TỐNG TRÂN – CÚC HOA
(Truyện thơ Nôm khuyết danh)
(Trích)
Mẹ chồng thấy dâu thảo hiền
Đôi hàng nước mắt chảy liền như tuôn.
Khó nghèo có mẹ có con,
Ít nhiều gan sẻ (1) vẹn tròn cho nhau
Lòng con nhường nhịn bấy lâu
Mẹ ăn cơm ấy ngon đâu hỡi nàng
Cúc Hoa nước mắt hai hàng:
“Lạy mẹ cùng chàng chở quản (2) tôi
Gọi là cơm tấm cạnh lê (3)
Mẹ ăn đỡ dạ kéo khi võ vàng (4)
Chàng ăn cho sống mình chàng,
Dốc lòng kinh sử văn chương đạo là.
Kể chi phận thiếp đàn bà,
Khó nghèo chớ quản nỗi nhà thảm thương”.
Thương con mẹ giấu cho vàng,
Bảo rằng gìn giữ để nương tựa mình.
Cúc Hoa trong dạ đinh ninh:
“Lạy mẹ còn có chút tình thương con”.
Tức thì trở lại phòng môn,
Cầm tay đánh thức nỉ non bảo chồng:
“Chàng ơi xin tỉnh giấc nồng,
Nay vàng mẹ thiếp cho dùng một chương”
Kể đoạn Cúc Hoa bán vàng,
Bán cho trưởng giả giàu sang hơn người.
Hai bên giả cả hẳn hoi,
Bắc cân định giả được ngoài tám mươi.
Cúc Hoa trở lại thư trai (5)
“Khuyên chàng kinh sử dùi mài cho hay.
Thiếp xin rước một ông thầy,
Để chàng học tập đêm ngày thiếp nuôi”.
Một ngày ba bữa chẳng rời,
Nuôi thầy, nuôi mẹ lại nuôi cả chồng.
Nàng thời nhiều ít cũng xong
Đói no chẳng quản miễn chồng làm nên.
Khấn trời lạy Phật đòi phen:
“Chứng minh phù hộ ước nguyền chồng tôi.
Khuyên chàng khuya sớm hôm mai,
Cố chăm việc học đua tài cho hay.
Một mai, có gặp rồng mây (6)
Bảng vàng may được tỏ bày họ tên (7)
Trước là sạch nợ bút nghiên (8)
Sau là thiếp cũng được yên lòng này”.
(Theo bản in của NXB Phổ thông Hà Nội năm 1961, Bùi Thức Phước sưu tầm & biên soạn, NXB Hội nhà văn, 2012)
Chú thích:
(1) Gạn sẻ: Gạn - chắt lọc và sẻ - chia sớt, chia nhỏ
(2) Quản: e ngại, ngại ngùng. Chở quản: không e ngại, quan tâm.
(3) Canh lê: canh nấu bằng rau lê; người nghèo thường ăn loại rau này.
(4) Võ vàng: gầy và da không hồng hào vì thiếu máu.
(5) Thư trai: phòng đọc sách, phòng học
(6) Rồng mây: hội rồng mây, cơ hội người đi thi đậu làm nên danh phận cao sang như rồng gặp mây.
(7) Bảng vàng: bảng màu vàng dùng để ghi tên thí sinh thi đỗ.
(8) Nợ bút nghiên: cha mẹ lo cho ăn học, thầy dạy cho chữ nghĩa. Đó là nợ của học trò.
(Tóm tắt tác phẩm: Tống Trân là con cầu tự của một cự phủ ở huyện Phù Hoa, đời vua Thái Tông. Lên ba tuổi thì cha mất, lên tám tuổi thì phải dắt mẹ đi ăn mày. Hôm ấy, Tống Trân dắt mẹ tới nhà của một trưởng giả, con gái của trưởng giả thương tình mang gạo ra cho thì bị cha bắt gặp, bèn bắt nàng lấy Tống Trân làm chồng, và đuổi khéo ra khỏi nhà. Dù vậy, Cúc Hoa vẫn chăm chỉ việc nhà, nàng bán cả vàng mẹ cho để rước thầy về dạy chồng học. Học được nửa năm, vua mở hội thi. Tống Trân tham dự kỳ thi cùng năm nghìn công sĩ. Chàng đậu Trạng nguyên được vua ban áo mão và gả công chúa cùng tuổi cho chàng. Tống Trân lấy nhà nghèo mà từ chối, được vua cho vinh quy bái tổ. Chưa vui sum họp được bao ngày thì Tống Trân phải từ biệt Cúc Hoa về triều nhận chiếu chỉ đi sứ nước Tẩn dài tới mười năm do vua nghe lời tấu xin của công chúa. Tới nước Tần, nhờ trí thông minh và tài khôn khéo Tống Trận không chỉ thoát được những lần hãm hại mà còn giúp vua Tần xử nhiều vụ án rắc rối. Thế nên từ tâm trạng khinh ghét vua Tần chuyển sang mến phục, phong cho “lưỡng quốc Trạng nguyên” và gả công chúa cho chàng. Một lần nữa Tống Trân viện cớ từ chối. Vua Tần không căm ghét mà lại cho xây nhà ở nội thành giúp vua. Ở quê nhà, Cúc Hoa một lòng một dạ, làm lụng vất vả nuôi mẹ, chờ chồng. Thấy Tống Trân bảy năm chưa về, trưởng giả sai người gọi Cúc Hoa về. Khuyến dụ con gái không được, trưởng giả bèn nhốt và hành hạ nàng. Trưởng giả còn bắt mẹ của Tống Trân xuống ở trong chuồng trâu. Quá đau khổ và quyết thủ tiết chờ chồng, đêm hôm ấy Cúc Hoa trốn khỏi nhà. Đến núi Sơn Vi, nàng định quyên sinh. Thần Sơn Tinh hiểu rõ tình cảnh, hóa thành mãnh hổ, mang thư của nàng qua nước Tần trao tận tay Tống Trân. Nhận được thư, Tống Trân mang vào triều tâu lên vua. Vua Tần cảm động khen ngợi. Và đồng ý cho Tống Trân về nước trước kỳ hạn năm tháng. Tống Trân trả lời thư cho Cúc Hoa và nhờ mãnh hổ mang về.
Ở nhà, Phú ông đi tìm gặp và đưa Cúc Hoa về rao gả cho đình trưởng. Qua ba năm ở rể của đỉnh trưởng, trưởng giả tổ chức đám cưới linh đình. Cùng lúc ấy Tống Trân trên đường về. Tới đầu làng, biết rõ nguồn cơn, chàng đóng vai người ăn mày vào xin ăn. Chàng len lỗi khắp nhà, tai nghe mắt thấy cảnh Cúc Hoa khóc chồng, thương mẹ chồng, xuống chuồng trâu gặp và nói chuyện cùng mẹ. Tống Trân gặp và biết suy nghĩ, cách đối xử của tất cả mọi người trong tiệc cưới. Tới ngày đình trường rước dâu, Tống Trận cùng quân sĩ xuất hiện. Chàng xét xử phân minh, mẹ con và vợ chồng đoàn tụ.
Ở nước Tần, công chúa Bạch Hoa xin vua cha cho qua Nam Việt sum họp cùng Tống Trân. Giữa biển khơi đoàn ghe tàu bị giông bão đánh chìm, công chúa trôi dạt vào núi Cô Hồng, được bầy hươu rừng cứu sống, nuôi dưỡng. Tống Trân đi săn hươu gặp và đưa công chúa về nhà, phân chia ngôi thứ, gia đình hạnh phúc.)
Đặc điểm của truyện thơ trong văn bản trên là gì?
TỐNG TRÂN – CÚC HOA
(Truyện thơ Nôm khuyết danh)
(Trích)
Mẹ chồng thấy dâu thảo hiền
Đôi hàng nước mắt chảy liền như tuôn.
Khó nghèo có mẹ có con,
Ít nhiều gan sẻ (1) vẹn tròn cho nhau
Lòng con nhường nhịn bấy lâu
Mẹ ăn cơm ấy ngon đâu hỡi nàng
Cúc Hoa nước mắt hai hàng:
“Lạy mẹ cùng chàng chở quản (2) tôi
Gọi là cơm tấm cạnh lê (3)
Mẹ ăn đỡ dạ kéo khi võ vàng (4)
Chàng ăn cho sống mình chàng,
Dốc lòng kinh sử văn chương đạo là.
Kể chi phận thiếp đàn bà,
Khó nghèo chớ quản nỗi nhà thảm thương”.
Thương con mẹ giấu cho vàng,
Bảo rằng gìn giữ để nương tựa mình.
Cúc Hoa trong dạ đinh ninh:
“Lạy mẹ còn có chút tình thương con”.
Tức thì trở lại phòng môn,
Cầm tay đánh thức nỉ non bảo chồng:
“Chàng ơi xin tỉnh giấc nồng,
Nay vàng mẹ thiếp cho dùng một chương”
Kể đoạn Cúc Hoa bán vàng,
Bán cho trưởng giả giàu sang hơn người.
Hai bên giả cả hẳn hoi,
Bắc cân định giả được ngoài tám mươi.
Cúc Hoa trở lại thư trai (5)
“Khuyên chàng kinh sử dùi mài cho hay.
Thiếp xin rước một ông thầy,
Để chàng học tập đêm ngày thiếp nuôi”.
Một ngày ba bữa chẳng rời,
Nuôi thầy, nuôi mẹ lại nuôi cả chồng.
Nàng thời nhiều ít cũng xong
Đói no chẳng quản miễn chồng làm nên.
Khấn trời lạy Phật đòi phen:
“Chứng minh phù hộ ước nguyền chồng tôi.
Khuyên chàng khuya sớm hôm mai,
Cố chăm việc học đua tài cho hay.
Một mai, có gặp rồng mây (6)
Bảng vàng may được tỏ bày họ tên (7)
Trước là sạch nợ bút nghiên (8)
Sau là thiếp cũng được yên lòng này”.
(Theo bản in của NXB Phổ thông Hà Nội năm 1961, Bùi Thức Phước sưu tầm & biên soạn, NXB Hội nhà văn, 2012)
Chú thích:
(1) Gạn sẻ: Gạn - chắt lọc và sẻ - chia sớt, chia nhỏ
(2) Quản: e ngại, ngại ngùng. Chở quản: không e ngại, quan tâm.
(3) Canh lê: canh nấu bằng rau lê; người nghèo thường ăn loại rau này.
(4) Võ vàng: gầy và da không hồng hào vì thiếu máu.
(5) Thư trai: phòng đọc sách, phòng học
(6) Rồng mây: hội rồng mây, cơ hội người đi thi đậu làm nên danh phận cao sang như rồng gặp mây.
(7) Bảng vàng: bảng màu vàng dùng để ghi tên thí sinh thi đỗ.
(8) Nợ bút nghiên: cha mẹ lo cho ăn học, thầy dạy cho chữ nghĩa. Đó là nợ của học trò.
(Tóm tắt tác phẩm: Tống Trân là con cầu tự của một cự phủ ở huyện Phù Hoa, đời vua Thái Tông. Lên ba tuổi thì cha mất, lên tám tuổi thì phải dắt mẹ đi ăn mày. Hôm ấy, Tống Trân dắt mẹ tới nhà của một trưởng giả, con gái của trưởng giả thương tình mang gạo ra cho thì bị cha bắt gặp, bèn bắt nàng lấy Tống Trân làm chồng, và đuổi khéo ra khỏi nhà. Dù vậy, Cúc Hoa vẫn chăm chỉ việc nhà, nàng bán cả vàng mẹ cho để rước thầy về dạy chồng học. Học được nửa năm, vua mở hội thi. Tống Trân tham dự kỳ thi cùng năm nghìn công sĩ. Chàng đậu Trạng nguyên được vua ban áo mão và gả công chúa cùng tuổi cho chàng. Tống Trân lấy nhà nghèo mà từ chối, được vua cho vinh quy bái tổ. Chưa vui sum họp được bao ngày thì Tống Trân phải từ biệt Cúc Hoa về triều nhận chiếu chỉ đi sứ nước Tẩn dài tới mười năm do vua nghe lời tấu xin của công chúa. Tới nước Tần, nhờ trí thông minh và tài khôn khéo Tống Trận không chỉ thoát được những lần hãm hại mà còn giúp vua Tần xử nhiều vụ án rắc rối. Thế nên từ tâm trạng khinh ghét vua Tần chuyển sang mến phục, phong cho “lưỡng quốc Trạng nguyên” và gả công chúa cho chàng. Một lần nữa Tống Trân viện cớ từ chối. Vua Tần không căm ghét mà lại cho xây nhà ở nội thành giúp vua. Ở quê nhà, Cúc Hoa một lòng một dạ, làm lụng vất vả nuôi mẹ, chờ chồng. Thấy Tống Trân bảy năm chưa về, trưởng giả sai người gọi Cúc Hoa về. Khuyến dụ con gái không được, trưởng giả bèn nhốt và hành hạ nàng. Trưởng giả còn bắt mẹ của Tống Trân xuống ở trong chuồng trâu. Quá đau khổ và quyết thủ tiết chờ chồng, đêm hôm ấy Cúc Hoa trốn khỏi nhà. Đến núi Sơn Vi, nàng định quyên sinh. Thần Sơn Tinh hiểu rõ tình cảnh, hóa thành mãnh hổ, mang thư của nàng qua nước Tần trao tận tay Tống Trân. Nhận được thư, Tống Trân mang vào triều tâu lên vua. Vua Tần cảm động khen ngợi. Và đồng ý cho Tống Trân về nước trước kỳ hạn năm tháng. Tống Trân trả lời thư cho Cúc Hoa và nhờ mãnh hổ mang về.
Ở nhà, Phú ông đi tìm gặp và đưa Cúc Hoa về rao gả cho đình trưởng. Qua ba năm ở rể của đỉnh trưởng, trưởng giả tổ chức đám cưới linh đình. Cùng lúc ấy Tống Trân trên đường về. Tới đầu làng, biết rõ nguồn cơn, chàng đóng vai người ăn mày vào xin ăn. Chàng len lỗi khắp nhà, tai nghe mắt thấy cảnh Cúc Hoa khóc chồng, thương mẹ chồng, xuống chuồng trâu gặp và nói chuyện cùng mẹ. Tống Trân gặp và biết suy nghĩ, cách đối xử của tất cả mọi người trong tiệc cưới. Tới ngày đình trường rước dâu, Tống Trận cùng quân sĩ xuất hiện. Chàng xét xử phân minh, mẹ con và vợ chồng đoàn tụ.
Ở nước Tần, công chúa Bạch Hoa xin vua cha cho qua Nam Việt sum họp cùng Tống Trân. Giữa biển khơi đoàn ghe tàu bị giông bão đánh chìm, công chúa trôi dạt vào núi Cô Hồng, được bầy hươu rừng cứu sống, nuôi dưỡng. Tống Trân đi săn hươu gặp và đưa công chúa về nhà, phân chia ngôi thứ, gia đình hạnh phúc.)
Quảng cáo
Trả lời:

Có sự việc, cốt truyện, nhân vật và được kể bằng văn vần.
Câu hỏi cùng đoạn
Câu 2:
Các nhân vật được nhắc đến và xuất hiện trong đoạn truyện là những ai?
Các nhân vật được nhắc đến và xuất hiện trong đoạn truyện là những ai?

Tống Trân, Cúc Hoa, mẹ Tống Trân (người mẹ chồng), mẹ Cúc Hoa, trưởng giả
Câu 3:
Đoạn thoại sau là lời của ai nói với ai, về vấn đề gì?
“Chàng ơi xin tỉnh giấc nồng,
Nay vàng mẹ thiếp cho dùng một chương”
Đoạn thoại sau là lời của ai nói với ai, về vấn đề gì?
“Chàng ơi xin tỉnh giấc nồng,
Nay vàng mẹ thiếp cho dùng một chương”

Cúc Hoa nói với Tống Trân về việc mẹ nàng cho vàng để phòng thân.
Câu 4:
Hình ảnh mẹ chồng hiện lên qua các câu thơ sau như thế nào?
Mẹ chồng thấy dâu thảo hiền
Đôi hàng nước mắt chảy liền như tuôn.
Khó nghèo có mẹ có con,
Ít nhiều gan sẻ vẹn tròn cho nhau
Hình ảnh mẹ chồng hiện lên qua các câu thơ sau như thế nào?
Mẹ chồng thấy dâu thảo hiền
Đôi hàng nước mắt chảy liền như tuôn.
Khó nghèo có mẹ có con,
Ít nhiều gan sẻ vẹn tròn cho nhau

Cảm động, yêu thương con dâu.
Câu 5:
Lời thoại “Lạy mẹ còn có chút tình thương con” là kiểu lời thoại nào? Của ai với ai?
Lời thoại “Lạy mẹ còn có chút tình thương con” là kiểu lời thoại nào? Của ai với ai?

Lời độc thoại Cúc Hoa nói với chính mình.
Câu 6:
Từ Gạn sẻ được giải nghĩa trong văn bản là: Gạn - chắt lọc và sẻ - chia sớt, chia nhỏ. Việc giải thích nghĩa của từ bằng cách gì?
Từ Gạn sẻ được giải nghĩa trong văn bản là: Gạn - chắt lọc và sẻ - chia sớt, chia nhỏ. Việc giải thích nghĩa của từ bằng cách gì?

Phân tích các thành tố cấu tạo.
Câu 7:
Qua đoạn trích trên, Cúc Hoa hiện lên là người như thế nào?
Qua đoạn trích trên, Cúc Hoa hiện lên là người như thế nào?

Người vợ hiền, dâu thảo, hết lòng vì chồng và nhà chồng.
Câu 8:
Cảm nhận của anh/ chị về nhân vật Cúc Hoa qua đoạn thơ:
Một ngày ba bữa chẳng rời,
Nuôi thầy, nuôi mẹ lại nuôi cả chồng.
Nàng thời nhiều ít cũng xong
Đói no chẳng quản miễn chồng làm nên.
Cảm nhận của anh/ chị về nhân vật Cúc Hoa qua đoạn thơ:
Một ngày ba bữa chẳng rời,
Nuôi thầy, nuôi mẹ lại nuôi cả chồng.
Nàng thời nhiều ít cũng xong
Đói no chẳng quản miễn chồng làm nên.

Nhân vật Cúc Hoa hết lòng vì chồng và gia đình chồng, lo lắng cho mẹ chồng. Mong gia đình có đầy đủ bữa ăn hàng ngày còn bản thân nàng thì như nào cũng không đáng lo vì chỉ mong chồng có thể công thành danh toại, làm nên sự nghiệp.
Câu 9:
Theo anh/ chị văn bản trên có những chủ đề nào? Hãy xác định chủ đề chính và ít nhất một chủ đề phụ của văn bản.
Theo anh/ chị văn bản trên có những chủ đề nào? Hãy xác định chủ đề chính và ít nhất một chủ đề phụ của văn bản.

HS có thể nêu nêu chủ đề chính và phụ, gợi ý như sau:
- Chủ đề chính: Vẻ đẹp phẩm chất (hiếu thảo, thủy chung) của người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa
- Chủ đề phụ:
+ Số phận đầy thiệt thòi, vất vả của người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa
+ Tình thương yêu của mẹ chồng đối với nàng dâu trong xã hội đầy ngang trái xưa
…
Hot: 500+ Đề thi vào 10 file word các Sở Hà Nội, TP Hồ Chí Minh có đáp án 2025 (chỉ từ 100k). Tải ngay
CÂU HỎI HOT CÙNG CHỦ ĐỀ
Lời giải
Gợi ý:
- Đảm bảo yêu cầu về hình thức, dung lượng
+ Viết đúng hình thức bài văn đầy đủ ba phần Mở bài, Thân bài, Kết bài.
+ Đảm bảo dung lượng khoảng 400 chữ.
- Xác định đúng vấn đề nghị luận: Phân tích nhân vật Cúc Hoa và trình bày giá trị văn hóa và triết lí nhân sinh của đoạn trích phần Đọc hiểu.
- Lựa chọn được các thao tác lập luận phù hợp; kết hợp nhuần nhuyễn lí lẽ và dẫn chứng; trình bày được hệ thống ý phù hợp theo bố cục ba phần của bài văn nghị luận. Có thể triển khai theo hướng:
* Mở bài:
- Giới thiệu chung về tác phẩm và nhân vật Cúc Hoa.
* Thân bài: Phân tích nhân vật Cúc Hoa
- Người con dâu hiếu thảo: Gia đình khó khăn nhưng nàng vẫn lo lắng cho bữa ăn qua ngày của mẹ chồng hơn chính bản thân
Mẹ chồng thấy dâu thảo hiền
Đôi hàng nước mắt chảy liền như tuôn.
Khó nghèo có mẹ có con,
Ít nhiều gan sẻ (1) vẹn tròn cho nhau
Lòng con nhường nhịn bấy lâu
Mẹ ăn cơm ấy ngon đâu hỡi nàng
Cúc Hoa nước mắt hai hàng:
“Lạy mẹ cùng chàng chở quản (2) tôi
Gọi là cơm tấm cạnh lê (3)
Mẹ ăn đỡ dạ kéo khi võ vàng (4)
- Người vợ thủy chung, biết hi sinh và lo lăng cho chồng: Lo lắng cho bữa ăn của chồng, bán vàng để lấy tiền thuê thầy thợ cho chồng ăn học và thi cử đỗ đạt, không quản ngại gian khó và không lo lắng cho chính mình
+ Lo lắng cho bữa ăn của chồng
Chàng ăn cho sống mình chàng,
Dốc lòng kinh sử văn chương đạo là.
Kể chi phận thiếp đàn bà,
Khó nghèo chớ quản nỗi nhà thảm thương”.
+ Bán vàng để lo tiền ăn học cho chồng
Kể đoạn Cúc Hoa bán vàng,
Bán cho trưởng giả giàu sang hơn người.
Hai bên giả cả hẳn hoi,
Bắc cân định giả được ngoài tám mươi
“Khuyên chàng kinh sử dùi mài cho hay.
Thiếp xin rước một ông thầy,
Để chàng học tập đêm ngày thiếp nuôi”.
+ Lo lắng nuôi cả gia đình chồng để chồng đỗ đạt
Một ngày ba bữa chẳng rời,
Nuôi thầy, nuôi mẹ lại nuôi cả chồng.
+ Khấn trời lạy Phật, khuyên nhủ chồng cố gắng đỗ đạt để yên lòng gia đình
Khấn trời lạy Phật đòi phen:
“Chứng minh phù hộ ước nguyền chồng tôi.
Khuyên chàng khuya sớm hôm mai,
Cố chăm việc học đua tài cho hay.
Một mai, có gặp rồng mây (6)
Bảng vàng may được tỏ bày họ tên (7)
Trước là sạch nợ bút nghiên (8)
Sau là thiếp cũng được yên lòng này”.
- Người thấu tình đạt lí, cam chịu chấp nhận thiệt thòi: Nàng chấp nhận thân phận nữ nhi để chồng có cơ hội phát triển và gây dựng sự nghiệp
Chàng ăn cho sống mình chàng,
Dốc lòng kinh sử văn chương đạo là.
Kể chi phận thiếp đàn bà,
Khó nghèo chớ quản nỗi nhà thảm thương”.
Giá trị văn hóa, triết lí nhân sinh
- Mối quan hệ mẹ chồng – nàng dâu không theo lẽ thường
Thông thường là mối quan hệ nhiều mâu thuẫn, nhưng mẹ chồng và nàng dâu hết mực yêu thương, hòa thuận, nàng dâu hiếu thảo khiến mẹ chồng cảm động, sẵn lòng đồng cam cộng khổ không lời oán trách
Mẹ chồng thấy dâu thảo hiền
Đôi hàng nước mắt chảy liền như tuôn.
Khó nghèo có mẹ có con,
Ít nhiều gan sẻ (1) vẹn tròn cho nhau
- Số phận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa: Họ sẵn sàng hi sinh sự hạnh phúc, đầy đủ ấm no của mình để chồng và gia đình chồng được toàn vẹn, bởi với người phụ nữ đó là trách nhiệm, là lẽ đương nhiên mà bất kì người phụ nữ nào trong xã hội xưa cũng đều phải làm. Tư tưởng trọng nam khinh nữ và những áp lực vô hình đè lên vai người phụ nữ xưa.
Kể chi phận thiếp đàn bà,
Khó nghèo chớ quản nỗi nhà thảm thương”.
* Kết bài:
- Khát quát suy nghĩ, cảm nhận về nhân vật Cúc Hoa và giá trị văn hóa, triết lý nhân sinh thể hiện trong đoạn trích.
Bài viết tham khảo
Trong kho tàng truyện thơ Nôm của văn học Việt Nam trung đại, Tống Trân – Cúc Hoa là tác phẩm giàu giá trị nhân văn, phản ánh chân thực thân phận con người trong xã hội phong kiến xưa. Đoạn trích về nhân vật Cúc Hoa đã khắc họa thành công hình tượng người phụ nữ Việt Nam hiền thục, thủy chung và giàu đức hi sinh, qua đó gửi gắm những triết lí sâu sắc về tình người, về đạo làm vợ, làm con trong gia đình.
Trước hết, Cúc Hoa hiện lên là người con dâu hiếu thảo, nặng nghĩa tình. Dù cuộc sống gia đình túng thiếu, nàng vẫn chăm lo bữa ăn giấc ngủ cho mẹ chồng, sẵn sàng nhường nhịn, chịu thiệt thòi về mình để mẹ chồng được yên lòng. Hình ảnh “Mẹ ăn đỡ dạ kéo khi võ vàng” cùng “đôi hàng nước mắt chảy liền như tuôn” khi thấy mẹ chồng cảm động đã cho thấy tấm lòng nhân hậu, sự hiếu thảo của nàng dâu hiền với người mẹ già khổ cực. Trong xã hội phong kiến vốn nhiều định kiến về mối quan hệ mẹ chồng – nàng dâu, tình cảm gắn bó, yêu thương giữa Cúc Hoa và mẹ chồng thật đáng quý, góp phần làm nên vẻ đẹp nhân văn của tác phẩm.
Không chỉ hiếu thảo, Cúc Hoa còn là người vợ thủy chung, giàu đức hi sinh và hết lòng vì chồng. Nàng lo lắng cho bữa ăn, giấc ngủ, tương lai của Tống Trân, sẵn sàng bán cả vàng – tài sản quý giá duy nhất – để thuê thầy cho chồng ăn học. Nàng tự nhận “Kể chi phận thiếp đàn bà” và chấp nhận mọi gian khó, tủi cực chỉ mong chồng “dùi mài kinh sử” để một ngày kia “bảng vàng tỏ bày họ tên”. Nàng vừa làm lụng vất vả, vừa nuôi mẹ, nuôi thầy, nuôi chồng, còn mình thì “đói no chẳng quản”. Tấm lòng vị tha, sự thủy chung, hi sinh thầm lặng của Cúc Hoa đã làm sáng ngời phẩm chất cao đẹp của người phụ nữ Việt Nam xưa.
Đồng thời, nhân vật Cúc Hoa cũng thể hiện sự cam chịu, thấu tình đạt lí của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Họ coi việc hi sinh, chịu đựng vì chồng con là lẽ đương nhiên, là bổn phận không thể chối từ. Chính tư tưởng “trọng nam khinh nữ” đã khiến người phụ nữ như Cúc Hoa không có quyền tự quyết số phận, cả cuộc đời chỉ gắn với chồng con và gia đình chồng.
Đoạn trích còn gửi gắm những giá trị văn hóa và triết lí nhân sinh sâu sắc. Đó là tình mẹ chồng – nàng dâu gắn bó, yêu thương trong cảnh nghèo khó; là tấm lòng thủy chung, hi sinh cao đẹp của người vợ trong xã hội xưa; và cũng là nỗi day dứt về số phận thiệt thòi của người phụ nữ dưới tư tưởng trọng nam khinh nữ nặng nề. Tác phẩm đề cao tình nghĩa, đức hi sinh, lòng nhân ái – những giá trị bền vững làm nên vẻ đẹp tâm hồn con người Việt Nam.
Như vậy, qua hình tượng Cúc Hoa, Tống Trân – Cúc Hoa không chỉ ca ngợi đức hi sinh, sự thủy chung, hiếu thảo của người phụ nữ mà còn gợi suy nghĩ về thân phận nhỏ bé, nhiều đau khổ của họ trong xã hội phong kiến, để từ đó ta thêm trân trọng và yêu quý những vẻ đẹp nhân văn trong tâm hồn con người Việt Nam xưa.
Lời giải
Gợi ý:
- Đảm bảo yêu cầu về hình thức, dung lượng
+ Viết đúng hình thức đoạn văn (diễn dịch, quy nạp, móc xích…).
+ Đảm bảo dung lượng khoảng 200 chữ.
- Xác định đúng vấn đề nghị luận
+ Suy nghĩ về số phận của những người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa.
- Hệ thống ý: Số phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa: Người thiệt thỏi, vất vả, biết hy sinh, chịu đựng nhưng cũng là người đầy hiếu thảo, thủy chung, hết lòng hết dạ vì nhà chồng
+ Biểu hiện:
. Chấp nhận chịu khổ (nhịn ăn, nhịn uống) để chồng có thể có cơ hội học tập, có tiền đồ sáng lạng.
. Hy sinh tất cả của cải hay những gì mình có để tạo cơ hội cho chồng học tập đỗ đạt.
. Họ tự nhận thân phận thiệt thòi, cam chịu những định kiến xã hội và không có quyền tự quyết cuộc đời của mình.
- Phát triển đoạn văn logic, thuyết phục
+ Dẫn chứng từ văn bản để minh chứng cho nhận định.
+ Thể hiện rõ suy nghĩ, quan điểm về số phận của những người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa.
- Đảm bảo ngữ pháp, liên kết:
+ Trình bày rõ ràng, mạch lạc, không mắc lỗi chính tả.
- Sáng tạo
+ Cách diễn đạt mới mẻ, có suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận.
Đoạn văn tham khảo
Đọc đoạn thơ trong truyện Tống Trân – Cúc Hoa, ta thấy rõ số phận nhiều thiệt thòi của người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa. Tiêu biểu là hình ảnh Cúc Hoa – người con dâu hiếu thảo, người vợ đảm đang, thủy chung, hết lòng vì chồng vì mẹ. Nàng chấp nhận cuộc sống khó nghèo, sẵn sàng nhịn ăn, nhịn mặc, bán cả vàng của mẹ chồng cho để rước thầy về dạy học cho chồng, chỉ mong chồng đỗ đạt, làm rạng danh gia đình. Lời tâm sự “Kể chi phận thiếp đàn bà, Khó nghèo chớ quản nỗi nhà thảm thương” càng làm nổi bật thân phận cam chịu, nhỏ bé của người phụ nữ trong xã hội xưa – nơi họ không có quyền tự quyết số phận, cả cuộc đời gắn liền với chồng con, với gia đình chồng. Dù vậy, chính họ lại là những người giàu tình thương, đầy đức hi sinh, chịu đựng mọi đau khổ, thiệt thòi để vun vén hạnh phúc và danh dự cho gia đình. Qua đó, ta càng thêm trân trọng phẩm chất cao đẹp của người phụ nữ Việt Nam trong xã hội cũ: hiếu thảo, thủy chung và giàu đức hi sinh.
Lời giải
Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.
Lời giải
Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.
Lời giải
Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.
Lời giải
Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.