Ba đồng một mớ mộng mơ (trích)
(Nguyễn Ngọc Tư)
Khi bước qua cái cửa xiêu của căn nhà xiêu, khi mắt chị còn chưa quen với cái không gian tối tăm bên trong nhà, cái mà chị nhìn rõ nhất là ánh mắt sáng quắc của thằng bé. Nó nằm cong queo trên giường, héo như một đứa trẻ lên năm. Xương nó nhô ra mẩu nào cũng bén ngót. Miệng liên tục đớp không khí, nước dãi ri rỉ chảy ra bên khóe môi sần sùi, thằng bé nối một sợi nhìn bền dai vào chị, hút chị đến ngồi với nó. Và từ đó, nó không buông tay chị ra nữa. Cứ níu lấy, cứ ghì chặt, mắt ầng ậc nước, cổ họng phát ra những âm thanh gru gru vô nghĩa… thằng bé tỏ ra quyến luyến không rời.
Bà mẹ xoắn quần ống cao ống thấp, chân rơi ra những mảng bùn khô, nói thằng nhỏ đã hai mươi mấy tuổi rồi, bà không nhớ rõ vì có nghĩa gì đâu, nó bao nhiêu tuổi thì mãi mãi như đứa trẻ như vầy thôi. Chị bỗng có cảm giác cách nắm tay này, cách nhìn da diết này là của một chàng trai. Máu mơ mộng trỗi dậy.
Nên chị nán thêm chút nữa trong khi những tình nguyện viên khác trong nhóm công tác xã hội đã lên xe ngồi chờ. Chị muốn biết thằng bé sẽ nói gì với chị. Cái sự chị sắp đi khiến nó kích động dữ dội, cơ thể co giật, mặt méo xệch, miệng há to và nước dãi chảy ra ròng ròng. Nó đang cố nói. Chị cố đợi một âm thanh khác với những tiếng gru gru tuyệt vọng. Chị ghé tai vào gần, rồi gần hơn nữa, đến nỗi tai chị gần như chạm môi nó.
Và nó nói bật thành tiếng. Bằng tất cả tinh lực.
Chị ra xe, quệt nước mắt chị gượng đùa, trời đất, tưởng đâu nó mê mình. Đùa, vì chị không mơ mộng đến vậy, chị mong nó nói “Ở chơi!”, nhưng suốt buổi ngồi với thằng bé, thấy nó nhìn mình khi dịu dàng khi rát bỏng, làm những cử chỉ khi trìu mến khi riết róng, chị không bao giờ tưởng tượng là nó nói “TIỀN!”.
Có người nghe chuyện nói đáng đời, ai biểu lãng mạn chi.
Nhớ hồi mới lấy chồng, chị mua tặng mẹ chồng ở quê cái nồi cơm điện. Mẹ đem cất vì “nấu cái này không có cơm cháy với nước cơm cho tụi nhỏ chan…”. Tặng mẹ mấy bộ đồ bà cũng khổ sở phân trần, “màu sáng quá má ra vườn sợ dính mủ chuối…”. Chị mua truyện tranh đem về cho bầy em, tụi nó háo hức cầm lên rồi hỏi bằng giọng háo hức hơn nữa, “chị hai có mua bánh mì không?”. Cứ trớt quớt vậy. Mỗi lần nhìn bình hoa vải chị mang về mẹ lấy túi ni lông bọc lại cho khỏi bụi, cho nó đỡ chói lên đơn độc giữa căn nhà vách lá, chị có chút mắc cỡ. Giờ thì chị chỉ mua đường, nước mắm… và chắc chắn chúng được hồ hởi đón nhận. Đôi lần chị thấy hơi cay đắng, đời người sao chỉ quẩn quanh với những thứ tầm thường bột ngọt, xà bông…
Trước hôm mẹ chồng qua đời, bà viết cái thư. Chị vừa đọc vừa khóc. Thư chỉ dặn chuyện tiền nong, đất đai. Lời cuối cùng, như chị vẫn thường quen đọc ở đâu đó, rằng “mẹ để lại muôn vàn tình yêu thương cho các con”, thì mẹ chồng chị viết “bỏ lỗi cho má, vì má mót được có nhiêu đó, chia cho tụi con hơi khó…”. Chị biết là mẹ thương con theo kiểu của mẹ, biết đâu còn nhiều hơn những bà mẹ kia, nhưng vẫn hơi bẽ bàng.
Biết là đời giờ ô trọc, nhưng chị thích mua vé đi tàu mơ mộng, không hay giờ tàu đó cũng chở vịt, gà… mất rồi. Lảo đảo xuống tàu mới biết tại mình hay tưởng mà ra nông nỗi. Có lần chồng chị dúi tiền vào túi kêu vợ đi mua kem dưỡng da tay. Chị sướng suốt buổi chiều, miệng tủm tỉm cười bâng quơ không đừng được. Sau đó anh còn khiến chị ràn rụa nước mắt khi bảo “nhìn cái tay nhăn nheo đi nhào trộn thức ăn là thấy hết ham, thấy mất ngon rồi…”.
Chị ngồi ngắm mãi bàn tay, nghĩ, người ta nói yêu nó một câu thì có mất gì đâu. “Tôi xin người cứ gian dối, cho tôi tưởng người cũng yêu tôi…”, câu hát đã có thời chị ghét, sao giờ thấy đúng ý mình.
(Truyện ngắn Ba đồng một mớ mộng mơ, Nguyễn Ngọc Tư(1); dẫn theo https://isach.info/)
Chú thích:
(1) Nguyễn Ngọc Tư sinh năm 1976, quê ở Cà Mau, là nữ nhà văn trẻ của Hội Nhà văn Việt Nam. Nguyễn Ngọc Tư sáng tác thành công ở nhiều thể loại: truyện ngắn, tản văn, tiểu thuyết,... Tác giả hướng ngòi bút về những thân phận, nỗi đau, sự bối rối thường trực của con người trước những biến cố của cuộc đời. Văn của Nguyễn Ngọc Tư trong sáng, mộc mạc, thể hiện tâm hồn tinh tế, nhạy cảm, giàu yêu thương.
Ba đồng một mớ mộng mơ (trích)
(Nguyễn Ngọc Tư)
Khi bước qua cái cửa xiêu của căn nhà xiêu, khi mắt chị còn chưa quen với cái không gian tối tăm bên trong nhà, cái mà chị nhìn rõ nhất là ánh mắt sáng quắc của thằng bé. Nó nằm cong queo trên giường, héo như một đứa trẻ lên năm. Xương nó nhô ra mẩu nào cũng bén ngót. Miệng liên tục đớp không khí, nước dãi ri rỉ chảy ra bên khóe môi sần sùi, thằng bé nối một sợi nhìn bền dai vào chị, hút chị đến ngồi với nó. Và từ đó, nó không buông tay chị ra nữa. Cứ níu lấy, cứ ghì chặt, mắt ầng ậc nước, cổ họng phát ra những âm thanh gru gru vô nghĩa… thằng bé tỏ ra quyến luyến không rời.
Bà mẹ xoắn quần ống cao ống thấp, chân rơi ra những mảng bùn khô, nói thằng nhỏ đã hai mươi mấy tuổi rồi, bà không nhớ rõ vì có nghĩa gì đâu, nó bao nhiêu tuổi thì mãi mãi như đứa trẻ như vầy thôi. Chị bỗng có cảm giác cách nắm tay này, cách nhìn da diết này là của một chàng trai. Máu mơ mộng trỗi dậy.
Nên chị nán thêm chút nữa trong khi những tình nguyện viên khác trong nhóm công tác xã hội đã lên xe ngồi chờ. Chị muốn biết thằng bé sẽ nói gì với chị. Cái sự chị sắp đi khiến nó kích động dữ dội, cơ thể co giật, mặt méo xệch, miệng há to và nước dãi chảy ra ròng ròng. Nó đang cố nói. Chị cố đợi một âm thanh khác với những tiếng gru gru tuyệt vọng. Chị ghé tai vào gần, rồi gần hơn nữa, đến nỗi tai chị gần như chạm môi nó.
Và nó nói bật thành tiếng. Bằng tất cả tinh lực.
Chị ra xe, quệt nước mắt chị gượng đùa, trời đất, tưởng đâu nó mê mình. Đùa, vì chị không mơ mộng đến vậy, chị mong nó nói “Ở chơi!”, nhưng suốt buổi ngồi với thằng bé, thấy nó nhìn mình khi dịu dàng khi rát bỏng, làm những cử chỉ khi trìu mến khi riết róng, chị không bao giờ tưởng tượng là nó nói “TIỀN!”.
Có người nghe chuyện nói đáng đời, ai biểu lãng mạn chi.
Nhớ hồi mới lấy chồng, chị mua tặng mẹ chồng ở quê cái nồi cơm điện. Mẹ đem cất vì “nấu cái này không có cơm cháy với nước cơm cho tụi nhỏ chan…”. Tặng mẹ mấy bộ đồ bà cũng khổ sở phân trần, “màu sáng quá má ra vườn sợ dính mủ chuối…”. Chị mua truyện tranh đem về cho bầy em, tụi nó háo hức cầm lên rồi hỏi bằng giọng háo hức hơn nữa, “chị hai có mua bánh mì không?”. Cứ trớt quớt vậy. Mỗi lần nhìn bình hoa vải chị mang về mẹ lấy túi ni lông bọc lại cho khỏi bụi, cho nó đỡ chói lên đơn độc giữa căn nhà vách lá, chị có chút mắc cỡ. Giờ thì chị chỉ mua đường, nước mắm… và chắc chắn chúng được hồ hởi đón nhận. Đôi lần chị thấy hơi cay đắng, đời người sao chỉ quẩn quanh với những thứ tầm thường bột ngọt, xà bông…
Trước hôm mẹ chồng qua đời, bà viết cái thư. Chị vừa đọc vừa khóc. Thư chỉ dặn chuyện tiền nong, đất đai. Lời cuối cùng, như chị vẫn thường quen đọc ở đâu đó, rằng “mẹ để lại muôn vàn tình yêu thương cho các con”, thì mẹ chồng chị viết “bỏ lỗi cho má, vì má mót được có nhiêu đó, chia cho tụi con hơi khó…”. Chị biết là mẹ thương con theo kiểu của mẹ, biết đâu còn nhiều hơn những bà mẹ kia, nhưng vẫn hơi bẽ bàng.
Biết là đời giờ ô trọc, nhưng chị thích mua vé đi tàu mơ mộng, không hay giờ tàu đó cũng chở vịt, gà… mất rồi. Lảo đảo xuống tàu mới biết tại mình hay tưởng mà ra nông nỗi. Có lần chồng chị dúi tiền vào túi kêu vợ đi mua kem dưỡng da tay. Chị sướng suốt buổi chiều, miệng tủm tỉm cười bâng quơ không đừng được. Sau đó anh còn khiến chị ràn rụa nước mắt khi bảo “nhìn cái tay nhăn nheo đi nhào trộn thức ăn là thấy hết ham, thấy mất ngon rồi…”.
Chị ngồi ngắm mãi bàn tay, nghĩ, người ta nói yêu nó một câu thì có mất gì đâu. “Tôi xin người cứ gian dối, cho tôi tưởng người cũng yêu tôi…”, câu hát đã có thời chị ghét, sao giờ thấy đúng ý mình.
(Truyện ngắn Ba đồng một mớ mộng mơ, Nguyễn Ngọc Tư(1); dẫn theo https://isach.info/)
Chú thích:
(1) Nguyễn Ngọc Tư sinh năm 1976, quê ở Cà Mau, là nữ nhà văn trẻ của Hội Nhà văn Việt Nam. Nguyễn Ngọc Tư sáng tác thành công ở nhiều thể loại: truyện ngắn, tản văn, tiểu thuyết,... Tác giả hướng ngòi bút về những thân phận, nỗi đau, sự bối rối thường trực của con người trước những biến cố của cuộc đời. Văn của Nguyễn Ngọc Tư trong sáng, mộc mạc, thể hiện tâm hồn tinh tế, nhạy cảm, giàu yêu thương.
Xác định dấu hiệu nhận biết ngôi kể của truyện ngắn trên.
Câu hỏi trong đề: 40 Ngữ liệu ngoài sách giáo khoa lớp 12 phần Truyện !!
Quảng cáo
Trả lời:
- Ngôi kể thứ ba.
- Dấu hiệu nhận biết: Người kể không trực tiếp tham gia câu chuyện, giấu mình nhưng biết hết tất cả và kể lại toàn bộ câu chuyện; nhân vật được gọi là “chị”, “thằng bé”...
Câu hỏi cùng đoạn
Câu 2:
Hình ảnh thằng bé trong đoạn trích được miêu tả như thế nào? Tác giả muốn gợi ra điều gì qua hình ảnh ấy?
Thằng bé nằm cong queo, thân hình gầy guộc, co giật, chỉ phát ra tiếng “gru gru”, cuối cùng dồn sức bật ra tiếng “TIỀN!”. → Hình ảnh ấy gợi bi kịch của một phận người tật nguyền, đồng thời phản chiếu thực tế khắc nghiệt khi ngay cả những khao khát vô thức cũng bị ám ảnh bởi đồng tiền.
Câu 3:
Chỉ ra những từ ngữ, hình ảnh miêu tả đôi mắt của “thằng bé” mà nhân vật “chị” nhìn thấy trong đoạn văn mở đầu của tác phẩm.
Những từ ngữ, hình ảnh miêu tả đôi mắt “thằng bé”: ánh mắt sáng quắc, mắt ầng ậc nước.
Câu 4:
Phân tích nét tính cách, phẩm chất nổi bật của nhân vật “chị” trong đoạn trích.
- Giàu tình cảm, biết sẻ chia (nán lại bên thằng bé, mong được nghe nó nói).
- Có tâm hồn mơ mộng, tinh tế (liên tưởng nắm tay và ánh mắt của thằng bé như của một chàng trai).
- Tuy vậy, luôn phải đối diện với thực tế đời sống khắc nghiệt, đầy nỗi chua xót.
Câu 5:
Vì sao có thể nói nhân vật “chị” vừa mang vẻ đẹp lãng mạn, vừa mang nỗi cay đắng hiện thực?
Chị thích “mua vé đi tàu mơ mộng”, khao khát được sống bằng tình yêu thương, nhưng thực tế lại buộc chị đối diện với nhu cầu vật chất tầm thường (tiền, cơm, xà bông…).
→ Vẻ đẹp lãng mạn ấy càng nổi bật trên nền hiện thực phũ phàng, cho thấy bi kịch tinh thần của nhân vật.
Câu 6:
Phân tích hiệu quả nghệ thuật của biện pháp tu từ liệt kê trong các câu văn sau: Giờ thì chị chỉ mua đường, nước mắm… và chắc chắn chúng được hồ hởi đón nhận. Đôi lần chị thấy hơi cay đắng, đời người sao chỉ quẩn quanh với những thứ tầm thường bột ngọt, xà bông…
- Biện pháp tu từ liệt kê: đường, nước mắm, bột ngọt, xà bông.
- Hiệu quả nghệ thuật:
+ Tăng tính cụ thể, sinh động, hấp dẫn cho lời văn.
+ Nhấn mạnh nỗi niềm cay đắng của chị - một con người luôn ý thức được giá trị, sự cần thiết của đời sống tinh thần nhưng đành phải chiều theo người thân, chỉ còn biết đến cuộc sống vật chất nghèo nàn, tầm thường.
+ Thể hiện nỗi chua xót, trăn trở của nhà văn khi nhu cầu đời sống tinh thần của con người bị cản trở bởi sự nghèo đói.
Câu 7:
Anh/chị suy nghĩ như thế nào về chi tiết: “Biết là đời giờ ô trọc, nhưng chị thích mua vé đi tàu mơ mộng, không hay giờ tàu đó cũng chở vịt, gà… mất rồi.”?
- Nội dung chi tiết: diễn tả nhận thức của “chị” về hiện thực cuộc sống tầm thường và niềm hi vọng về một cuộc sống có chút lãng mạn, mộng mơ dù niềm hi vọng ấy rất mong manh.
- Suy nghĩ:
+ Đây là một chi tiết quan trọng giúp cốt truyện phát triển, khắc họa rõ nét chiều sâu tâm lí nhân vật “chị” và chủ đề của tác phẩm.
+ Chi tiết cho thấy sự sáng tạo của nhà văn trong việc khám phá chân lí đời sống: Dù đời thực khắc nghiệt nhưng những khoảnh khắc lãng mạn, niềm hi vọng nhỏ nhoi sẽ đem đến niềm vui, niềm hạnh phúc cho con người.
+ Chi tiết góp phần thể hiện chiều sâu tư tưởng của tác phẩm: Con người cần biết trân trọng những giá trị tinh thần đẹp đẽ, đừng để nó bị lấn át bởi nhu cầu vật chất tầm thường.
Câu 8:
Nêu một số nét đặc sắc nghệ thuật trong việc xây dựng nhân vật “chị”.
- Cốt truyện giản dị, xoay quanh những mẩu chuyện đời thường.
- Miêu tả tâm lí tinh tế qua những chi tiết nhỏ (ánh mắt, nắm tay, giọng nói, hành động…).
- Giọng văn vừa nhẹ nhàng, sâu lắng vừa pha chút hài hước, giúp giảm bớt sự nặng nề của hiện thực.
- Nhân vật không có tên riêng, tạo tính khái quát.
Câu 9:
Từ chủ đề của truyện ngắn trên, anh/chị hãy chia sẻ góc nhìn của mình về lối sống thực dụng trong xã hội hiện nay.
- Chủ đề của truyện ngắn: Hiện thực về một cuộc sống thường ngày đầy khó khăn và những sự mơ mộng, lãng mạn luôn nhen nhóm trong tâm hồn con người; thức tỉnh con người nếu luôn đề cao vật chất hơn tinh thần rất dễ dẫn đến lối sống thực dụng.
- Chia sẻ góc nhìn của bản thân: Xã hội phát triển đã dẫn đến một bộ phận người sống thực dụng hơn. Đây là cách sống quá coi trọng giá trị vật chất, luôn chạy theo những nhu cầu trước mắt, đề cao lợi ích bản thân lên trên tất cả mà quên đi những giá trị tinh thần. Sống thực dụng dẫn đến những tác hại nghiêm trọng. Con người cần đấu tranh với bản thân để loại trừ lối sống thực dụng. Mỗi người cần cân bằng, nâng cao cả đời sống vật chất và đời sống tinh thần để cuộc sống luôn tốt đẹp và có ý nghĩa hơn.
Hot: 1000+ Đề thi giữa kì 1 file word cấu trúc mới 2025 Toán, Văn, Anh... lớp 1-12 (chỉ từ 60k). Tải ngay
- Sổ tay Ngữ Văn 12 (chương trình mới) ( 18.000₫ )
- 30 đề thi tốt nghiệp môn Ngữ Văn (có đáp án chi tiết) ( 38.000₫ )
- Sổ tay lớp 12 các môn Toán, Lí, Hóa, Văn, Sử, Địa, KTPL (chương trình mới) ( 36.000₫ )
- Tuyển tập 30 đề thi đánh giá năng lực Đại học Quốc gia Hà Nội, TP Hồ Chí Minh (2 cuốn) ( 150.000₫ )
CÂU HỎI HOT CÙNG CHỦ ĐỀ
Lời giải
Gợi ý:
- Đảm bảo yêu cầu về hình thức, dung lượng
+ Viết đúng hình thức bài văn đầy đủ ba phần Mở bài, Thân bài, Kết bài.
+ Đảm bảo dung lượng khoảng 600 chữ.
- Xác định đúng vấn đề nghị luận: Phân tích văn bản ngữ liệu “Ba đồng một mớ mộng mơ” của Nguyễn Ngọc Tư.
- Lựa chọn được các thao tác lập luận phù hợp; kết hợp nhuần nhuyễn lí lẽ và dẫn chứng; trình bày được hệ thống ý phù hợp theo bố cục ba phần của bài văn nghị luận. Có thể triển khai theo hướng:
* Mở bài:
- Giới thiệu tác giả Nguyễn Ngọc Tư: cây bút nữ nổi tiếng của văn học Nam Bộ đương đại, giàu cảm xúc, có giọng văn mộc mạc, giàu nhân văn.
- Giới thiệu tác phẩm “Ba đồng một mớ mộng mơ”: khắc họa sự va chạm giữa thực tại đời sống khắc nghiệt và những khát khao, mơ mộng của con người.
- Nêu vấn đề nghị luận: Ngữ liệu phản ánh bi kịch của những giấc mơ nhỏ bé trong đời thường bị thực tế khốc liệt làm vụn vỡ, đồng thời gợi suy ngẫm về giá trị thật của tình cảm, hạnh phúc.
* Thân bài:
a. Phân tích tình huống trong đoạn trích
- Câu chuyện xoay quanh cái nhìn của nhân vật “chị” khi tiếp xúc với một đứa bé tàn tật, rồi mở ra nhiều hồi ức, trải nghiệm trong đời sống gia đình.
- Tình huống: từ sự mơ mộng “muốn nghe điều dịu dàng” đến sự thật trần trụi “tiền”.
- Đây là chi tiết giàu kịch tính, tạo điểm rơi cảm xúc, phơi bày khoảng cách giữa lý tưởng – hiện thực.
b. Biểu hiện của “mớ mộng mơ”
- “Chị” khao khát một chút lãng mạn, mong sự gắn bó tình cảm hơn là lợi ích vật chất.
- Trong nhiều kỷ niệm: mua quà cho em, cho mẹ chồng, mong nhận tình thương yêu giản dị từ chồng… nhưng đều vỡ mộng trước sự thật phũ phàng.
- Hình ảnh “vé đi tàu mơ mộng” là biểu tượng: con người muốn thoát khỏi đời sống khắc nghiệt, nhưng rồi phải đối diện với thực tế đầy trớ trêu.
c. Ý nghĩa phê phán và nhân văn
- Phê phán xã hội nghèo khó, thực dụng, nơi vật chất lấn át tình cảm.
- Bộc lộ nỗi buồn bẽ bàng của những người phụ nữ luôn khao khát được yêu thương, trân trọng.
- Tác phẩm đặt ra câu hỏi: con người có còn dám mơ mộng, hay phải chấp nhận thực tế để tồn tại?
d. Giá trị nghệ thuật
- Giọng văn đặc trưng của Nguyễn Ngọc Tư: dung dị, chân thật, thấm đẫm chất trữ tình và hiện thực.
- Nghệ thuật xây dựng tình huống bất ngờ, giàu sức gợi.
- Khắc họa nhân vật tâm lí tinh tế, ngôn ngữ giàu cảm xúc, pha lẫn chất mỉa mai nhẹ nhàng.
* Kết bài:
- Khẳng định: “Ba đồng một mớ mộng mơ” không chỉ kể chuyện đời thường mà còn phơi bày bi kịch muôn thuở: mơ mộng luôn đối diện với hiện thực.
- Qua đó, Nguyễn Ngọc Tư gửi gắm niềm cảm thông cho những kiếp người nhỏ bé, đồng thời nhắc nhở mỗi chúng ta: dẫu đời khắc nghiệt, con người vẫn cần những mộng mơ để nuôi dưỡng tâm hồn.
Bài văn tham khảo
Trong nền văn học Việt Nam đương đại, Nguyễn Ngọc Tư là một trong những cây bút nổi bật với giọng văn mộc mạc, giàu cảm xúc và đậm chất nhân văn. Những trang viết của chị thường xoáy sâu vào những phận người nhỏ bé, lam lũ, để từ đó gợi ra những trăn trở nhân sinh sâu sắc. Truyện ngắn Ba đồng một mớ mộng mơ là một tác phẩm tiêu biểu, thể hiện sự va chạm khốc liệt giữa hiện thực đời sống nặng nề và những giấc mơ tinh khôi của con người. Đoạn trích trong tác phẩm đã mang đến cho người đọc nhiều suy ngẫm về bi kịch của những mơ mộng giản dị bị thực tế phủ phàng vùi dập, đồng thời nhấn mạnh giá trị của tình cảm chân thành trong cuộc sống.
Nguyễn Ngọc Tư xây dựng một tình huống giàu kịch tính: khi nhân vật “chị” tiếp xúc với một cậu bé tàn tật, chị khao khát được nghe nơi em một lời gắn bó, một tiếng gọi trìu mến. Thế nhưng, sự mong chờ ấy lại vỡ òa trong hụt hẫng khi từ đôi môi méo mó của em bật ra một chữ duy nhất: “Tiền!”. Sự đối lập giữa mong ước và thực tế ấy đã tạo ra một cú chấn động tinh thần mạnh mẽ, bộc lộ khoảng cách xa vời giữa giấc mơ lãng mạn và đời sống cơm áo ngột ngạt. Đó chính là trục chính xuyên suốt toàn bộ tác phẩm.
Ở nhân vật “chị”, ta nhận ra một con người giàu tình cảm, luôn khao khát những giá trị tinh thần. Chị từng mong mẹ chồng trân trọng món quà nhỏ, mong bầy em thích thú với cuốn truyện tranh, mong chồng nói một lời yêu thương… Nhưng tất cả đều chênh vênh, trớt quớt trước nhu cầu vật chất trần trụi: cơm cháy, bánh mì, tiền nong, đất đai… Những giấc mơ mong manh ấy, khi đặt trong hiện thực thực dụng và thiếu thốn, đã trở nên lạc lõng, thậm chí bị coi là “đáng đời” khi tan vỡ. Hình ảnh “vé đi tàu mơ mộng” trở thành một biểu tượng đầy ám ảnh: con người có thể tha thiết được sống trong mộng mơ, nhưng chuyến tàu ấy lại chở nặng vịt gà, bùn đất, cơm áo gạo tiền, để rồi người ta lảo đảo ngã xuống khi nhận ra sự thật.
Tuy nhiên, đằng sau nỗi bẽ bàng, Nguyễn Ngọc Tư không hề phủ nhận giá trị của mộng mơ. Ngược lại, chị cất lên một tiếng thở dài nhân ái cho những khát vọng tình cảm bị chối từ. Bằng ngôn ngữ dung dị, đôi khi pha chút mỉa mai hóm hỉnh, nhà văn khắc họa được bi kịch của những phận người nhỏ bé, đặc biệt là người phụ nữ trong guồng quay đời sống thực dụng. Tác phẩm vì thế vừa có giá trị phê phán xã hội, vừa mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc: con người vẫn cần mơ mộng để tâm hồn không bị chai sạn, để cuộc sống không chỉ còn là những tính toán vụn vặt.
Từ câu chuyện “Ba đồng một mớ mộng mơ”, người đọc nhận ra rằng mơ mộng, dù nhỏ bé, vẫn là một phần tất yếu của cuộc sống. Nó giúp ta nuôi dưỡng lòng nhân ái, khơi dậy niềm tin và giữ lại sự dịu dàng trong tâm hồn giữa hiện thực khốc liệt. Nguyễn Ngọc Tư đã gửi gắm một thông điệp thấm thía: dẫu đời có “ô trọc” đến đâu, hãy trân trọng những mơ mộng mong manh, bởi chính chúng làm nên vẻ đẹp nhân bản cho con người.
Lời giải
Gợi ý:
- Đảm bảo yêu cầu về hình thức, dung lượng
+ Viết đúng hình thức đoạn văn (diễn dịch, quy nạp, móc xích…).
+ Đảm bảo dung lượng khoảng 200 chữ.
- Xác định đúng vấn đề nghị luận
+ Cảm nhận về nhân vật “chị” trong văn bản ngữ liệu “Ba đồng một mớ mộng mơ” của Nguyễn Ngọc Tư.
- Hệ thống ý:
+ Cảm nhận về nhân vật:
. Chị có gia cảnh nghèo nhưng sống giàu tình cảm, luôn chia sẻ, giúp đỡ và quan tâm đến mọi người.
. Chị có một tâm hồn mơ mộng, lãng mạn, tinh tế nhưng phải sống trong môi trường có nhiều người thích thực tế, đề cao vật chất.
. Chị luôn hi vọng có một đời sống tinh thần phong phú, giàu ý nghĩa.
+ Nghệ thuật xây dựng nhân vật: cốt truyện giản đơn, là sự xâu chuỗi của những mẩu chuyện nhỏ nhặt, đời thường; điểm nhìn của người kể chuyện kết hợp với điểm nhìn của nhân vật chính; giọng văn nhẹ nhàng, sâu lắng pha chút hài hước; nhân vật không có tên cụ thể, hiện lên qua hành động và tâm lí, có nét tương phản với các nhân vật còn lại…
=> Đánh giá chung: Qua nhân vật, nhà văn gián tiếp thể hiện quan điểm nhân sinh sâu sắc đồng thời gửi gắm những thông điệp về sống đẹp.
- Phát triển đoạn văn logic, thuyết phục
+ Dẫn chứng từ văn bản để minh chứng cho nhận định.
+ Thể hiện rõ suy nghĩ, cảm xúc về nhân vật “chị” được thể hiện trong văn bản đọc hiểu.
- Đảm bảo ngữ pháp, liên kết:
+ Trình bày rõ ràng, mạch lạc, không mắc lỗi chính tả.
- Sáng tạo
+ Cách diễn đạt mới mẻ, có suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận.
Đoạn văn tham khảo
Trong truyện ngắn Ba đồng một mớ mộng mơ của Nguyễn Ngọc Tư, nhân vật “chị” hiện lên như một người phụ nữ nghèo nhưng giàu tình cảm, luôn sống với tấm lòng sẻ chia và quan tâm đến những người xung quanh. Trước số phận éo le của cậu bé tật nguyền, chị không chỉ dừng lại ở sự thương hại mà còn dành cho em sự lắng nghe, thấu hiểu, thậm chí là cả một chút mơ mộng về ánh mắt quyến luyến của em. Ở chị, ta thấy một tâm hồn lãng mạn, tinh tế, khát khao được sống trong một thế giới có nhiều yêu thương, trân trọng. Thế nhưng, thực tế phũ phàng quanh chị lại đầy những người chỉ quan tâm đến vật chất, đến cái ăn, cái mặc, khiến những mơ mộng ấy trở nên lạc lõng, chênh vênh. Chính sự đối lập ấy càng làm nổi bật vẻ đẹp của một người phụ nữ tuy sống trong nghèo khó nhưng vẫn khao khát một đời sống tinh thần phong phú, giàu ý nghĩa. Bằng giọng văn nhẹ nhàng, pha chút hài hước, Nguyễn Ngọc Tư đã khắc họa thành công nhân vật “chị”, qua đó gửi gắm thông điệp: giữa cuộc sống thực dụng, con người vẫn cần giữ cho mình sự mơ mộng và tình cảm để sống đẹp và nhân văn hơn.
Lời giải
Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.
Lời giải
Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.
Lời giải
Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.
Lời giải
Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.