thải sinh học, tính số hạt nhân \[{}_{43}^{99}Tc\] còn lại trong cơ thể vào lúc 14h cùng ngày. (ảnh 1)

a) Hình bên biểu diễn tỉ số giữa số hạt nhân \[{}_{43}^{99}Tc\] chưa bị phân rã phóng xạ N. so với số hạt nhân ban đầu N0 theo thời gian t. Tính N vào lúc 14h cùng ngày.

b) Trong thực tế, đồng vị \[{}_{43}^{99}Tc\] vừa bị phân rã phóng xạ vừa bị đào thải sinh học khỏi cơ thể. Cho biết số hạt nhân \[{}_{43}^{99}Tc\] do đào thải sinh học giảm dần theo thời gian cùng dạng hàm số mũ với số hạt nhân do phân rã phóng xạ. Thời gian để số hạt nhân \[{}_{43}^{99}Tc\] giảm đi một nửa do đào thải sinh học là 3 giờ.

Xét đồng thời cả hai quá trình phân rã phóng xạ và đào thải sinh học, tính số hạt nhân \[{}_{43}^{99}Tc\] còn lại trong cơ thể vào lúc 14h cùng ngày.

Quảng cáo

Trả lời:

verified
Giải bởi Vietjack
Ý a)

Tử đồ thị ta thấy N / N0 = 0,5 sau 6 giờ. Do đó chu kỳ bán rã phóng xạ T1/2 = 6 giờ.

Từ 8h đến 14h cùng ngày cùng là 6 giờ.

Từ 8h đến 14h là 6 giờ tỉ số N/ N0 = 1/2. Do đó chu kỳ bán rã phóng xạ T1/2/= 6h.
Ban đầu có N0 = 5,0.109, sau 6 giờ, số hạt còn lại \[N = \frac{{{{5,0.10}^9}}}{2} = {2,5.10^9}\] hạt.
Ý b)

Thời gian để số hạt giảm đi một nửa do phóng xạ là: T1 = 6 giờ.

Thời gian để số hạt giảm đi một nửa do đào thải sinh học là: T2 = 3 giờ.

Thời gian để số hạt giảm đi một nửa do cả 2 quá trình là T, với \[\frac{1}{T} = \frac{1}{{{T_1}}} + \frac{1}{{{T_2}}}\]. Kết quả T = 2 giờ.

Sau t = 6 giờ, số hạt còn lại trong cơ thể:

N = 6,25.108 hạt

CÂU HỎI HOT CÙNG CHỦ ĐỀ

Câu 2

Lời giải

C. P là cực bắc của nam châm, dòng điện chạy trong mạch A theo chiều từ A đến B.

Lời giải

Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.

Nâng cấp VIP

Câu 4

Trong mỗi ý a), b), c), d) ở từng câu, thí sinh chọn đúng hoặc sai.

Khi khảo sát dao động điều hòa của con lắc đơn, một nhóm học sinh đưa ra giả thuyết: “Chu kì dao động của con lắc đơn phụ thuộc vào chiều dài dây treo và không phụ thuộc vào biên độ dao động". Để kiểm tra giả thuyết, nhóm học sinh đã chuẩn bị các dụng cụ gồm: một quả nặng nhỏ, dây treo nhẹ không giãn, giá đỡ, thước đo độ dài, đồng hồ bấm giây. Họ dùng giá đỡ treo quả nặng vào đầu sợi dây tạo thành con lắc đơn. Họ kích thích cho con lắc dao động tự do trong mặt phẳng thẳng đứng bằng cách kéo quả nặng lệch khỏi vị trí cân bằng một góc \[{\alpha _0}\] nhỏ (với \[{\alpha _0}\] <10°) sau đó thả nhẹ. Họ đo chu kì dao động bằng cách dùng đồng hồ bấm giây đo thời gian 10 dao động liên tiếp và lấy giá trị đọc được chia cho 10 (lấy trung bình). Kết quả cho thấy: khi tăng chiều dài 1 của dây treo thì chu kì dao động T cũng tăng; khi giữ nguyên chiều dài dây nhưng thay đổi góc \[{\alpha _0}\] (\[{\alpha _0}\] <10°) thì chu kì dao động không thay đổi.

a) Dụng cụ thí nghiệm của nhóm học sinh cần có các quả nặng khác nhau.

b) Việc đo chu kì trung bình từ nhiều dao động là một phương pháp hợp lí để giảm sai số. c) Kết quả thí nghiệm cho thấy chu kì dao động tăng tỉ lệ thuận với chiều dài dây treo.

d) Kết quả thí nghiệm cho thấy chu kì dao động không phụ thuộc vào biên độ dao động nhỏ.

Lời giải

Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.

Nâng cấp VIP

Câu 5

Lời giải

Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.

Nâng cấp VIP

Câu 6

Thi sinh trình bày đầy đủ lời giải

Vào thế kỷ XIX, Lord Kelvin đã đưa ra phương pháp “ống đo độ sâu” để đo độ sâu dưới mặt nước biển. Với phương pháp này, người ta sử dụng một ống chứa không khí có một đầu bịt kín, một đầu để hở. Thành trong của ống được phủ một lớp bột. Trong quá trình ống được đưa xuống nước tới độ sâu h (tính từ mặt nước), lượng không khí trong ống luôn không đổi. Khi ống được đưa trở lại trên mặt nước, bằng cách đo chiều dài đoạn ống đã bị rửa trôi bột, người ta có thể xác định được độ sâu h. Coi không khí trong ống là khí lí tưởng và nhiệt độ của nó không đổi. Cho biết khi ống được đưa xuống dưới nước, áp suất không khí p trong ống tăng lên theo công thức \[p = {p_0} + \rho gh\], với p0 là áp suất khí quyển trên mặt nước, \[\rho \] là khối lượng riêng của nước, g là gia tốc trọng trường.

a) Giải thích tại sao bột trong ống không bị nước rửa trôi hết mà chỉ bị rửa trôi một phần.

b) Một nhà khoa học sử dụng phương pháp “ống đo độ sâu” để nghiên cứu tập tính lặn của một loài chim biển. Nhà khoa học gắn các ống có chiều dài 6,5 cm vào các con chim. Khi chúng trở lại mặt nước, nhà khoa học thu hồi các ống và đo chiều dài đoạn ống đã bị rửa trôi bột. Kết quả cho thấy nước đã rửa trôi bột một đoạn dài lớn nhất 1,5 cm tính từ đầu hở của ống. Cho \[{p_0} = {1,013.10^5}Pa,\rho = 1030\,\,kg/{m^3},g = 9,80\,\,m/{s^2}.\] Tính độ sâu lớn nhất mà loài chim này lặn xuống.

Lời giải

Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.

Nâng cấp VIP